Có nên yêu khi là sinh viên tình yêu sinh viên có những thuận lợi và khó khăn gì

Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcBÀI THẢO LUẬNMÔN: TÂM LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌCGiảng viên: ThS.Thành viên nhóm:Hồ Huỳnh Phong [Nhóm trưởng]Nguyễn Tiến LuậtMai Thị Lâm [Thư ký]Trần Quang NhuNguyễn Bá HợpBùi Phước TàiVõ Văn KhoaNguyễn Quốc TrungNguyễn Gia LongChủ đề 3: NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CHỦ YẾU CỦA SINHVIÊN HIỆN NAY LÀ GÌ? LÀ GIẢNG VIÊN, ANH/CHỊ CÓ CÁCH TÁC ĐỘNGNÀO ĐỂ GIÚP SINH VIÊN PHÁT HUY THUẬN LỢI, KHẮC PHỤC KHÓKHĂN NHẰM HỌC TẬP TỐT?1Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại Học1. THUẬN LỢI1.1. Tiếp cận với khoa học kỹ thuật [Định hướng cho sinh viên và cung cấptính xác thực cho SV tiếp cận]Là GV nên hướng dẫn SV nắm bắt đúng những ý tưởng cùng với năng lựchiện có để từng bướt tiếp cận khoa học kỹ thuật và đào sâu một cách khoa học.1.2. Điều kiện sống tốt hơn so với trước kiaVề gia đình: Kinh tế xã hội phát triển, điều kiện sống được cải thiện đáng kểnên mọi gia đình có điệu kiện chăm lo cho cuộc sống cho con cái họ có điều kiệnhọc tấp tốt nhất.Về xã hội: Hỗ trợ cho việc học tập của SV như cơ sở vật chất hiện đại, hỗ trợvốn, học bổng, tạo điều kiện về nơi ăn ở, giúp sinh viên có điều kiện sống tốt hơn.1.3. Khả năng hội nhập tốtVới sự năng động, nhiệt tình, ham học hỏi của mình nên sinh viên có khả nănghội nhập tốt. Hầu hết sinh viên đều tích cực tham gia các phong trào của lớp, củatrường. Họ nhanh chóng hòa đồng cùng bạn bè cũng như khoảng cách thầy tròngày càng gần nhau hơn, từ đó dễ dàng trao đổi trong học tập cũng như các vấn đềtrong cuộc sống đời thường.1.4. Dễ định hướng nghề nghiệp, năng động sáng tạo• Dễ định hướng nghề nghiệpSinh viên được tiếp cận với nhiều kênh thông tin. Trong đó bao gồm các buổitư vấn nghề nghiệp của thầy cô, nhà trường, tập đoàn kinh tế, trung tâm hỗ trợ sinhviên được tổ chức thường niên trong quá trình sinh viên còn tham gia học tập tạitrường. Mặt khác, sinh viên có thể tự mình tìm hiểu thông qua các phương tiệntruyền thông như: đài, báo, sách, ấn phẩm, tạp chí… để biết về các ngành nghềmình đang học để có chuẩn bị tâm lí khi ra trường.Cách tác động của giảng viên2Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcTạo cầu nối giữa sinh viên với các đơn vị tuyển dụng bằng cách đề nghị nhàtrường tổ chức các buổi tư vấn nghề nghiệp do các đơn vị kinh tế tổ chức để giới thiệudoanh nghiệp đến với sinh viên.Lắng nghe và chia sẻ các ý kiến trong việc băn khoăn chọn ngành nghề củasinh viên.• Năng động, sáng tạoSự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, của khoa học công nghệ trêntoàn cầu không những đưa thế giới bước vào kỉ nguyên của công nghệ mà nó còntạo điều kiện dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin khoa học, tri thức khoa học.Sinh viên có điều kiện dễ dàng để tiếp nhận [chỉ cần một chiếc máy tính nốimạng là có thể biết nhiều thông tin trên thế giới đang xảy ra; hoặc có thể thôngqua sách, báo, ấn phẩm, tạp chí, truyền hình…]Bước vào Đại học cũng là thời kì sinh viên bước dần vào các quan hệ xã hộivà phát triển tâm sinh lí thích được thể hiện mình nhiều hơn, thích có chính kiếncủa mình. Sinh viên tự mình tìm tòi những vấn đề liên quan đến ngành nghề củamình hay các vấn đề khác của cuộc sống. Môi trường học Đại học với những kiếnthức mang tính khai mở cho sinh viên là điều kiện sinh viên phát triển sự năngđộng, sáng tạo của mình trong học tập và trong các hoạt động xã hộiĐược khuyến khích tham gia các nghiên cứu khoa học nhỏ để rèn luyện kĩnăng sau nàyCác tác động của giảng viênKhuyến khích, hướng dẫn sinh viên