Con ngỗng miền Nam gọi là gì

Mục lục

Hệ thống, phân loại và tiến hóaSửa đổi

Các loài còn sinh tồnSửa đổi

  • Ngỗng thiên nga hay nguyên nga, hồng nhạn, đại nhạn: Anser cygnoides – đôi khi tách ra thành chi Cygnopsis
  • Ngỗng đậu hay hồng, mạch nga, đậu nhạn, đại nhạn: Anser fabalis. Năm 2007, AOU tách ra thành 2 loài khác biệt là:
    • Ngỗng đậu taiga: Anser [fabalis] fabalis hay Anser fabalis nghĩa hẹp [sensu stricto].
    • Ngỗng đậu tundra: Anser [fabalis] serrirostris hay Anser serrirostris.
  • Ngỗng chân hồng: Anser brachyrhynchus
  • Ngỗng ngực trắng: Anser albifrons
    • Ngỗng ngực trắng Greenland: Anser [albifrons] flavirostris
  • Ngỗng ngực trắng nhỏ: Anser erythropus
  • Ngỗng xám hay ngỗng xám, hôi nhạn, sa nga, sa nhạn: Anser anser[2]
  • Ngỗng Ấn Độ hay ngỗng đầu vạch kẻ, ban đầu nhạn, bạch đầu nhạn: Anser indicus[2] – đôi khi tách ra thành chi Eulabeia
  • Ngỗng tuyết, tuyết nhạn, khảo nhạn, bạch nhạn: Anser caerulescens - đôi khi tách ra thành chi Chen
  • Ngỗng Ross: Anser rossii – đôi khi tách ra thành chi Chen
  • Ngỗng hoàng đế, đế nhạn, hoàng nhạn: Anser canagicus – đôi khi tách ra thành chi Chen hay chi Philacte

Nhóm ngỗng trắng đôi khi tách ra thành chi Chen, với 1 loài trong đó đôi khi tách ra thành chi Philacte. Chúng không thể phân biệt về mặt giải phẫu, nhưng có một vài chứng cứ về dòng dõi khác biệt trong lượng giá các dữ liệu phân tử[cần dẫn nguồn]. Trong khi phần lớn các công trình nghiên cứu điểu học theo truyền thống đều gộp chi Chen vào trong chi Anser,[1][3][4][5] thì Hiệp hội các nhà điểu học Hoa Kỳ [AOU] và IUCN lại tách chúng riêng ra.[6][7]

Một vài tác giả lại coi một số phân loài như là các loài tách biệt [đáng chú ý là ngỗng đậu tundra[8][9]] hay như là các "loài" mà có lẽ sẽ tách ra trong tương lai [đáng chú ý là ngỗng ngực trắng Greenland[10]].

Hóa thạchSửa đổi

Hàng loạt các loài hóa thạch đã được định vị vào chi này. Do các loài ngỗng thật sự gần như không thể gán bằng cách nghiên cứu xương vào chi này nên điều đó cần phải xem xét với sự cẩn trọng. Có thể thừa nhận với độ chắc chắn hạn chế rằng các hóa thạch ở châu Âu từ các khu vực đã biết trong lục địa là thuộc về chi Anser. Do loài liên quan tới ngỗng Canada đã được mô tả từ Hậu Miocen trở đi tại Bắc Mỹ, đôi khi là từ cùng các vị trí như loài ngỗng xám [giả định], nó đưa ra sự nghi vấn lớn về sự chính xác của việc gán theo di truyền đối với vị trí của hóa thạch "ngỗng" giả định ở Bắc Mỹ.[11][12][13] Loài từ Tiền Pliocen Branta howardae là một trong các trường hợp trong đó các nghi vấn được thể hiện về sự gán ghép theo di truyền của nó[cần dẫn nguồn]. Tương tự, Heterochen = Anser pratensis dường như khác biệt rõ rệt từ các loài khác trong chi Anser và có lẽ nên đặt trong chi khác; nói cách khác, nó có thể là ví dụ duy nhất về ngỗng xám đã thích nghi với việc đậu trên cây. Short [1970] [12] cho rằng loài chim này hơi giống các loài ngỗng, thiên nga, vịt khoang và "Cairinini" hay "vịt đậu cây". Nhóm cuối cùng này đã biết như là một tổ hợp cận ngành với các loài thủy điểu với các tương tự hình thái của chúng là sản phẩm của tiến hóa hội tụ về phía có khả năng đậu trên cây.[13]

  • Anser atavus [Trung/Hậu Miocen ở Bavaria, Đức] – đôi khi trong chi Cygnus
  • Anser arenosus [Big Sandy Hậu Miocen ở Wickieup, Hoa Kỳ]
  • Anser arizonae [Big Sandy Hậu Miocen ở Wickieup, Hoa Kỳ]
  • Anser cygniformis [Hậu Miocen ở Steinheim, Đức]
  • Anser oeningensis [Hậu Miocen ở Oehningen, Thụy Sĩ]
  • Anser thraceiensis [Hậu Miocen/Tiền Pliocen ở Trojanovo, Bulgaria]
  • Anser pratensis [Valentine Tiền Pliocen ở quận Brown, Hoa Kỳ] – có thể tách ra để đặt vào chi Heterochen
  • Anser pressus [Glenns Ferry Hậu Pliocen ở Hagerman, Hoa Kỳ] – trước đây là Chen pressa
  • Anser thompsoni [Pliocen ở Nebraska]
  • Anser azerbaidzhanicus [Tiền? Pleistocen ở Binagady, Azerbaijan]

Loài thiên nga ở Malta [Cygnus equitum] đôi khi cũng được đặt trong chi Anser, và Anser condoni là từ đồng nghĩa của Cygnus paloregonus.[11] Mẫu hóa thạch "ngỗng" từ Tiền-Trung Pleistocen ở El Salvador là khá giống với Anser. Xương cánh trái [mẫu vật MUHNES 2SSAP30-853] và xương đòn trái [mẫu vật MUHNES 2SSAP30-545], dường như là của một con chim.[14] Với niên đại của nó thì dường như nó thuộc về chi đang có loài sinh tồn và địa sinh học chỉ ra rằng Branta cũng có thể là một ứng viên khác.

