Câu Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao,... có nghĩa là gì

Answers [ ]

  1. – Nhân vật “ông lão” trong đoạn trích trên là nhân vật ông Hai [ nhân vật chính trong tác phẩm “Làng”]

    – Tâm trạng của ông lão: Ông Hai đang rất vui sướng, mừng rỡ với lí do Tây đốt nhà ông . Hiểu rõ hơn là vì Tây đốt nhà ông chứng tỏ ông không theo Tây và làng ông cũng vậy, làng Chợ Dầu đã được cải chính . Tất cả những điều đó đã làm cho ông như một đứa trẻ con, đi bày tỏ niềm vui sướng ấy cho mọi người như để thanh bạch tấm lòng mình.

    – Vẻ đẹp : Ông là một người nông dân bình thường nhưng mang trong tim lòng yêu làng tha thiết , một tình yêu vĩnh cửu.

    – Đoạn văn:

    Tình yêu làng tha thiết , cháy bỏng chảy trong dòng máu nóng ở con tim những người nông dân bình thường thật rất đáng quý, đáng chân trọng, đáng học hỏi. Tiêu biểu đại diện cho tình yêu đó là nhân vật ông Hai – nhân vật chính trong tác phẩm “Làng ” của nhà văn Kim Lân . Trong những ngày tối tăm tưởng như sẽ mãi mãi như vậy khi nghe tin xấu về làng thì ông Hai lại bỗng dưng vui sướng tột độ khi nghe tin làng được cải chính . Ông đi khoe cho tất cả mọi người về việc nhà ông bị Tây đốt để chứng minh lòng ông một mực theo chân cụ Hồ không theo Tây, đồng thời để thanh bạch cho ngôi làng kính yêu của mình . Niềm vui sướng ấy ông Hai chưa thể ngờ được, nó đến làm ông vui quá! Ông vui đến mức bô bô đi nói cho tất cả mọi người hay, cho mọi người hiểu được tiếng lòng ông trong sạch , ông lúc đó như một đứa trẻ con . Từ đó ta cũng hiểu thêm một phần của ngòi bút tinh tế diễn tả tâm lí nhân vật sâu sắc của tác giả. Thật đáng kính con người như ông Hai – một trái tim ấm áp chảy cùng dòng máu đỏ tươi như màu cờ, yêu làng, yêu đất nước và một mực tin theo Cách Mạng . Đó là một vẻ đẹp vĩnh cửu của người nông dân thời bấy giờ, đại diện là nhân vật ông Hai.

    @Kem

  2. – Ông lão là ông Hai [ nhân vật chính trong tác phẩm ” Làng ” ].

    – Tâm trạng của ông trong đoạn trích : Cảm lúc bồi hồi xen lẫn vui mừng .

    – Thể hiện vẻ đẹp của nhân vật :

    Ông Hai luôn rất tự hào về làng mình , luôn kể với mọi người về làng mình . Cho đến khi nghe tin làng theo giặc , ông lão như không tin vào mắt mình , ông đau khổ dằn vặt và phải đưa ra quyết định đau đớn ” làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù ” . Khi hay tin làng Chợ Dầu được cải chính , ông Hai vui khôn tả , chẳng gì có thể diễn tả được tâm trạng của ông Hai lúc bấy giờ , ông đi khoe khắp nơi tin này , tay chân như múa cả lên . Điều đó thể hiện lòng yêu làng sâu sắc của ông lão , cũng như yêu nước , yêu kháng chiến , yêu cụ Hồ . Ông Hai tuy yêu làng , nhưng lại luôn đặt lòng yêu nước lên hàng đầu , đó là cái đẹp của nhân vật , cũng là cái đẹp của người dân Việt Nam .

Đề kiểm tra học kì i môn ngữ văn lớp 9 trường trương văn chỉ năm 2014 - 2015

PGD& ĐÀO TẠO VŨNG LIÊM
TRƯỜNG THCS TRƯƠNG VĂN CHỈ

ĐỀ THAM KHẢO THI KIỂM TRA HKI
NĂM HỌC 2014-2015
KHỐI 9-THỜI GIAN: 90PHÚT

I] TRẮC NGHIỆM [3 ĐIỂM]

Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời câu hỏi bằng cách khoanh tròn chữ cái ở đầu câu trả lời
đúng nhất:
"... Ông Hai đi mãi đến tối sẫm mới về. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ
hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy... Vừa đến ngõ, ông lão đã
lên tiếng:
- Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào.
Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão rút vội cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn:
- Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái.
Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang gian bên bác Thứ. Chưa đến bực cửa, ông lão đã
bô bô:
- Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông
chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết... cải chính cái tin làng Chợ
Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa mới lên trên
này cải chính, ông ấy cho biết... cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em đi Việt gian ấy mà.
Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải để cho mọi người khác
biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai ai cũng mừng cho ông
lão..."
1] Đoạn văn trên trích từ tác phẩm nào?
A. Lặng lẽ Sa Pa
B. Làng
C. Chiếc lược ngà
D. Chuyện người con gái Nam Xương
2] Câu nào thể hiện rõ nhất nội dung đoạn văn?
A. Ông Hai chia quà cho các con.
B. Ông Hai khoe với bác Thứ chuyện nhà mình bị đốt.
C. Ông Hai khoe với ông chủ nhà chuyện nhà mình bị đốt.
D. Ông Hai vui sướng chia quà cho con và khoe với mọi người tin làng mình không phải
Việt gian.
3] Từ nào là từ Hán Việt trong các từ dưới đây?
A. Cải chính
B. Rạng rỡ
C. Lật đật
D. Bỏm bẻm
4] Từ nào là từ tượng thanh trong các từ sau đây?
A. Rạng rỡ
B. Bô bô
C. Bỏm bẻm
D. Hung hung
5] Câu nói của ông Hai "Toàn là sai sự mục đích cả!" đã vi phạm phương châm hội
thoại nào?
A. Phương châm về lượng
B. Phương châm về chất
B .Phương châm về quan hệ
D. Phương châm về cách thức
6] Ai là người kể chuyện trong đoạn văn này ?
A. Ông Hai B. Bác Thứ C. Ông chủ tịch D. Tác giả [Người kể không xuất hiện]
II] TẬP LÀM VĂN [7 ĐIỂM]
Em hãy kể lại một lần về thăm quê.

HƯỚNG DẪN CHẤM
I TRẮC NGHIỆM [3 ĐIỂM]
1] B
2] D
3] A
II] TẬP LÀM VĂN [7 ĐIỂM ]
A] Yêu cầu chung:

4] B

5] D

6] D

- Kiểu bài: Văn tự sự [Kể lại chuyến về thăm quê]
- Có vận dung yếu tố miêu tả.
- Bài văn có cảm xúc suy nghĩ chân thành.
- Bố cục đầy đủ 3 phần.
B] Yêu cầu cụ thể:
1] Mở bài [1,5 điểm]
- Giới thiệu khái quát chuyến về thăm quê: Thời gian, địa điểm nhân vật…
2 ] Thân bài [4 điểm]
a] Những công việc chuẩn bị trước khi đi.
b] Thời gian xuất phát. Những cảnh vật, những câu chuyện bắt gặp trên đường đi.
c] Những con người, những cảnh vật, những câu chuyện ở quê…
- Cảnh vật ở quê thế nào, cảm xúc của bản thân trước cảnh vật quê hương.
- Người đầu tiên gặp là ai? Những cuộc tiếp đón trò chuyện thăm hỏi… diễn ra như thế
nào?
3] Kết bài [1,5 điểm]
- Chia tay, trở về, những hình ảnh chi tiết ấn tượng nhất của em trong chuyền đi.
- Cảm xúc của em về chuyến đi.
BIỂU ĐIỂM
- Điểm 6-7: Bài làm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên. Lời văn sáng sủa, sinh động
không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.
- Điểm 4-5: Bài làm cơ bản đạt các yêu cầu trên, nhất là yêu cầu về nội dung. Có thể có
vài sai sót nhỏ nhưng không đáng kể. Diễn đạt lưu loát, sai không quá 3 lỗi diễn đạt.
- Điểm 2- 3: Bài làm đạt ½ các yêu cầu trên. Về nội dung, có thể sai sót nhưng vẫn đảm
bảo yêu cầu về nhân vật và cốt truyện trong một bài văn tự sự. Diễn đạt chưa tốt,
nhưng sai không quá 6 lỗi thông thường.
- Điểm 1: Bài làm chưa đạt các yêu cầu trên. Nội dung sơ sài, lạc đề, diễn đạt kém.
Hiếu Nghĩa 09/10/2014
GVBM
Huỳnh Thiên Tân

Tải về bản full

Bài tập vận dụng qua truyện ngắn làng của kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [40.06 KB, 8 trang ]

Bài tập vận dụng:
Bài tập 1: Tình huống truyện là gì? Vai trò của tình huống truyện trong truyện
ngắn “Làng” của Kim Lân.
=> Gợi ý:
- Tình huống truyện là hoàn cảnh có vấn đề trong tác phẩm.Trong hoàn cảnh đó, nhân vật
sẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản tính của mình. Tính cách nhân vật sẽ
rõ, chủ đề sẽ bộc lộ trọn vẹn.
- Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là khi ông Hai biết
tin làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
- Vai trò: Tình huống này giúp nhà văn khắc họa sâu sắc tính cách ông Hai. Là người
nông dân ở ngôi làng thân yêu, không gì đẹp và đáng tự hào hơn ngôi làng đó. Nhưng khi

làng ấy theo giặc, ta thấy có một sự thử thách với người nông dân. Giữa tình yêu làng và
lòng yêu nước, yêu cách mạng, người nông dân ấy đã lựa chọn tình yêu đất nước và cách
mạng mặc dù trong lòng đau đớn, tủi hổ. Nhờ sáng tạo được tình huống, nhà văn đã miêu
tả được tâm lí của nhân vật với những biến chuyển khá phức tạp. Nhờ thế, hình tượng
người nông dân với sự biến chuyển mạnh mẽ về tư tưởng, tình cảm đã được miêu tả chân
thực và sinh động.
Bài tập 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Bác Thứ chưa nghe thủng câu hỏi ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà trên:
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính.....
cải chính cái tên làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra lao! Láo hết, chẳng có gì
sất. Toàn là sai mục đích cả!”