tích cực nghiên cứu khoa họcCung cấp cho sinh viên những nguồn tư liệu đáng tin cậy, hướng dẫn sinh viênđi đúng với hướng nghiên cứu1.5. Chủ động về thời gianDo mới chảy qua hai kỳ thi căng thẳng được bù lại là những ngày đầu nămnhất với một vài môn. Tuy nhiên nhìn chung thì thời sinh viên thì khoảng thờigian rãnh thì rất nhiều và có thể làm chủ được thời gian, không còn giống như ỏ3Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại Họcthời học sinh thì thời gian bi bó buộc và được cha mẹ sắp xếp và quản lý một cáchchặc chẽ.Chủ động được thời gian như mình mong muốn .Thời gian rãnh của sinh viênhiện nay rất nhiều vì có chương trình học chứng chỉ, đây cũng là một lợi thế củasinh viên vì có thể có thời gian nhiều để cho viêc nghiên cứu.Có nhiều thời gian để có thể tham gia các dự án nhỏ vừa tầm.Có thể đi làm thêm để kiếm thêm thu nhập và trang trải cho công việc học,cũng như giảm bớt gánh nặng cho gia đình đồng thời tích lũy kinh nghiệm và vốnsống cho mình sau này.Có thể sử dụng thời gian rảnh để trao đồi những kỷ năng đa ngành để phù hợpvới nền xã hội hội nhập đa quốc gia.Tuy nhiên cũng một số sinh viên nào đó đã lãng phí rất nhiều thời gian.Thời gian là vốn quý nhất của mọi người. Lãng phí thời gian là lãng phí “củabáu” mà tạo hóa đã ban tặng cho mỗi con người. Nếu không biết tận dụng, nó sẽqua đi rất nhanh, đúng như lời răn dạy của người xưa: “Tháng ngày vùn vụt thoiđưa / Nó đi… đi mãi có chờ đợi ai !”Vậy mà, lãng phí thời gian đang là căn bệnh hay gặp nhất ở giới sinh viên.Bạn đã bao giờ tự hỏi mình đã sử dụng quỹ thời gian đúng mục đích hay chưa?Liệu có để thời gian trôi qua một cách uổng phí hay không?Đáng tiếc là phần lớn sinh viên chúng ta hiện nay không biết tận dụng và quýtrọng thời gian. Đa số sinh viên sau những giờ học ở trường thì thời gian còn lạikhông mảy may nghĩ tới việc học, thậm chí không dành thời gian tối thiểu cầnthiết cho việc học.Do học theo hệ tín chỉ nên giờ đây sinh viên còn có nhiều “thời gian rỗi” hơnso với thời học theo chế độ niên chế. Học tín chỉ, thực chất là dành quyền chủđộng cho sinh viên tự sắp xếp thời gian để tự học và nghiên cứu. Lên lớp, giáoviên chỉ có vai trò dẫn dắt và định hướng, còn lại sinh viên phải tự tìm hiểu vànghiên cứu, mà sinh viên Việt Nam bây giờ ý thức tự học, tự nghiên cứu rất kém.4Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcTheo cách tín chỉ, giờ lên lớp ít hơn thay vào đó là thời gian tự học tự nghiêncứu. Nhưng ngoài giờ lên lớp, đa số sinh viên dành thời gian còn lại để online,xem phim hay chơi game… với lý do là thầy không ra bài tập để làm. Họ khônghề có ý thức tự học, tự nghiên cứu. Thầy cô ra bài thì làm, không ra thì nghỉ cho“khỏe”. Ngoài việc giết thời gian vào những việc trên thì một bộ phận không nhỏdành thời gian để ngủ, mà đa số là sinh viên nam.Vì thế nên bây giờ việc bắt gặp sinh viên ngồi đọc sách, họp nhóm bàn bạcviệc học hay ngồi mày mò, nghiên cứu một vấn đề nào đó liên quan đến học hànhthì rất hiếm… Mà thay vào đó là thấy các bạn thường xuyên vào Facebook, blog,bói toán online…gần như là chiếm trọn thời gian rỗi rảnh.Hãy biết quý trọng thời gian, đừng để tuổi trẻ của mình trôi qua một cách phíhoài như vậy các bạn nhé!Vai trò của giảng viên:Cùng với những thuận lợi và sự lãng phí ấy với một vai trò là giảng viên làngười cầm ngọn cờ đạo đức cho tuổi trẻ và mũi tên khoa học của tương lai của đấtnước, cần giúp sinh viên cân đối lại thời gian cho hợp lý và khoa học đồng thời cóích cho xã hội nói chung và gia đình nói riêng cũng như chính bản thân ta.Giảng viên cần tạo một sân chơi bổ ích cho sinh viên với các hoạt động ngoạikhóa giúp ích cho xã hội như: Tổ chức xóa mù