Dân tộc mường sống ở đâu

Không gian sống của người Mường Hòa Bình bên ngôi nhà sàn truyền thống.

[HBĐT] - Sự phân bố dân cư Mường ở Hòa Bình gắn liền với nguồn gốc lịch sử, môi trường tự nhiên của khu vực cũng như tập quán sản xuất và sinh hoạt của dân tộc Mường.

Là chủ nhân lâu đời nhất của mảnh đất Hòa Bình, ngay từ thời xã xưa, người Mường đã cư trú ở khắp các huyện thị trên địa bàn tỉnh, nhưng mức độ phân bố không đồng đều cả về số lượng dân và mật độ phân bố.

Tại Hòa Bình, người Mường tập trung ở những khu vực có địa hình thấp, độ cao trung bình là 300m, nơi mà trước kia các trung tâm trù phú nhất của người Mường ở Hòa Bình với những cái tên như: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động.

Hai huyện Kim Bôi và Lạc Sơn có số người Mường chiếm trên 46% dân số người Mường toàn tỉnh và cũng là nơi người Mường tập trung đông nhất. Nếu tính cả 2 huyện Tân Lạc và Lương Sơn – là những địa phương có số dân người Mường đáng kể trong tỉnh – thì tỷ lệ người Mường của bốn huyện này chiếm 69,5% số dân người Mường của tỉnh [năm 1999]. Năm 2011, số lượng người Mường ở Hòa Bình chiếm 61,82%. Toàn tỉnh chỉ có huyện Mai Châu là địa phương có số dân Mường ít nhất. Tuy nhiên, mật độ phân bố người Mường cao nhất là ở huyện Lạc Sơn [216 người/1km2 – số liệu năm 2009], tiếp đó là huyện Yên Thủy [206 người/km2], Lương Sơn [205 người/km2] và huyện Kim Bôi [196 người/km2]. Hai huyện có mật độ phân bố người Mường thấp nhất là Đà Bắc [59 người/km2] và Mai Châu [91 người/km2].

Xét ở quy mô xã, theo thống kê năm 1999, toàn tỉnh có 214 xã, trong đó có 4 thuộc huyện Mai Châu là không có người Mường cư trú[ ở những xã này, mỗi xã chỉ có dới 10 người là dân tộc Mường], 8 xã khác, mỗi xã có 20 đến 30 người Mường, 37 xã có số dân người Mường từ trên 50 đến 1.000 người; 103 xã có số dân người Mường từ trên 1.000 đến 3.000 người, 37 xã có số dân người Mường từ trên 3.000 đến 4.000 người và 25 xã có số dân người Mường trên 5.000 người. Đặc biệt, một số xã có mật độ phân bố người Mường cao là Tân Lập, Ân Nghĩa, Yên Phú [Lạc Sơn], Cuối Hạ [Kim Bôi….Huyện Mai Châu có số dân người Mường ít nhất nhưng vẫn có 3 xã có dân số Mường khá cao là Ba Khan [người Mường chiếm 97,6% trong tổng số dân], Phúc Sạn [62,3%] và Tân Mai [51%].

Hiện nay, người mường ở Hòa Bình cư trú xen kẽ với người Kinh. Tỉnh Hòa Bình có 135 xã có 2 dân tộc thì 129 xã có hai dân tộc Kinh và Mường. Nhiều nơi, xóm làng của người Mường cũng chẳng khác gì người Kinh, quanh làng cũng có lũy tre bao bọc, nhà đất xuất hiện ngày càng nhiều.

Người Mường sống tập trung ở khu vực nông thôn [chiếm trên 90%]. Ở các khu vực thành phố, thị trấn cá huyện: Lương Sơn, Đà Bắc, Tân Lạc, TP Hòa Bình có trên 11.000 người Mường sinh sống…

Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, nền kinh tế của đồng bào dân tộc Mường ở Hòa Bình đã có nhiều biến đổi. Từ nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín, đồng bào đã bắt đầu làm quen với nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa nên đã có sự tăng trưởng bước đầu của dân cư đô thị và nhiều vùng nông thôn.

                                                                                HBĐT thực hiện

Người Mường mật tập ở tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ và miền Tây Thanh Hóa, với số dân khoảng 1.268.963 người, theo tổng điều tra dân số cách đây 7 năm. Người Mường nói tiếng Mường, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, trong ngôn ngữ Việt, thuộc ngữ tộc Môn-Khmer.

Theo các nhà dân tộc học, người Mường có quan hệ gần gũi với người Kinh vì họ có nguồn gốc chung là Việt – Mường. Sự chia tách Việt – Mường thành Kinh và Mường diễn ra ở thời điểm nào và quá trình chia tách ấy ra sao, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, do vậy, bài viết này sẽ không bàn đến.

