Đảo của dân ngụ cư review

KhenPhim.com – Đảo Của Dân Ngụ Cư [The Way Station] trước khi công chiếu rộng rãi đến công chúng thì cũng đã đoạt được nhiều giải thưởng danh giá tại ASEAN International Film Festival And Awards [AIFFA]: Best Leading Actor [nam chính xuất sắc nhất – Phạm Hồng Phước], Best Director of Photograph [đạo diễn hình ảnh xuất sắc nhất], Best Film [phim xuất sắc nhất].

Đạo diễn Hồng Ánh [trái], nữ chính Ngọc Thanh Tâm, nam chính Phạm Hồng Phước có mặt tại buổi lễ trao giải của AIFFA 2017 [6/5/2017]. Ảnh: Tuổi Trẻ News.

Đảo Của Dân Ngụ Cư đưa khán giả đến với một ngôi nhà tăm tối trong một thời điểm không cụ thể, một nơi là tiếng cười rất ít khi vang lên, còn sự tù túng, bức bách thì lại luôn bao trùm lấy nơi đó. Phước [Phạm Hồng Phước vào vai] là một chàng trai trẻ từng thất bại với nghề hướng dẫn viên du lịch, giờ đây để có tiền trang trải cho cuộc sống, anh chấp nhận vào làm tại một nhà hàng thịt dê ở nơi hẻo lánh nọ. Bạn có thể thấy những thực khách vui vẻ, có người thì cáu gắt vì giá cả đắt đỏ, tuy vậy ông Phúc [chủ nhà hàng] vẫn vui vẻ “Dạ” liên tục để chiều lòng khách. Bạn cũng sẽ thấy những ánh đèn điện, những đồ dùng mang dáng dấp của một cuộc sống thiếu thốn ngoài đảo, nơi mà đàn ông vẫn là trụ cột trong nhà, nặng nề tính gia trưởng, luôn chực đánh đập vợ con. Còn đàn bà thì chỉ biết răm rắp nghe theo chồng, mấy tên đầy tớ thì cũng chẳng hơn gì, chỉ biết vâng lời ông chủ để còn có chỗ mà nương tựa cho qua ngày đoạn tháng.

Dù phim lặp đi lặp lại bối cảnh trong ngôi nhà nhỏ ấy, với bầu không khí lúc nào cũng căng thẳng, tuy nhiên mối quan hệ giữa Chu [Ngọc Thanh Tâm] và Phước lại nổi lên như là mạch chính cho nội dung phim. Chu là một cô gái bị liệt đi nửa thân dưới, mọi sinh hoạt đều được ba mẹ chăm lo cho, cô bị bố giam lỏng trong một căn phòng vì sợ điều tiếng từ bên ngoài. Suốt ngày chỉ có thể ngó nghiêng những đám mây trời qua khung cửa sổ, Chu ước một ngày nọ sẽ có thể được tự do ra ngoài, được thoát khỏi cái sự quan tâm quá mức của bố cô. Và để rồi trong một lúc yếu lòng, Chu đã trao thân cho 2 anh người làm [trong đó có Phước] để khỏa lấp đi sự uất ức nghẹn ngào vì không được tự do. Và bạn cũng đừng quên tới ông già theo đạo Hồi nhé, đạo diễn cũng lồng ghéo vào đó khéo léo vào đó sự cô độc của ông khi mà ông chẳng biết mình là ai, số phận ra sao.

Với một bộ phim nặng nề như Đảo Của Dân Ngụ Cư thì Khen Phin tin rằng phần lớn khán giả sẽ không chọn nó để xem, đây không phải là dòng phim thương mại. Bạn có thể xem nó nếu như bạn tò mò những cảnh nóng trong phim lộ đến mức nào [lộ hơn 50 Sắc Thái Đen], hay cái bụng của anh Phước có gì hot 😉

Vé xem phim Đảo Của Dân Ngụ Cư.

