Điểm nổi bật nhất trong nghệ thuật tác chiến ở Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975 là gì

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền nam trong năm 1975, tháng 1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên [mang mật danh A 275], nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên [Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức], thực hiện chia cắt chiến lược và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền nam.

Bộ Tư lệnh chiến dịch do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Lực lượng tham gia chiến dịch có năm sư đoàn bộ binh [10, 320, 316, 3 và 968], bốn trung đoàn pháo binh độc lập [25, 95B, 271, 95], Trung đoàn 198 và hai tiểu đoàn đặc công [14, 27], hai trung đoàn pháo binh [40, 675], ba trung đoàn phòng không [232, 234, 593], Trung đoàn Tăng-Thiết giáp 273, hai trung đoàn công binh [7, 575], Trung đoàn thông tin 29 và lực lượng vũ trang các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Đức.

Thực hiện nhiệm vụ nghi binh, tạo thế chiến dịch, ngay từ đầu tháng 3-1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng Sư đoàn 968 hoạt động nghi binh ở khu vực bắc Tây Nguyên khiến Sư đoàn 23 địch phải chuyển một bộ phận lực lượng từ Buôn Ma Thuột lên Kon Tum, Plây-cu đối phó.

Theo kế hoạch, ngày 4-3, bộ đội ta chính thức nổ súng mở Chiến dịch Tây Nguyên. Từ ngày 4 đến 9-3, quân ta đánh cắt giao thông trên các đường số 19, 21, cô lập Tây Nguyên với vùng duyên hải miền trung, chia cắt đường số 14 để cô lập hai khu vực bắc Tây Nguyên với nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn [8-3], Đức Lập [9-3], cô lập triệt để Buôn Ma Thuột.

Thừa thắng, trong 2 ngày 10 và 11-3, quân ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt thứ nhất của chiến dịch. Tiếp đó, từ ngày 14 đến 18-3, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 trong trận Nông Trại-Chư Cúc, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai. Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của quân ta, từ ngày 15-3, quân địch rút khỏi Kon Tum, Plây-cu theo đường số 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển Khu 5. Không bỏ lỡ thời cơ, bộ đội ta kịp thời truy kích, tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy trên đường số 7, với các trận Cheo Reo [từ ngày 17 đến 19-3], Củng Sơn [24-3], giành thắng lợi trong trận then chốt thứ ba…

Sau đó, quân ta phát triển chiến đấu xuống vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phối hợp với quân và dân địa phương lần lượt giải phóng các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, kết thúc chiến dịch vào ngày 3-4-1975. Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2-Quân khu 2 quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, giải phóng năm tỉnh [Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức] và một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ.

Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thắng lợi vang dội có ý nghĩa to lớn cả về chính trị và quân sự. Xét trên phương diện nghệ thuật thì Chiến dịch Tây Nguyên có bước phát triển nhảy vọt, thể hiện nét độc đáo của bài học kinh nghiệm về nghệ thuật mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975:

Ta chọn đúng hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu. Xác định đúng đắn các hướng và mục tiêu của chiến dịch, nhất là hướng và mục tiêu chủ yếu là một trong những vấn đề rất quan trọng bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi.

Trong Chiến dịch Tây Nguyên, ta đã chọn đúng hướng chủ yếu là nam Tây Nguyên và chọn đúng mục tiêu tiến công chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Như vậy, ta đã điểm đúng huyệt, đánh vào nơi rất hiểm yếu của địch. Thực tiễn chiến dịch cho thấy, trong trận Buôn Ma Thuột, ta có điều kiện triển khai binh lực và thực hiện tiến công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành với quy mô lớn đã giành thắng lợi oanh liệt, làm đảo lộn thế phòng thủ của địch, buộc chúng phải rút bỏ Kon Tum, Plây-cu, tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển tiến tới thắng lợi.