chữ, trao dồi kỷ năng nghề, tổ chứcnhững buổi từ thiện, hay một câu lạc bộ có mưu cầu nào đó của xã hội.Tổ chức với các dự án vừa và nhỏ để các sinh viên cùng tham gia [đây là mộtphương pháp rất tích cực cho môi trường học chứng chỉ hiện nay].1.6. Trình độ cũng như phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên khôngngừng được nâng cao. Được thể hiện ở chổ:Trình độ tối thiểu đại học đối với giảng viên cao đẳng và thạc sĩ đối với giảngviên đại học.Giảng viên không ngừng được đào tạo về nghiệp vụ cũng như phương phápgiảng dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo của sinh viên.Tác động của giảng viên:5Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcKiến tạo các ví dụ có tính thực tiễn của môn học và gợi ý tìm tòi sáng tạo chosinh viên.Hổ trợ về mặt tài liệu, các đề tài hay giúp các sinh viên ham học hỏi có thểphát triển thêm kiến thức của mình.Luôn đi trước để tìm ra những đề tài mới của các trường trong nước cũng nhưkhu vực quốc tế có liên qua đến chuyên môn của mình, ứng dụng mở rộng để phùhợp với kiến thức và nhận thức của sinh viên..2. KHÓ KHĂN2.1. Điều kiện, môi trường học tập hạn chếVai trò của giảng viên:Giảng viên nên hướng sinh viên theo những phương pháp thich hợp với điềukiện mà sinh viên có và giúp sinh viên tiếp cận với những phương pháp học mớinhư học nhóm, phân bổ công việc,..2.2. Kỹ năng sống còn hạn chếỞ trung học phổ thông các bạn chưa được trang bị các kỹ năng mềm: sống,học tập, làm việc độc lập,…Ở đại học sv Phải tự lập, tự lo cho mình tất cả từ họctập đến sinh hoạt; phải đối mặt với những mối quan hệ xã hội mới có thể là rấtphức tạp. Do vậy, sinh viên có nhiều bỡ ngỡ do chưa thích ứng với môi trườngsinh hoạt độc lập, phương pháp giảng dạy tích cực ở bậc đại học với những hoạtđộng nhóm, thuyết trình trước công chúng và thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề. Nêncác bạn không thu được kết quả tốt trong học tập và trong cuộc sống.Vai trò của giảng viênTận tâm trong nghề nghiệp, thường xuyên quan tâm và giúp đỡ SV cả tronghọc tập và cuộc sống. Là chỗ dựa tinh thần vững chắc của các SV trong môitrường sống và học tập mới, tạo điều kiện cho SV phát huy năng lực tự học, thểhiện hết khả năng của mình.Tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động các cấp hỗ trợ tân SV vào đầu năm học đểgiúp trang bị cho các tân SV kiến thức cơ bản về cuộc sống, học tập của SV, giúpSV ổn định tâm lý và cuộc sống để sẵn sàng cho nhiệm vụ học tập mới.6Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại Học2.3. Thiếu thốn tình cảm, môi trường sống bị thay đổiHầu hết sinh viên sống xa nhà, bắt đầu cuộc sống mới, không gần cha mẹ, bắtđầu tự lập, tự xoay xuể mọi việc từ học tập đến cuộc sống đời thường nên họ gặprất nhiều khó khăn, đặc biệt ở giai đoạn đầu vào đại học.Không còn gần cha mẹ như trước kia nên nguồn chia sẻ, động viên chính bâygiờ là bạn bè cùng phòng, cùng lớp. Không có người lớn dõi theo nên họ rất dễ bịxa ngã nếu thiếu bản lĩnh.Vai trò của giảng viên:Gần gũi hơn với sinh viên, từ đó hiểu, chia sẻ và giúp đỡ sinh viên từ học tậpđến cuộc sống riêng. Đặc biệt với sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt trong lớp.Chủ trì tổ chức đội nhóm, đoàn thể đế sinh viên tham gia sinh hoạt.2.4. Trình độ ngoại ngữ hạn chếĐịnh hướng của giảng viênNgay từ những năm đầu tổ chức các buổi họp lớp đề cập đến sự cần thiết đốivới việc học ngoại ngữ.Khuyến khích các sinh viên tham gia các câu lạc bộ sinh hoạt về ngoại ngữ.Trong các bài giảng sẽ từng bước dùng các thuật ngữ hay một số từ ngữ cầnthiết để kích thích sự tìm tòi của sinh viên.2.5. Chi phí và thời gian cho việc nghiên cứu khoa học còn hạn