Nội dung - 7 Diễn viên và diễn xuất - 7.5 Âm thanh, hình ảnh, kỹ xảo - 7

7.2

KÉN KHÁN GIẢ

User Rating: 3.43 [ 3 votes]

Mọi bài đánh giá đều chỉ là cảm nhận cá nhân của người viết. Nếu bạn muốn góp ý cho bài review, xin vui lòng comment với ngôn ngữ lịch sự và tôn trọng người khác. More by ST3G

Tôi vừa đọc xong truyện Đảo Của Dân Ngụ Cư của nhà văn Đỗ Phước Tiến. Đây là tác phẩm gốc của bộ phim chuyển thể cùng tên do nữ diễn viên Hồng Ánh lần đầu tiên đảm nhận vai trò đạo diễn. Văn phong của truyện rất giàu hình ảnh, tính từ và mang đặc trưng riêng nhưng có lẽ vì bị ảnh hưởng từ việc xem phim trước mà tôi cảm thấy thích phim của chị hơn cả truyện gốc.

Phim Đảo Của Dân Ngụ Cư khiến tôi khá ngạc nhiên vì tôi để ý rằng những bộ phim của đạo diễn có xuất thân là diễn viên thường chú trọng vào diễn xuất, nhân vật hơn là hình ảnh so với những đạo diễn có xuất thân từ quay phim. Nhưng trong bộ phim đầu tay của mình, Hồng Ánh đã thực sự kể chuyện bằng hình ảnh, chị tạo được ngôn ngữ điện ảnh riêng, những qui tắc riêng trong phim với sự sắp xếp, cấu trúc hình ảnh rõ ràng. Đây là một phim nghệ thuật rất tốt. Tôi cảm động vì chị đã dũng cảm làm phim như vậy. Có lẽ đây là một trong những phim Việt Nam mà tôi thích nhất vài năm gần đây.

Bộ phim mở đầu bằng một hình ảnh rất mạnh: người xem nhìn thấy cánh tay của một người đàn ông nằm trên biển và một cô gái ở đằng xa. Cảnh này không có tiếng tạo ra một cảm giác kì lạ. Hình ảnh đầu tiên của phim đã rất lôi cuốn tôi bởi vì tôi không thể giải thích được, không thể xâu chuỗi hình ảnh hai hình ảnh đó thành một câu chuyện. Hình ảnh ấy khiến tôi suy nghĩ, phân vân liệu người đàn ông đó còn sống hay đã chết, tại sao người con gái kia cứ ngồi trên thuyền thúng và nhìn về người ấy. Sau đó, màn hình chuyển đen, tôi nghe thấy tiếng sóng biển. Và người xem lại nhìn thấy biển lần nữa nhưng lúc này là một thanh niên trẻ đi qua bãi biển. Thế rồi, chúng ta nghe những dòng độc thoại tự sự của anh. Lúc này, tôi bắt đầu có cảm giác lo sợ rằng phim của chị có khả năng trở thành hình ảnh minh họa cho truyện ngắn nguyên tác. Nhưng tôi vui vì điều mình lo lắng đã không thành sự thật. Trong vài phân cảnh đầu tiên, chị đã xây dựng được không khí, giọng điệu và phong cách kể chuyện rất rõ ràng. Một trong những điểm đặc trưng tạo không khí khác lạ là những cảnh quay với góc máy từ trên cao nhìn xuống. Tôi không biết người xem khác cảm thấy như thế nào, nhưng với tôi, việc sử dụng góc máy này một cách có ý thức đã tạo ra bầu không khí rất lạ. Bởi lẽ ở những đoạn cao trào trong một cảnh, người xem thường muốn tiếp cận nhân vật gần hơn để thấy rõ cảm xúc trên khuôn mặt họ, thấy hành động của họ chi tiết hơn; và từ đó, cảm nhận mình là một phần của bộ phim. Thông thường, đạo diễn cũng sẽ làm hài lòng nhu cầu này người xem. Nhưng ở một số cảnh trong Đảo Của Dân Ngụ Cư, Hồng Ánh lại cắt lên góc máy từ trên cao nhìn xuống ngay lúc cao trào của cảnh. Ví dụ: cảnh người vợ tắm cho chồng mình. Lúc người chồng mạnh bạo kéo bà vào bồn tắm, Hồng Ánh lại cắt lên góc cao và dừng ở đó một lúc. Với động tác này, tôi cảm giác chị muốn giữ người xem tiếp cận bộ phim bằng một góc nhìn khách quan, chị khiến họ nhận ra rằng họ chỉ là người xem trung lập, họ không phải là một phần của phim. Hơn nữa, góc máy cao cũng khiến tôi cảm thấy người vợ nhỏ bé và đáng thương. Tôi đã hiểu lầm rằng bà là một người hầu trong cảnh này. Một cảnh khác với cùng cách dựng đó là cảnh Phước và người Khmer đánh nhau. Tôi không nhớ rõ nhưng tôi nghĩ còn những cảnh khác nữa trong phim cũng có cách dựng như thế này.