[ Kim Lân, Làng]


a. Cùng nói với ông chủ nhà, vậy mà ông Hai vừa mới xưng “tôi” rồi ngay sau đó lại
xưng “em”. Vì sao vậy?
b. Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là dùng cách nói nào?
c. Trong câu nói, ông Hai đã dùng sai một từ, đó là từ nào?Lẽ ra phải nói thế nào mới


đúng?
=> Gợi ý:
a. Cùng nói với ông chủ nhà nhưng ông Hai vừa xưng “tôi” đã lại xưng “em”, từ cách
xưng hô ngang hàng chuyển sang cách xưng hô của bề dưới với bề trên. Nhưng xưng
“em” với người nói chuyện cũng là thói quen thể hiện sự tôn trọng của người nông dân
Việt Nam ở làng quê trước đây. Mặt khác,thay đổi cách xưng hô như vậy cũng cho thấy
tâm trạng ông Hai không ổn định,ông quá vui mừng đến không làm chủ được mình, chỉ
thích khoe.
b. Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói hoán dụ- lấy làng để chỉ những
người dân Chợ Dầu.
c. Trong câu nói, ông Hai dùng sai từ “mục đích”, lẽ ra phải nói “mục kích” nghĩa là nhìn
thấy, chứng kiến.
* Tư liệu tham khảo:
Khi nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân thường thổ lộ rằng ông muốn thể hiện
con người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trường hợp như Kim Lân, sự tự thể hiện thành ra
một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm của ông. Những gì nhà
văn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan trọng của lịch sử đất nước trở
thành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng tạo nên những hình tư ợng đặc sắc. Truyện
ngắn “Làng”, với nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từng
nói:
"Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đưa vào Làng. Lúc ấy Tây còn


đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là "làng chiến
đấu". Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán nghi về làng chợ Dầu theo Tây
làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này. Ông lão Hai chính là tôi".
Tình yêu quê hương đất nước trong mỗi con người cụ thể mang một hình hài riêng. Có
thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công sức khai
hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái mượt mà hay hùng tráng của một ca


khúc ca ngợi tình người, tình đời, v.v... Và ở đây là tình yêu, sự gắn bó thuỷ chung với
cái làng của mình, của một người nông dân phải rời làng đi tản cư trong những năm đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thành công của truyện Làng chính là ở hình tượng nhân vật lão Hai với những trạng
huống tâm lí, ngôn ngữ được khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy nhiên, để
nhân vật bộc lộ được tâm lí hay ngôn ngữ, trước hết, nhà văn phải xây dựng được tình
huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ được thể hiện trong một sự việc cụ thể nào đó. Hiểu
lầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thường được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tản
cư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Đó chưa phải là tình huống. Phải đến
khi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự
bắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết được sự thực làng của ông không
theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê của
mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ
mang đậm màu sắc cá thể hoá.
Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến điều
thiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con người ông. Cái làng đối với người nông dân quan
trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, người
nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là


hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố
rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang
hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm
bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán". Nên ông thấm thía
lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào
về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức,
say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh

phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi cha thấy cái dinh cơ nào mà lại đợc như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên


tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả
động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá,
làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe
làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi
những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,...
Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi
buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười,
cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày
làm việc cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...] Trong
lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi
nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Thế mà,
đùng một cái ông nghe được cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng
yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn,


tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc
sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn
biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.

Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng
chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người:
"Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không
thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi",
"Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như
vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc
động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng
Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi
đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai
người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù

hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm:
"Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo
âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe
như tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm
nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái
chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi ngư ời, "không dám bước
chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ
nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở
vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt
đường sinh sống! [...] đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi Mà cho


dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt
mũi nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy
nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...". Và "Nư ớc
mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi
niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa
con thơ dại:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh
dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng

chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành
và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:


Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong ngư ời nông dân chân lấm tay
bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất
kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui
của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết
sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội.
Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ

ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần

nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt
buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt
hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt
nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ.
Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra
ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi
cái ách "người làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía
kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như môt người yêu nước, lại có thể tiếp

tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này
cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt


khác, cũng như các nhân vật quần chúng [chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu theo giặc,
bà chủ nhà,]... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ.
Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm
ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng
nó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dám
đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng
phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của ngư ời nông
dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu
hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm
ngôn ngữ này.
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong
truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức
khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức
nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện
có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông
dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung
với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông
Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình
theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai

đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như
ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.




Video liên quan

Chủ Đề