Thực hiện nghệ thuật nghi binh, tạo thế, giữ vững quyền chủ động tiến công trong suốt quá trình chiến dịch. Đây là nét độc đáo nổi bật về nghệ thuật tiến hành một loạt các biện pháp nghi binh lừa địch, tạo yếu tố bất ngờ. Đó là trên hướng Kom Tum, Plây-cu, ta sử dụng Sư đoàn 968 và lực lượng vũ trang hai tỉnh hoạt động nghi binh khiến địch càng tin ta tiến công ở bắc Tây Nguyên nên đã thu hút và giam chân khối chủ lực cơ động của địch, trong khi ta tập trung mở cuộc tiến công ở nam Tây Nguyên. Nhờ vậy, trong giai đoạn đầu chiến dịch, khi ta thực hiện tiến công ở nam Tây Nguyên đã khiến địch hoàn toàn bị bất ngờ, dẫn đến hậu quả nhanh chóng thất bại.

Tập trung lực lượng tạo ưu thế hơn hẳn địch trên hướng và mục tiêu chủ yếu để giành thắng lợi. Trong chiến dịch này, ta huy động lực lượng chủ lực của Bộ tăng cường [14 tiểu đoàn bộ binh] cùng với chủ lực Quân khu 5 và Đông Nam Bộ [10 tiểu đoàn] đến phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương [28 tiểu đoàn bộ binh]. Với lực lượng lớn đó, trên hướng chủ yếu của chiến dịch [nam Tây Nguyên], ta đã tạo được ưu thế về binh lực hơn hẳn địch. Đối với mục tiêu chủ yếu [Buôn Ma Thuột], cũng là trận then chốt mở màn chiến dịch, ta tập trung lực lượng tăng gấp năm lần quân địch, tạo thế bao vây, chia cắt, cô lập chúng để tiêu diệt từng cứ điểm địch. Đến trận then chốt thứ hai [đánh Sư đoàn 23 địch phản đột kích], lực lượng ta chỉ gần bằng và trận then chốt thứ ba [đánh địch rút chạy trên đường số 7], ta ít hơn địch, nhưng thế ta lại hơn hẳn thế địch, nên đã đánh thắng chúng.

Vận dụng linh hoạt cách đánh chiến dịch. Thành công nổi bật của ta trong chiến dịch là vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức tác chiến, đánh cắt giao thông, đánh thị xã, căn cứ, đánh địch phản đột kích và đánh chúng rút chạy.

Nhìn chung, cách đánh toàn chiến dịch cũng như trong từng trận đánh, ta tổ chức nghi binh tạo thế, thu hút, giam chân chủ lực địch trên hướng thứ yếu [bắc Tây Nguyên], còn ta tập trung tạo ưu thế binh lực trên hướng chủ yếu [nam Tây Nguyên] và mục tiêu chủ yếu [Buôn Ma Thuột] địch không ngờ tới, thực hiện bao vậy, chia cắt từng cụm cứ điểm, kết hợp đột phá với luồn sâu, thọc sâu, hiệp đồng binh chủng, trong ngoài cùng đánh, phá vỡ hệ thống phòng thủ kiên cố của địch ở Buôn Ma Thuột, tạo điều kiện kéo quân địch còn lại ra ngoài công sự kiên cố để tiếp tục tiêu diệt Sư đoàn 23 địch và cuối cùng vận động tiến công tiêu diệt quân địch còn lại rút chạy trên đường số 7, giành thắng lợi.

Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị động, bị suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường. Chiến thắng Tây Nguyên đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại tá, PGS, TS KHQS TRẦN NAM CHUÂN

Chiến dịch Tây Nguyên [từ ngày 4-3 đến 3-4-1975], đòn mở đầu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của quân và dân ta giành thắng lợi, đã tạo nên bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh. Thành công của chiến dịch đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của T.Ư Đảng, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân giải phóng miền nam, sự suy sụp nhanh chóng của quân đội cùng chính quyền Sài Gòn.

Tây Nguyên lúc đó có diện tích khoảng 60.000 km2, gồm các tỉnh: Kon Tum, Plây Cu, Phú Bổn, Đác Lắc và một phần tỉnh Quảng Đức; được người Pháp coi là "mái nhà Đông Dương". Ai làm chủ được địa bàn này sẽ làm chủ được Đông Dương. Thay chân thực dân Pháp, đế quốc Mỹ càng chú trọng hơn vị trí chiến lược quân sự này. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tăng cường nhiều biện pháp để kìm kẹp đồng bào các dân tộc, ngăn chặn phong trào cách mạng ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, với tinh thần quật khởi, quân và dân Tây Nguyên đã liên tục đấu tranh, từng bước đánh bại âm mưu, hành động xâm lược của địch. Nhất là, với thắng lợi bắc Tây Nguyên năm 1972, đã góp phần cùng quân và dân cả nước đánh đòn quyết định, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Dù vậy, Mỹ vẫn ngấm ngầm viện trợ quân sự và hối thúc chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Trước tình hình đó, tháng 7-1973, Ban Chấp hành T.Ư Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 chỉ rõ: Con đường tiến lên của cách mạng miền nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công...