Ngoài ra, các cảnh sử dụng góc máy từ trên cao cũng khiến tôi tự hỏi đây là góc nhìn khách quan mà Hồng Ánh dùng để kể chuyện, hay là góc nhìn chủ quan của một nhân vật nào đó trong phim. Câu hỏi thú vị này kích thích tôi tiếp tục xem phim để tìm ra câu trả lời. Và tôi không phải chờ quá lâu, câu trả lời nằm ở cảnh nhà hàng đông đúc và có người nhìn thấy một cô gái ngồi ở lầu trên. Tôi nghĩ đó là lúc câu chuyện thật sự bắt đầu, những cảnh trước đó chỉ là để xây dựng lớp nền cho người xem. Cách Hồng Ánh sử dụng khá nhiều góc máy trên cao nhìn xuống từ đầu phim cũng khiến tôi liên tưởng đến một người đang âm thầm quan sát mọi hoạt động, một người đang trốn ở đâu đó. Vậy nên, khi tôi biết được sự tồn tại của Chu, mọi thứ trở nên hợp lý. Sau sự xuất hiện của Chu, vẫn có những cảnh với góc máy cao; trong đó, một số cảnh có thể từ góc nhìn của Chu, số còn lại có thể là góc nhìn khách quan. Nhưng tôi thích điều ấy. Tôi thích cảm giác lẫn lộn khi mình không biết góc nhìn đó là của ai. Tôi cũng để ý thấy đôi khi, góc máy cao đơn thuần chỉ là cách Hồng Ánh mở đầu hay kết thúc một cảnh.

Có vài cảnh trong Đảo Của Dân Ngụ Cư khiến tôi nhớ đến phong cách của Trần Anh Hùng. Tôi nhận thấy chị thường mở đầu cảnh bằng một shot đi theo nhân vật và chị không đổi góc nhiều trong một cảnh, mọi thứ diễn ra với nhịp điệu chậm rãi. Ví dụ: shot dolly từ cửa sổ nhà hàng qua đến người vợ ngồi trước cửa nhà vắng khách, cảnh người vợ lau chùi nhà hàng và người chồng bước ra…

Một điểm nữa tôi lưu ý khi xem Đảo Của Dân Ngụ Cư là việc Hồng Ánh sử dụng cảnh toàn, cảnh trung và trung cận nhiều hơn cảnh cận và đặc tả. Vì chị hạn chế sử dụng cảnh cận [đây chỉ là cảm nhận chủ quan của tôi, tôi không thật sự chắc chắn, có thể chị dùng cảnh toàn, cảnh trung, và cảnh cận cùng số lượng], nên khi cảnh cận xuất hiện, nó tạo hiệu ứng mạnh mẽ hơn. Tôi rất thích cảnh cận hình ảnh con gián chết với những con kiến bò xung quanh, lá khô rơi rụng khắp mọi nơi. Hình ảnh này thể hiện sự chết chóc rõ rệt và khiến tôi cảm nhận được tâm trạng chán chường của nhân vật khi anh nói rằng không muốn mình như một con gián, cố gắng sống sót trong cuộc đời. Cảnh này kết hợp với âm nhạc và sự hòa điệu từ cảnh trước đó đã nâng nỗi buồn lên trong tôi về sự sụp đổ, sự bất ngờ khi mọi thứ không diễn ra theo lẽ tự nhiên nữa. Cảnh trước đó là một cảnh khá hài hước, khi Phước và Miên chạy rượt theo con dê với cái lon cột ở đuôi. Rõ ràng, đó một cảnh hoàn toàn trái ngược với cảnh con gián chết ngay sau đó giữa một bên là sự sống sinh động, một bên là cái chết im lìm.