Trang phục dân tộc Mường

Người Mường sống định canh, định cư tại những thung lũng hẹp. Họ làm nông nghiệp lúa nước và có thêm nương rẫy phụ trợ. Nghề phụ của dân tộc này trong những tháng nông nhàn là dệt vải, đan lát, ươm tơ và khai thác nguồn lợi từ rừng.

Tổ chức xã hội truyền thống của người Mường là Lang Cun và Lang Đạo điều hành. Đứng đầu mỗi Mường là Lang Cun, dưới là các xóm, Lang Đạo cai quản. Cải cách hành chính của Vua Minh Mạng đã phá bỏ cơ cấu tổ chức này, thành lập các xã, do Lý trưởng đứng đầu. Mặc dù vậy, chế độ nhà Lang vẫn tồn tại song hành cho đến sau Cách mạng Tháng Tám 1945.

Người Mường sống định canh, định cư thành làng xóm. Mỗi làng truyền thống có vài chục nóc nhà. Khuôn viên của mỗi nóc nhà nổi bật là nhà sàn, hàng cau, vườn mít. Nhà sàn truyền thống của người Mường là kiểu nhà 4 mái, phần trên người ở, phần dưới gầm nhốt gia súc, gia cầm, để cối giã gạo và các công cụ sản xuất nông nghiệp. Khi làm nhà mới, dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to, kẹp vào thanh nứa buộc lên bếp, ở cột cái đặt thêm quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Đêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không bao giờ tắt trên bếp.

Hôn nhân của người Mường là tự do tìm hiểu, ưng ý thì báo về gia đình làm lễ cưới. Lễ cưới phải tuân thủ các quy trình sau: ướm hỏi, lễ bỏ trầu, lễ xin cưới, lễ cưới lần thứ nhất, lễ đón dâu. Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người [nội, ngoại, bạn bè] mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp, chít khăn trắng, gùi một gùi cơm đồ chín [10 đấu gạo], trên miệng gùi có 2 con gà trống thiến luộc. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp, ngoài cùng khoác áo dài màu đen thắt hai vạt phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng 2 chăn, 2 đệm, 2 gối to để biếu bố mẹ chồng cùng hàng chục gối con để nhà trai biếu họ hàng.

Trong gia đình có người sinh nở, người Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Trẻ con lớn 1 tuổi mới đặt tên. Hai ba thế hệ sống chung trong một mái nhà là phổ biến. Con cái lấy họ cha. Con trai trưởng có quyền thừa kế và được coi trọng.

Sinh nở của người Mường cầu kỳ, phức tạp. Khi người vợ sắp sinh, chồng phải chuẩn bị nhà cửa, làm bếp riêng ở gian trong và quây phên thành buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ sắp đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại để đến nhà, cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho trẻ sơ sinh bằng cật nứa lấy từ đầu dui trên mái nhà. Con trai dùng cật nứa ở dui mái nhà trước, con gái ở dui mái nhà sau. Cuống rốn của tất cả các con trai, con gái được đựng trong ống nứa, vì họ nghĩ rằng, làm như thế, lớn lên anh em sẽ yêu thương nhau.

Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy Mo đến cúng. Đẻ được từ 3 đến 7 ngày có nhiều anh em, bà con đến tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bằng vài vuông vải tự dệt. Gia đình khá giả tặng vòng bạc đeo cổ. Người đẻ thường ăn cơm nếp với lá tắc chiềng [thuốc chống sài], uống với nước lá thuốc. Từ 7 – 10 ngày ở cữ phải sưởi bên bếp lửa. Sau 1 tuổi, trẻ mới được đặt tên.

Ma chay của người Mường cũng có nhiều điều lạ. Người chết tắt thở, con trai thường cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình mới nổi chiêng phát tang. Thi hài được liệm nhiều lớp vải và quần áo rồi mới đặt trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng. Tang lễ do thầy Mo chủ trì. Con trai chống gậy tre là bố mất, chống gậy gỗ là mẹ mất. Người Mường có tục lễ quạt ma. Đó là một nghi lễ độc đáo trong tang ma Mường. Khi tế, những người là dâu trong họ của người quá cố, phải mặc bộ đồ quạt ma, gồm váy đen, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trang trí tua hạt cườm, phía trước đặt một chiếc ghế mây.

Sau khi chôn người chết, lấp đất, lấy 4 viên đá to đẹp đẽ đánh dấu mộ. 2 viên đặt ở đầu và cuối, 2 viên đặt ở 2 bên. Đó là đá đánh dấu mộ nhưng cũng liên quan tới tục thờ đá, dựng cự thạch có từ tín ngưỡng xa xưa của dân tộc này và của nhiều dân tộc khác trên thế giới.

Lễ hội Văn hóa Cồng chiêng của dân tộc Mường

Lịch cổ truyền của người Mường làm bằng 12 thẻ tre, tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu. Người Mường Bi còn có cách tính khác, đó là ngày lùi, tháng tới. Tháng Giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường Vang, Thàng, Đông.