Tháng 3-1974, Quân ủy T.Ư họp, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng, nhất là bộ đội chủ lực từng bước nâng dần trình độ đánh tiêu diệt. Theo đó, từ cuối năm 1973 đến 1974, tất cả các chiến trường trên toàn miền nam đã chuyển sang phản công và tiến công kiên quyết, đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân của địch. Tại Tây Nguyên, ta đã đánh chiếm căn cứ Chư Nghé, Mang Đen, Mang Bút..., mở rộng vùng giải phóng ở phía tây đường số 14 và bắc thị xã Kon Tum.

Bước vào xuân - hè năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy T.Ư đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đác Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền nam. Bộ Tư lệnh chiến dịch do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm năm sư đoàn [10, 320, 316, 3, 968] và bốn trung đoàn bộ binh, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, hai trung đoàn pháo binh, một trung đoàn tăng - thiết giáp [T-TG], ba trung đoàn pháo phòng không.

Lúc này, chính quyền Sài Gòn cho rằng: Năm 1975, ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố, nếu có đánh cũng chỉ đánh ở phía bắc Tây Nguyên; trong trường hợp giành được địa bàn, ta cũng không giữ được khi chúng phản kích chiếm lại. Vì vậy, với lực lượng gồm: Sư đoàn bộ binh 23, bảy tiểu đoàn biệt động quân, 36 tiểu đoàn bảo an, một lữ đoàn T-TG, 230 khẩu pháo, một sư đoàn không quân, quân đội Sài Gòn tập trung giữ Plây Cu, Kon Tum; còn lực lượng địch ở Đác Lắc, Buôn Ma Thuột không mạnh, phần lớn là quân hậu cứ của sư đoàn và trung đoàn, càng sâu vào phía trong, lực lượng đối phương càng mỏng. Ở chiến trường Tây Nguyên, thị xã Buôn Ma Thuột là nơi đặt căn cứ Sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn và là tỉnh lỵ của Đác Lắc; khu vực này nằm ở ngã ba chiến lược, có đường số 21 nối liền Nha Trang và đường số 14, phía bắc đi Cheo Reo và Plây Cu, phía nam đi Gia Nghĩa và miền Đông Nam Bộ. Giải phóng Buôn Ma Thuột, ta nắm được địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng để phát triển về mọi hướng, chia cắt Tây Nguyên với các vùng khác, chế ngự được đối phương, giành quyền chủ động cao hơn. Không những vậy, Buôn Ma Thuột còn là biểu tượng về sự "ổn định" của chính quyền Sài Gòn ở Tây Nguyên và cả miền nam.

Dựa trên cơ sở phân tích thuận lợi và khó khăn chiến trường, Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư và Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá chiến lược mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên. Thực hiện quyết tâm nêu trên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra hai phương án đánh Buôn Ma Thuột: Nếu địch chưa tăng cường lực lượng thì đánh ngay. Nếu địch tăng cường lực lượng ở Buôn Ma Thuột thì dụ địch ra ngoài, đánh viện tiêu diệt địch ở Cẩm Ga và Thuần Mẫn. Đối với cả hai trường hợp, ta đều phải thực hiện nghi binh ở hướng Trị - Thiên và Kon Tum, Plây Cu.

Ngày 4-3-1975, sau một loạt các hoạt động nghi binh, thu hút quân đội Sài Gòn lên hướng Plây Cu, Kon Tum, chiến dịch Tây Nguyên chính thức mở màn bằng đợt tác chiến tạo thế. Trung đoàn 95A được lệnh đánh cắt giao thông trên đường số 19, tiêu diệt một số chốt giao thông, làm chủ hoàn toàn đoạn đường dài 20 km từ ngã ba Plây Bôn đến gần ấp Phú Yên. Cùng lúc, Sư đoàn 320 tổ chức đánh cắt đường số 14 ở khu vực bắc Cẩm Ga, chia cắt khu vực bắc và nam Tây Nguyên. Trên hướng đường số 21, Trung đoàn 25 thực hiện đánh chia cắt tuyến đường ở phía đông Chư Cúc. Thế chia cắt hình thành khiến cho liên lạc giữa thị xã Quy Nhơn với thị xã Plây Cu - Kon Tum, giữa thị xã Nha Trang với thị xã Buôn Ma Thuột... hoàn toàn bị cắt đứt. Những đòn tiến công của quân giải phóng Mặt trận Tây Nguyên đã kéo được phần lớn lực lượng địch về hướng Kon Tum - Plây Cu. Ngày 9-3-1975, quân ta tổ chức tiến công tiêu diệt địch ở Đức Lập, nhằm thu hút thêm sự chú ý của quân đội Sài Gòn về hướng này.

Sau khi triển khai lực lượng cài thế bao vây, lực lượng binh chủng hợp thành với bốn mũi chủ lực, kết hợp các đơn vị tinh nhuệ và các tiểu đoàn bộ binh bí mật luồn sâu bố trí sẵn, bỏ qua các đồn bốt ngoại vi, dùng binh lực lớn đánh thẳng vào trung tâm thị xã, đập tan Sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn và Sở chỉ huy Tiểu khu Đác Lắc. Sáng 10-3-1975, quân ta mở màn trận tiến công Buôn Ma Thuột, bộ đội đặc công và pháo ĐKB của ta nổ súng tiến đánh sân bay Hòa Bình, hậu cứ Trung đoàn 53, sân bay thị xã Buôn Ma Thuột và khu kho Mai Hắc Đế. Các cụm pháo chiến dịch bắn dồn dập vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn, Sở chỉ huy Tiểu khu Đác Lắc và khu thiết giáp. Đến chiều 10-3, ta chiếm được phần lớn thị xã. Lúc này, chính quyền Sài Gòn mới biết rõ Buôn Ma Thuột là hướng tiến công chủ yếu của ta. Sáng 11-3, quân ta từ các hướng đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 và các mục tiêu còn lại, giành quyền làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột. Chính quyền Sài Gòn tổ chức lực lượng Sư đoàn 23 cùng tàn quân Trung đoàn 53 và Liên đoàn 21 biệt động quân mở trận phản kích hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng đã bị Quân giải phóng đập tan hoàn toàn.

Từ ngày 15-3, sau hai trận thua lớn ở Buôn Ma Thuột, chính quyền Sài Gòn quyết định rút bỏ Kon Tum, Plây Cu, đưa quân về giữ vùng đồng bằng ven biển miền trung. Một cuộc tháo chạy chiến lược của quân đội Sài Gòn bắt đầu. Quân giải phóng tổ chức truy kích và tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy ở Cheo Reo, Củng Sơn. Phối hợp hướng chính, các lực lượng vũ trang tiến công giải phóng An Khê [12-3], Kon Tum, Plây Cu [17-3], Kiến Đức [20-3], Gia Nghĩa [22-3]. Sau khi làm chủ Tây Nguyên [24-3], các cánh quân tiếp tục phát triển xuống duyên hải Trung Bộ theo các trục đường 19, 7 và 21, giải phóng Bình Khê, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh. Ngày 3-4-1975, Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, ta đã tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 quân đội Sài Gòn, loại khỏi chiến đấu hơn 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, 17.188 súng các loại...

Như vậy, bằng nghệ thuật tạo thế, nghi binh lừa địch, Chiến dịch Tây Nguyên đã tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn, giải phóng một địa bàn quan trọng, uy hiếp trực tiếp tuyến phòng ngự ven biển miền trung, mở đầu cho sự cáo chung của chế độ Sài Gòn. Đặc biệt, trận then chốt đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột thắng lợi, đã gây nên phản ứng dây chuyền, góp phần làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến trường, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhanh chóng kết thúc thắng lợi. Với ý nghĩa đó, Chiến dịch Tây Nguyên thực sự là đòn điểm huyệt quân đội Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Đại tá, TS NGUYỄN HUY THỤC

Video liên quan

Chủ Đề