Tôi cũng thích cách Hồng Ánh chèn những cảnh hoang tàn của nhà hàng vào giữa câu chuyện chính đang diễn ra. Từ đoạn đầu phim, chị cho người xem thấy cảnh nhà hàng bị tàn phá. Người xem biết trước cái kết của câu chuyện, nhưng khi họ gần như đã quên cái kết đó, chị lại nhắc họ về sự thật không thể thay đổi ấy, tựa như, sự tàn phá đó không chỉ ở đoạn cuối, có thể nó đã bắt đầu ngay từ khởi điểm hay đâu đó ở đoạn giữa – khi mọi thứ dường như đang phát triển theo hướng tốt hơn. Sự u sầu, mệt mỏi, không khí ngột ngạt dường như bao trùm lên cả căn nhà.

Cách Hồng Ánh sử dụng âm thanh trong phim cũng đặc biệt. Tôi thích cách sử dụng âm thanh trong cảnh mở đầu nhưng còn nhiều cảnh khác tôi cũng thích.

Thứ nhất, cảnh Phước bắt chước tiếng gà gáy. Đầu tiên, Phước gáy rất to và rồi nhận ra khi làm như thế có thể sẽ bị phát hiện nên Phước phải im lặng. Cảnh này thật sự rất dễ thương khiến tôi liên tưởng đến những cảnh lãng mạn trong phim Hàn Quốc.

Thứ hai, là cảnh Phước và Chu làm tình. Không cần sử dụng tiếng thở, hay những tiếng động khác, chỉ cần hình ảnh và nhạc, phim vẫn truyền tải được cảm xúc của họ trong đêm đầu tiên.

Thứ ba là cảnh Chu ném hai con chim đất nung qua cửa sổ. Tôi chờ tiếng vỡ khi hai con chim bị ném xuống đất, nhưng không có tiếng động gì cả. Âm thanh đó chỉ ở trong đầu người xem nếu họ muốn có một tiếng động nào đó tương tự như vậy. Cảnh này khiến tôi nhớ đến một cảnh trong Tony Takitani của Jun Ichikawa. Trong Tony Takitani, có cảnh Tony làm rơi chiếc đĩa xuống sàn, người xem có thể thấy mảnh đĩa vỡ tung nhưng họ không thể nghe âm thanh của nó. Hình ảnh ấy như dự đoán trước tương lai tối tăm của Tony. Nhưng trong phim Đảo Của Dân Ngụ Cư, Hồng Ánh sử dụng phương pháp này với mục đích và ý nghĩa khác. Chị không cho người xem thấy hình ảnh hai con chim vỡ, người xem chỉ thấy Chu ném hai con chim qua cửa sổ, rồi chị cắt qua hình ảnh bầu trời xanh, và cảnh này đã thật sự chạm đến cảm xúc của tôi, phần nào đó nó giúp tôi hiểu thêm về Chu để rồi cảm thấy thương Chu hơn. Trong suy nghĩ của cô gái ấy, hai con chim đất nung mà cô ném qua cửa sổ thật sự có thể bay, chúng không vỡ, chúng bay về phía bầu trời xanh ấy, chúng được tự do. Chu muốn được tự do như hai con chim đó, nhưng Chu không thể tự giải thoát mình, không thể mang tự do đến cho bản thân. Chu chết trong sự giam cầm, và có lẽ mẹ cô cũng vậy.