Lễ hội của người Mường diễn ra quanh năm: Lễ sắc bùa, lễ xuống đồng, hội cầu mưa, lễ rửa lá lúa, lễ cơm mới.

Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú: nhiều thể loại thơ dài, truyện cổ, dân ca, ví, tục ngữ. Người Mường hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố… Cồng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường. Ngoài ra còn có nhị, sáo, trống, khèn lú. Người Mường Phú Thọ còn dùng những ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh mà người Mường ở đây gọi là “đâm đuống”.

Tuy nhiên, người Mường có di sản đặc sắc nhất là sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, truyền thuyết về Đức Thánh Tản Viên, hát Xắc bùa và nghệ thuật Cồng chiêng.

Trò chơi dân gian của người Mường gần gũi với mọi đối tượng của cộng đồng: Thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn [có cả ở người Thái]. Trò chơi lứa tuổi thiếu niên có đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh măng, trò chăm chỉ, chằm chăn…

Phương tiện vận chuyển truyền thống của người phụ nữ Mường là gùi. Đòn gánh có mấu hai đầu, đòn sóc cũng hay được sử dụng. Nước suối được chứa trong ống nứa dài 1 mét đưa về nhà bằng đón gánh.

Nhà ở của người Mường là nhà sàn, nhưng họ rất chú trọng đến hướng nhà. Theo quan niệm cổ truyền, nhà không được làm ngược hướng với đồi, núi… Nhà sàn của dân tộc này dựa vào sử thi “Đẻ đất đẻ nước” có thể hình dung đó là hình con rùa.

“Bốn chân làm nên cột cái/ Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui/ Nhìn qua đuôi làm trái/ Nhìn lại mặt nhà mà làm thang cửa sổ/ Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài/ Muốn làm mái thì trông vào mai.

Nhà sàn của người Mường ở Hòa Bình phổ biến là 4 mái [2 mái đầu hồi và 2 mái dài]. Sàn nhà thấp giống sàn nhà người Thái. Nhà sàn người Mường Thanh Sơn, Yên Lập, Phú Thọ lại là nhà 2 mái, mái đốc vẩy gần sát sàn. Nhà sàn người Mường không có thềm bên ngoài như nhà sàn người Thái. Sàn thường được làm bằng bương, pha thành dát ghép lại, hoặc bằng gỗ. Từ mặt đất lên sàn cao từ 2 – 2,5 m. Nhà sàn người Mường thường có từ 3 đến 5 gian. Thảng hoặc có từ 7 đến 12 gian là những nhà đông con, khá giả. Cầu thang được bắc ở bên trái.

Không gian nhà của người Mường được chia thành gian nhà gốc dành cho nam giới. Đây là không gian linh thiêng, nơi đặt bàn thờ trong những ngày lễ quan trọng như hôn lễ, ma chay thì nam giới và những người có vai vế trong dòng họ mới được ngồi ăn uống. Gian thứ hai, kế theo gian gốc là nơi dành cho nam giới ngủ nghỉ. Đây cũng là nơi để thóc và đặt bếp. Người Mường thường có hai bếp. Một bếp để nấu nướng thức ăn và dùng cho phụ nữ, trẻ em ngồi sưởi. Một bếp khác ở gian gốc dùng cho đàn ông sưởi, đun nước uống và tiếp khách. Gian cuối cùng là dành cho phụ nữ sinh hoạt, chứa đồ dùng sinh hoạt, nơi sửa soạn cơm nước.

Trang phục của người Mường không quá cầu kỳ, bao gồm trang phục nam và trang phục nữ. Trang phục nam là áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi dưới và đôi khi có thêm túi ngực.

Đàn ông Mường cắt tóc ngắn, quấn khăn trắng. Quần nam Mường là quần lá tọa, ống rộng, dùng khăn thắt giữa bụng. Lễ hội thì dùng áo lụa tím hoặc vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác áo chùng đen, cài cúc nách.

Trang phục nữ độc đáo: khăn đội đầu trắng, yếm, áo cánh màu trắng, thân ngắn, xẻ ngực, váy dài đến mắt cá chân gồm thân váy và cạp váy. Cạp váy là một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo và tỉ mỉ với nhiều nét hoa văn mang đậm nét văn hóa truyền thống Đông Sơn. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt, bộ xà tích 2 hoặc 4 dây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Những nét chấm phá trên đây của bức tranh toàn cảnh dân tộc Mường, thiết nghĩ còn vô cùng đơn điệu, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ trong kinh tế, văn hoa, lối sống của họ ngày hôm nay. Bài viết chỉ như một gợi mở, để mong bạn đọc, nên có một lần đến với xứ Mường để cảm nhận được sức sống đi lên của họ trong mỗi bản làng, hòa trong sự đi lên của đất nước, của 54 dân tộc anh em khác, may chăng mới có thể thay được đôi dòng giới thiệu còn hết sức khô khan và đơn điệu như thế này.

TS Phạm Quốc Quân

Video liên quan

Chủ Đề