Tại sao vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn nhau, trong đó vật chất quyết định ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.

Vật chất là gì?

Vật chất là một khái niệm thuộc phạm trù triết học dùng để chỉ những thực tại khách quan mà con người có thể thấy được, cảm nhận, sờ thấy. Đó là những hiện hữu trong cuộc sống xung quanh chúng ta, có thể chụp lại, phản ánh, nó cho ta cảm giác.

Vật chất có hai nội dung chính như sau:

  • Là phạm trù thuộc triết học thể hiện thực tại khách quan và con người nhận thức được qua cảm giác.
  • Đó là cảm giác phản ánh, là sự chụp lại không phụ thuộc cảm giác, là cái mà con người hoàn toàn nhận thức được.

Ý thức là gì?

Ý thức được biết đến là sự phản ánh thế giới khách quan lên trí óc của con người với việc lấy các hoạt động thực tiễn làm cơ sở. Ý thức cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức chính là cảm nhận và suy nghĩ, tư duy của bộ óc con người sau khi nhìn thấy thực tiễn hay sự vật hiện tượng nào đó. Có người ý thức đúng hoặc sai, trừu tượng hoặc chân thực, đó là vấn đề cảm quan của từng người.

Ý thức có những nội dung chính như sau:

  • Sự phản ánh thực tại khách quan trên cơ sở hoạt động thực tiễn chính là bản chất của ý thức. Như vậy thì ý thức không phải là huyền bí.
  • Ý thức cho thấy hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy, bản thân sự vật đi vào trí óc của con người và được cải biên trong đó. Chính bởi thế mà nội dung phản ánh mang tính khách quan và mức độ cải biên như nào sẽ phụ thuộc vào chủ thể.
  • Ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động, sáng tạo. Bên cạnh đó, ý thức cũng mang kết cấu phức tạp với nhiều thành tố

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Chủ nghĩa Duy tâm vốn cho rằng ý thức là cái có trước và vật chất là cái có sau, và Ý thức là cái quyết định Vật chất.

Tuy nhiên, với chủ nghĩa Duy vật siêu hình lại cho rằng Vật chất có trước, ý thức có sau, chính Vật chất sinh ra ý thức và quyết định ý thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.

  • Vai trò của vật chất với ý thức: Ta thấy Ý thức chính là sản phẩm của một dạng vật chất, được tổ chức nên bộ óc của con người, do đó chỉ có con người mới có ý thức. Con người cũng chính là kết quả của quá trình phát triển trong thế giới vật chất, và cũng là sản phẩm từ thế giới vật chất.

  • Ý thức là sự thể hiện của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan, do đó nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.

  • Vai trò của ý thức với vật chất: Với mối quan hệ với vật chất, ý thức cũng có thể tác động trở lại vật chất bằng cách thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Như ta đã biết ý thức chính là ý thức của con người, vì vậy nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Thực tế thì bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực, do đó mà muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.

Bản chất mối liên hệ giữa vật chất và ý thức

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mật thiết qua lại với nhau. Trong mối quan hệ này thì vật chất có trước và ý thức sẽ phản ánh lại sau, vật chất là nguồn gốc của mọi vấn đề nhận thức. Còn ý thức nhận định thể nào lại không hoàn toàn do vật chất, sau đó từ ý thức con người sẽ có tác động trở lại với vật chất qua hành động của người.

“Vật chất quyết định ý thức” hay “ý thức quyết định vật chất” – đây vẫn là tranh cãi chưa đi đến hồi kết bởi quan niệm của từng người. Đây cũng là cuộc tranh luận bất phân kết quả giữa Triết học duy vật và Triết học Duy tâm.

Nhà khoa học Albert Einstein từng cho rằng “Quan niệm chung thực thể chỉ là hàng loạt những định kiến đã được nhồi nhét vào đầu óc bạn từ trước khi bạn đủ 18 tuổi”. 

Vậy ý thức phải chăng cũng là vật chất? Phải chăng là bởi ý thức cũng là vật chất. Theo nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ, ý thức thực sự tác động đến vật chất.