Tôi thích nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Mạnh Duy Linh. Những bản nhạc được sử dụng ở nửa đầu phim chỉ có tiếng piano [tôi không chắc chắn, có lẽ vì piano là tiếng tôi nghe thấy rõ nhất], với rất ít nốt nhạc và thường có nhiều khoảng lặng dài giữa các nốt như thể âm thanh rải rác trong không gian ấy muốn mời gọi người xem bước vào câu chuyện. Sau đó, nhạc sĩ dần sử dụng nhiều nốt hơn, nhiều nhạc cụ hơn. Vì vậy, âm nhạc rất phù hợp với không khí phim, nó đi theo tiến triển câu chuyện.

Về nhân vật, tôi rất thích vai diễn Xiếm Hoa của diễn viên Ngọc Hiệp. Cô không xuất hiện nhiều nhưng để lại ấn tượng mạnh mẽ trong các cảnh cô tham gia. Cô diễn vai một người vợ không hạnh phúc, một người mẹ hiền lành. Giọng cười không chút run sợ của cô khi chồng phát hiện bí mật khiến tôi thật sự ngạc nhiên. Tôi cũng thích cách Hồng Ánh kết cảnh với hình ảnh tay cô nắm lấy con dao. Tôi nghĩ cô sẽ cố gắng lấy hết sức để rút con dao, để đấu tranh lại, để đâm người chồng. Thế nhưng cảnh này lại kết thúc với cảnh cận cho thấy bàn tay đầy máu nắm con dao. Hình ảnh ấy như muốn nói cô muốn đấu tranh lại, nhưng sự đấu tranh đó không thành công. Cuối cùng, có lẽ cô cũng là người chịu nhiều đau khổ nhất. Một trong những điều tôi nhớ nhất về Xiếm Hoa là hình ảnh cô treo đèn lồng đỏ trước cửa nhà hàng. Theo tôi nhớ, có hai cảnh như vậy. Cảnh đầu là lúc mọi thứ đang yên ổn, nhà hàng còn đông khách. Cảnh thứ hai là khi cơn bão tới, nhà hàng hầu như không có khách và trông cô rất buồn. Ở lần thứ hai ấy, tôi cảm thấy rất thương cô. Lúc đầu, tôi không để ý lắm khi cô treo đèn lồng đỏ mỗi đêm. Nhưng khi cảnh đó lặp lại lần thứ hai ở gần cuối phim, với cơn bão đang đến, nhiều lá rơi rụng hơn, vắng khách hơn, với cảnh trung cận để thấy cô run rẩy trong cơn lạnh, tôi thật sự thấy buồn. Hình ảnh đèn lồng đỏ cũng khiến tôi nhớ đến phim Đèn lồng đỏ treo cao của Trương Nghệ Mưu.

Ngoài ra, tôi cũng thích cách Hồng Ánh bỏ một vài cảnh để đẩy nhanh câu chuyện của phim. Ví dụ: chị chỉ cho thấy cảnh Phước trèo lên và ngắm Chu, sau đó, người xem có thể thấy họ đã khá thân thiết với nhau. Không có cảnh lần đầu gặp gỡ với những câu hỏi căn bản như tên tuổi, hay những câu tương tự như thế. Tôi nghĩ đó là sự lựa chọn đúng. Và chị cũng không cho thấy những cảnh khá quan trọng ở một số phân đoạn, đặc biệt là phân đoạn cuối: cảnh Chu chết như thế nào. Người xem chỉ nghe thấy tiếng hét của bà vợ. Sau đó, người xem thấy cảnh khủng khiếp ấy qua góc nhìn của Phước. Và cuối cùng là góc cận khuôn mặt chết của Chu. Tôi rất thích cách xử lí này. Khi người xem không thấy toàn bộ diễn biến của câu chuyện, họ sẽ ngạc nhiên hơn vì họ không biết chuyện gì đã xảy ra, và sẽ diễn ra. Người xem chỉ có thể thấy kết quả. Điều ấy khiến tôi nhớ đến cuộc sống của chúng ta. Chúng ta thường chỉ chú ý đến những điều quan trọng khi mọi thứ đã quá trễ, khi ta đã mất nó. Cảnh này cũng vậy. Mọi người thường nhận ra vấn đề khi đã quá muộn, và cuối cùng, họ mất những gì quan trọng đối với họ.

Chủ Đề