?Anser scaldii [Hậu Miocen ở Antwerp, Bỉ] có thể là vịt khoang.

1. Nguồn gốc

Tuy đều là gia cầm, đều có thể bơi, nhưng con ngan và con ngỗng có nguồn gốc xuất xứ hoàn toàn khác nhau.

Cụ thể theo Wikipedia, con ngan được chăn nuôi [Danh pháp khoa học: Cairina moschata forma domestica] là loại ngan đã được thuần hóa, chọn giống trở thành một loài gia cầm và được đưa vào chăn nuôi rộng rãi để lấy các sản phẩm như thịt, trứng và lông cho nhu cầu của con người.

Ngan được chăn nuôi là loại ngan nhà đã thuần hoá.

Ngan nhà được thuần hóa đầu tiên tại châu Mỹ thời kỳ Thời kỳ tiền Colombo [pre-Columbian times] bởi những người da đỏ bản địa ở đây từ những phân loài ngan hoang dã biết bay. Người Tây Ban Nha đã gọi loài ngan nhà với cái tên là pato criollo hay là vịt creole [vịt của người Creole bản địa], ngoài ra còn có những cái tên bằng tiếng Tây Ban Nha khác để chỉ về giống này như pato casero [tức là vịt backyard] hay pato mudo [tức vịt câm].

Ngỗng được nuôi phổ biến tại Việt Nam thường là ngỗng sư tử.

Trong khi, đó, loài ngỗng được chăn nuôi tại Việt Nam là ngỗng sư tử. Theo Wikipedia, Ngỗng sư tử là ngỗng nhà bắt nguồn từ Bắc Trung Quốc và Xiberi. Ở Việt Nam được nuôi ở nhiều nơi thuộc đồng bằng sông Hồng và tập trung ở phía Tây Hà Nội.

Tại Việt Nam, chúng được đưa vào từ rất lâu cho đến nay nó gần như một giống nội cho sản lượng thịt cao hơn hẳn ngỗng cỏ.

2. Ngoại hình

Bằng mắt thường, bạn có thể phân biệt được sự khác nhau giữa con ngan và con ngỗng dưới đây.

Ngan mái thường có khối lượng từ 2-5kg, ngan trống thường nặng khoảng 5-8kg. Bạn có thể phân biệt con đực, con cái ngay từ ngày đầu tiên, mở lỗ huyệt ra. Con trống sẽ xuất hiện mấu lồi nhô lên, đó là gai giao cấu của chúng, ở con cái, không có mấu lồi đó. Con mái phải có mào đỏ, thân hình thon gọn, cân đối, bụng mềm, lỗ huyệt ướt, lông sáng, bóng áp sát vào thân, vùng xương chậu nở rộng.

Hình ảnh của một con ngan nhà.

Trong khi đó, con ngỗng có tầm vóc khá dữ tợn với bộ lông màu xám, đầu to mỏ đen thẫm. Mắt ngỗng nhỏ và có màu nâu xám. Phần trên cổ có yếm da, thân mình dài vừa phải, ngực dài nhưng hẹp, xương to và nặng nhưng thân thịt màu hơi trắng. Mỏ và chân màu đen.

Thân con ngỗng thường có hình chữ nhật, ngực nở và sâu. Bụng phệ, khi trưởng thành con đực có thể nặng tới 6kg/con, con cái nặng tầm 5kg/con.

Ngỗng thường có mào màu đen – một khối thịt nhô lên ở trán, có màu nâu đen như bờm sư tử. Mào của con ngỗng đực lớn hơn con ngỗng cái. Phần trên cổ có một vệt lông đen từ đầu đến thân, ở dưới có một yếm da thừa. Cánh, lưng, gốc đuôi và hai sườn màu xám đá. Lông ở ngực, bụng màu trắng phớt vàng đất.

Con ngan là con gì?

Con ngan là con gì?

Con ngan là tên được người miền Bắc gọi nhiều, riêng miền Nam lại có tên gọi khác. Đó là vịt xiêm – Muscovy, chúng thuộc cùng loài Cairnia niochata.

Loài này bắt nguồn từ Nam Mỹ, dần dần lan sang nhiều nước như Anh, Pháp,… Sau đó đến Việt Nam được người dân nhân giống chăn nuôi số lượng lớn.

Phân loại con ngan [vịt xiêm]

Thị trường hiện nay có nhiều loại vịt xiêm khác nhau như xiêm đen/xám/trắng.

Giới thiệu bé ngan là nhỏ gì

chủng loại này khởi nguồn từ Nam Mỹ, từ từ lan quý phái nhiều nước như Anh, Pháp,… Và sau đó cho Việt Nam được tín đồ dân nhân giống như chăn nuôi số lượng mập.

Ngan là tên được bạn miền Bắc call nhiều, riêng biệt miền Nam lại mang tên Hotline khác. Đó là vịt xiêm – Muscovy, chúng nằm trong thuộc loại Cairnia niochata.

phần lớn tín đồ thắc mắc con ngan giờ anh là gì thì bao gồm 2 tên là goose cùng musk duchồng. Có lẽ hình hình ảnh con ngan ko còn gì khác không quen với người dân địa phương thơm nữa.

Những đặc điểm riêng biệt chỉ có ở con ngan

Video liên quan

Chủ Đề