Vật chất quyết định ý thức

Rõ ràng rằng vật chất có trước, hiện hữu trong thực tiễn mà con người có thể nhìn thấy, sau đó bộ não con người sinh ra ý thức. Ý thức chính là chức năng hoạt động của bộ não nhưng ở mỗi người thì nó lại khác nhau. Ý thức chính là sự phản ánh thế giới vật chất xung quanh vào trí não của con người. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ thực tiễn rất cần thiết.

Ý thức tác động trở lại vật chất

Bạn biết đấy sau khi nhìn thấy, cảm nhận, tương tác với vật chất sinh ra nhận thức thì chủ thể có thể điều khiển mình hoạt động, làm những công việc tác động trở lại thứ vật chất đó. khiến cho thứ đó có thể thay đổi khác với hình dạng và công dụng ban đầu. Ý thức con người tác động theo chiều hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm vật chất theo ý của mình.

Sự tác động của ý thức nhất định phải thông qua hoạt động của con người cụ thể qua các hành động như cầm nắm, di chuyển, hay can thiệp vào vật chất. Tuy nhiên sự tác động này dù có ở mức độ nào thì nó vẫn phải dựa trên sự phản ánh qua bộ não của chủ thể.

Biểu hiện cụ thể mối quan hệ giữa vật chất và ý thức tồn tại ở các mối quan hệ trên thực tế trong xã hội. Chúng tác động qua lại lẫn nhau và cùng nhau tồn tại bền vững, là cơ sở để nhận xét các mối quan hệ. Bao gồm đánh giá nhận thức của từng chủ thể, điều kiện khách quan,…

Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa là vật chất có quyết định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, con người sẽ biết những hành động, cư xử đúng mực.

Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất, như khi đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.

Trong một thời kỳ đề ra vấn đề công hữu thì việc xây dựng quan hệ sản xuất không dựa trên lực lượng sản xuất.

Ý nghĩa phương pháp luận giữa vật chất và ý thức

Bởi vật chất quyết định ý thức, vì thế mọi chủ trương hoạt động nhận thức của con người đều cần xuất phát từ sự khách quan của hiện thực, đồng thời hoạt động tuân theo quy luật khách quan. Chính bởi vậy mà con người cần có quan điểm khách quan trong các hoạt động thực tế.

Lê Nin cho rằng “Giữa vật chất và ý thức vốn chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận, ngoài lĩnh vực đó ra thì sự phân biệt chỉ là tương đối”

Tại sao mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học?

Có nhiều đặt ra câu hỏi tại sao lại nói mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ bản của triết học. Từ xa xưa các chuyên gia đã dày công nghiên cứu những thứ sinh ra và tồn tại trong thực tế cuộc sống. Phạm trù này được nghiên cứu và phân tích dưới nhiều quan điểm khác nhau, đôi khi các triết gia cũng có các cuộc tranh luận nho nhỏ.

Giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm có những quan điểm quá khác nhau, cho tới nay thì con người vẫn vận dụng cả 2 khái niệm này. Vật chất là phạm trù rất rộng có muôn hình vạn trạng hiện hữu trong cuộc sống. Nhiều mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội. Bạn có thể thấy nó trong công việc, đời sống sinh hoạt, xung quanh.

Vốn dĩ vật chất tồn tại không phụ thuộc vào yếu tố khác nhau cảm giác, nhận thức con người có sau chỉ là phản ánh lại thứ có sẵn đó. Nhưng ý thức con người lại quan trọng vì con người là chủ thể quyết định rất nhiều việc và câu chuyện. Vật chất và ý thức luôn là chủ đều cho các triết gia nghiên cứu.

Thế giới vật chất phong phú luôn vận động không ngừng, việc chủ thể cảm nhận hay lựa chọn tác động hay không là vấn đề chủ quan. Điều tuyệt vời đó là ý thức của con người là vô tận, có những người vô cùng thông minh, họ tiếp nhận thông tin và cải biến, thay đổi nó trên cơ sở thứ đã có.

Tác động một cách tích cực vào vật chất khiến nó trở nên có ích hơn và có thể phục vụ tốt cho cuộc sống nhân loại. Chúng ta phải biết cảm ơn sự nỗ lực, công sức và cả hy sinh của các triết gia khi họ tìm tòi ra những điều mới mẻ xung quanh tồn tại dưới dạng vật chất. Từ đó hạn chế rủi ro, giúp con người có thể điều khiển, vận dụng được những thứ vật chất có thực.

Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn cuộc sống

Hiện nay con người hiểu rõ và tiếp thu được những nghiên cứu và kết luận từ phân tích của nhà khoa học, triết gia vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó vận dụng mối liên hệ giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con người tác động trở lại với thực tại vật chất qua các nhận thức cụ thể. Có những thứ hiện hữu trong cuộc sống thực tại mà cần có sự cải tạo của con người thì mới có ích để sử dụng cho nhiều việc.

Từ sự xuất hiện sẵn có của vật chất trong thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí sáng tạo thay đổi và tác động trở lại. Khiến cho vật chất đó sản sinh ra nhiều những đồ vật, món đồ, sinh vật, thực vật,…đa dạng hơn nữa. Hoặc nếu chủ thể nhận thức đó là thứ có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển và loại bỏ nó khỏi thế giới con người.

Bởi vậy mới nói chúng ta cần khuyến khích các nhà khoa học tìm tòi, khám phá thế giới vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và lý giải chúng thật chính xác. Từ đó bảo vệ và góp  phần phát triển cuộc sống con người tốt và hiện đại hơn.

Người đăng: hoy Time: 2020-09-30 10:08:49

Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Có mấy vấn đề cơ bản của triết học? Phân tích nội dung và cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lịch sử của triết học? Cùng Luận văn 1080 tìm hiểu các vấn đề này nhé.

Xem thêm các bài viết khác:

Hàng hóa sức lao động là gì? Lý luận về hàng hóa sức lao động

Trả lời “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?” qua lý luận của các trường phái Triết học

1. Vấn đề cơ bản của triết học là gì?

Mục lục

Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, mặt khác nó cũng là là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ. Ăngghen cũng đã trả lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo ông: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

-  Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?

-   Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái triết học. Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện nhất nguyên luận khi lấy việc thừa nhận chỉ một trong hai thực thể [vật chất hoặc ý thức] là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm [chủ nghĩa duy tâm, triết học duy tâm] và nhất nguyên luận duy vật [chủ nghĩa duy vật, triết học duy vật].

 Vấn đề cơ bản của triết học là gì?

2. Chủ nghĩa duy tâm lý luận về “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”

Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.

Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân. Đại biểu là Gióocgiơ Béccli ông là nhà triết học duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh.

Triết học của ông chứa đầy tư tưởng thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan điểm của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm về vật chất không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những vật thể cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần tuý mà thôi.

Vậy đối với triết học Béccli thì các vật thể cụ thể cảm tính được hiểu như thế nào? Với tính cách một nhà triết học duy tâm chủ quan, ông đưa ra một mệnh đề triết học nổi tiếng “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của các cảm giác”. Thí dụ, cái bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc, hương vị của hoa quả cũng chỉ do cảm giác của con người nhận biết.

Chúng không tồn tại thật. Nói tóm lại, theo Béccli, mọi vật thể chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa là được cảm biết.  Như vậy chủ nghĩa duy tâm chủ quan cuối cùng đã đưa triết học của Béccli đến chủ nghĩa duy ngã, đến chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan, tồn tại thật sự của sự vật, kể cả con người, chỉ loại trừ chủ thể đang nhận thức [tức con người có cảm giác], loại trừ cái “tôi” mà thôi. Để cố gắng tránh rơi vào chủ nghĩa duy ngã đầy phi lí, Béccli đã chuyển từ chủ nghĩa chủ nghĩa duy tâm chủ quan sang chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Ông khẳng định rằng: chủ thể nhận thức thì không phải chỉ có một, khi một vật nào đó khi không còn nhận thức bởi một chủ thể này thì nó lại tiếp tục được nhận thức bởi các chủ thể khác. Và thậm chí tất cả các chủ thể [con người] không còn nữa thì vật thể vẫn tồn tại như là tổng số tư tưởng trong trí tuệ Thượng đế. Và Thượng đế cũng là một chủ thể, nhưng tồn tại vĩnh cữu và luôn luôn đưa vào trong ý thức những chủ thể riêng lẻ [con người] nội dung của cảm giác.