chếĐây là một hiện trạng của toàn thể sinh viên khi nghiên cứu một đề tài haymột dự án nào đó.tuy nhiên việc chi phí cho các công trình nghiên cứu thì rất cònhạn chế. Sự đầu tư về kinh phí cho các dự án thì còn rất ít.Thù lao được trả chưa xứng với công sức bỏ ra: Kinh phí cấp cho các đề tàinghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ hoặc Thành phố còn tạm ổn cho hoạt độngnghiên cứu, nhưng với các công trình nghiên cứu cấp trường hoặc bài báo thì sốkinh phí thường rất thấp [từ 15 - 20 triệu/đề tài và 500.000đ – 700.000đ/bài báo];vì thế, không khuyến khích được sinh viên nghiên cứu và chất lượng công trìnhcũng không thể cao.7Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcNguồn vốn tín dụng của nhà nước còn hạn chế về đối tượng và cả số tiến đượcvay.Thời gian dành cho đề tài quá ngắn và không có logic và chỉ hối thúc và chạyđua.2.6. Khó khăn trong vấn đề tìm việc làm• Khách quan:Các cơ quan lãnh đạo chưa có sự phân bổ hợp lý giữa số lượng, ngành đào tạocho sinh viên với nhu cầu xã hội khi sinh viên ra trường [tầm nhìn 4-5 năm] nên sốlượng sinh viên tốt nghiệp ở từng ngành không phù hợp với nhu cầu của xã hội,dẫn đến là họ làm trái nghề.Chương trình đào tạo mặc dù có cải cách nhưng luôn chậm hơn, lạc hậu hơnso với sự phát triển không ngừng của thị trường và yêu cầu của công việc, nênsinh viên ra trường thường không đáp ứng được các yêu cầu làm việc của cácdoanh nghiệp, hậu quả là doanh nghiệp phải đào tạo lại.Giảng viên vừa phải đảm bảo được chương trình giảng dạy, vừa phải hướngđược sinh viên đến với việc tự học, tự nghiên cứu và hình thành một phẩm chấtnghề đúng nghĩa, từ đó giảng viên dễ tập trung vào nhiệm vụ đầu mà sao lãng đi 2nhiệm vụ còn lại dẫn đến sinh viên có kiến thức chuyên môn nhưng khi lao độngthực tế khó vận dụng và tự phát huy thêm [tự nghiên cứu đào sâu thêm], và họ chỉnói lý thuyết, thiếu thực tế. Sinh viên cũng không được hướng đến sự hoàn hảo vềnhân cách để trở thành một công dân tốt cho xã hội [có tài mà không có đức].• Chủ quan:Nhìn chung, đa phần [gần 2/3] sinh viên trong quá trình học ở đại học chưahình thành được sự tích cực hòa nhập vào đời sống xã hội [thiếu năng động, íttham gia vào các hoạt động chính trị-xã hội, sinh hoạt tập thể, văn hóa tinh thần,…], chính vì thế khi ra trường gặp khó khăn trong việc hoà nhập vào môi trườnglàm việc [cuộc đời không như mơ], dẫn đến nhảy việc, và đó là lý do doanhnghiệp ngại khi nhận sinh viên mới tốt nghiệp vào làm.• Hướng giải quyết:8Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcLà giảng viên, nhận thức được các yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến cáckhó khăn trong vấn đề tìm việc của sinh viên, giảng viên phải trở thành cầu nốigiữa doanh nghiệp và sinh viên mình đào tạoKết hợp giữa kiến thức chuyên môn [theo chương trình đào tạo] với kinhnghiệm làm việc thực tế của giảng viên, thực tế làm việc hiện nay [nhu cầu củadoanh nghiệp] để giúp cho sinh viên có được sự liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn,áp dụng điều được học vào thực tiễn công việc.Khi giảng dạy các vấn đề chuyên môn, giảng viên chủ động đặt ra các vấn đềliên hệ trực tiếp đến thực tế để sinh viên tự tìm hiểu, nghiên cứu, từ đó hình thànhtư duy nghiên cứu và phương pháp tự nghiên cứu để họ ứng dụng khi giải quyếtcác vấn đề thực tiễn trong công việc sau này. [Sinh viên hiểu thêm được nhữngvấn đề thực tế - cập nhật]Dùng gương sáng nghề nghiệp của bản thân kết hợp với phương pháp giảngdạy và các tác động cần thiết, tương ứng với từng đối tượng sinh viên để giúp sinhviên hình thành nên các phẩm chất nghề mai sau.Khuyến khích sinh viên ngoài việc học tập cần nâng cao các kỹ năng xã hội,giúp sinh viên ý thức sự quan trọng của việc hòa nhập với cuộc sống thật sau khira trường, ý chí vượt khó vươn lên.2.7. Hệ thống đào tạo chưa được hoàn thiện để sinh viên có cảm hứng học tậpViệc chuyển đổi từ dạy theo hệ niên chế sang tín chỉ vẫn chưa thống nhấtHiện nay nhiều trường vẫn chỉ dạy lý thuyết, thời lượng thực hành chưa đảmbảo, hệ thống trang thiết bị thực hành chưa được trang bị đầy đủ.Giáo dục đại học đang đứng trước thách thức to lớn: Phương thức quản lý nhànước đối với trường đại học, cao đẳng chậm được thay đổi, không đảm bảo yêucầu nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ đượcsự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và sinh viên.Chúng ta chưa thực sự quản lý được chất lượng giáo dục đại học vì chưa cóchuẩn đầu ra của các trường đại học, cao đẳng [chuẩn năng lực của người tốt9Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại Họcnghiệp]; chưa giữ được chuẩn của nhiều yếu tố đầu vào [giáo viên, chương trình,giáo trình, cơ sở vật chất];Chưa có cơ quan chuyên trách quản lý chất lượng; hàng năm chưa có đánh giáthực tế và báo cáo về chất lượng đạo tạo của các trường và cả hệ thống giáo dụcđại học.Thực hiện 3 công khai bao gồm: công khai cam kết chất lượng đào tạo và chấtlượng thực tế của cơ sở đào tạo; công khai nguồn lực phục vụ đào tạo [giảng viên,giáo trình, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất…]; công khai thu chi tài chính theohướng dẫn của Bộ GD-ĐT. Các nội dung của 3 công khai phải được công bố ởweb của mỗi trường, ở các khoa, thư viện để mọi người dễ tiếp cận.Trong quy chế đánh giá và cho phép mở ngành tuyển sinh đại học, cao đẳngnên quy định việc kiểm tra tại cơ sở giáo dục trước khi mở ngành 3 tháng, 3 nămsau đó mỗi năm kiểm tra lại 1 lần...Triển khai sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của giảng viên, giảng viêntham gia đánh giá hoạt động của lãnh đạo trường; các ĐH, CĐ tham gia đánh giáchỉ đạo, quản lý của Bộ GD-ĐT, bộ chủ quản và UBND, thành phố nơi trườngđóng.Các trường cần xây dựng kế hoạch dài hạn, sử dụng phần thu học phí tăngthêm để đầu tư cho các khâu, các yếu tố đầu vào của quá trình đào tạo, nâng caonăng lực quản lý và chăm lo cho giảng viên để có tác dụng rõ rệt nâng cao chấtlượng đào tạo...• Vai trò của giảng viên:Thực hiện tốt quy chế về kiểm tra, đánh giá do Bộ GD đưa ra.Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, công tác nghiệp vụ giảng dạy.Hỗ trợ sinh viên tiếp cận với các doanh nghiệp trong thời gian còn ở trường đểsinh viên có điều kiện vừa học lý thuyết, vừa thực tập.Về phát triển đội ngũ: Sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của 100% giảngviên. Các giảng viên ĐH đều có kế hoạch mỗi giảng viên sử dụng tốt một ngoạingữ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học.10Bài tập nhóm môn: Tâm Lý Giáo Dục Đại HọcVề chuẩn hoá và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo: Thông qua Hộiđồng các Hiệu trưởng trường ĐH, CĐ và trưởng khoa cùng nhóm ngành để thốngnhất các chương trình đào tạo khung của các ngành do các trường đào tạo, phâncông viết giáo trình dùng chung cho các trường.Chuẩn hoá và đảm bảo đủ 100% giáo trình ĐH: Bộ GD-ĐT ban hành quy chếbiên soạn giáo trình ĐH. Các trường rà soát tình hình giáo trình, phối hợp qua Hộiđồng Hiệu trưởng các trường ĐH, CĐ và trưởng khoa cùng nhóm ngành để biênsoạn giáo trình dùng chung. Phấn đấu tất cả các trường đều có đủ giáo trình chomỗi ngành đào tạo.Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường ĐH, CĐ toàn quốc: Hoàn thiện và tiếptục chương trình bồi dưỡng hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng.11

Video liên quan

Chủ Đề