Về bản chất giai cấp, triết học Béccli là phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đã giành được chính quyền, rất sợ tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Vì vậy không phải ngẫu nhiên trong triết học của mình, Béccli đã sử dụng phép siêu hình, chủ nghĩa cơ giới để chống lại những tư tưởng tiến bộ trong khoa học, như chống lại quan niệm của Niutơn về không gian như bể chứa những vật thể trong tự nhiên; chống lại luận điểm của Lốccơ về nguồn gốc của khái niệm vật chất và không gian. Do vậy, triết học của Béccli là mẫu mực và là một trong những nguồn gốc của các lí thuyết triết học tư sản duy tâm chủ quan cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.  

 Chủ nghĩa duy tâm lý luận về “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”

 Chủ nghĩa duy tâm khách quan - thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức những tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh thần, ý thức khách quan này thường được mang các tên gọi khác nhau như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”, “lí tính thế giới”. Đại biểu là Platôn [427- 347 TCN] ông là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platôn là “học thuyết về ý niệm”.

Trong thuyết này, Platôn đưa ra quan điểm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biến là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có cái gì bền vững, ổn định, hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới của cái phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới của đúng đắn, chân thực sự cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người, theo Platôn không phải là phản ánh các sự vật cảm biến của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm.

Thế ý niệm có trước thế giới các vật cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Ví dụ: cái cây, con ngựa, nước sinh ra. Hoặc khi nhìn các sự vật thấy là bằng nhau vì trong đầu ta đã có sẵn ý về sự bằng nhau. Từ quan niệm trên, Platôn đưa ra khái niệm “tồn tại” và không “tồn tại”. “Tồn tại” theo ông là cái phi vật chất, cái được nhận biết bằng trí tuệ siêu nhiên, là cái có tính thứ nhất.

Còn “không tồn tại” là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Như vậy, học thuyết về ý niệm và tồn tại của Platôn mang tính chất khách quan rõ nét. Lí luận nhận thức của Platôn cũng có tính chất duy tâm. Theo ông tri thức, là cái có trước sự vật cảm biết mà không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận các sự vật đó.

Nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính, vì linh hồn trước khi nhập vào thể xác con người ở trần thế thì ở thế giới bên kia đã có sẵn các tri thức. Do vậy nhận thức con người không phải phản ánh các sự vật của thế giới khách quan, mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã lãng quên trong quá khứ. Platôn cho rằng, những ý kiến xác thực được khơi dậy, được hồi tưởng lại nhờ các câu hỏi đối thoại giữa loài người thì sẽ trở thành tri thức; Platôn gọi cách thức đối thoại như vậy là phương pháp biện chứng.

Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết tiểu luận, bài tập lớn. Bạn cần đến dịch vụ viết tiểu luận thuê tại Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, ... để giúp mình hoàn thành những bài tiểu luận đúng deadline?

Khi gặp khó khăn về vấn đề viết tiểu luận, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.

3. Chủ nghĩa duy vật lý luận về “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”

Ngược lại với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy.

Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận  với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.

Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 giai đoạn cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác ra đời vào thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật thể hiện khá rõ ở các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Tuy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình có tính chất kế thừa từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác nhưng nó có sự phát triển hơn do cơ học cổ điển thời kỳ này đạt được những thành tựu rực rỡ. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời mà C.Mác và Ăngghen là những người xây dựng và Lênin là người hoàn thiện và bổ sung.

Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển. Tiêu biểu  cho chủ nghĩa duy vật  cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ là Đêmôcrít [460 – 370 TCN].

Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học, đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát triển quan điểm của Lơxip. Nổi bật trong triết học duy vật của ông là học thuyết về nguyên tử. Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không âm thanh, màu sắc và mùi vị. Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm nguyên tử là vô hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sự kết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định.  

Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì không thay đổi. Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và vận động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ không phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa thấy được nguồn gốc của vận động và vận động không chỉ là sự di chuyển trong chân không của các nguyên tử. Dựa vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theo quy luật nhân quả tính khách quan trong tính tất yếu của sự vật, hiện tượng tự nhiên.

Đó là đóng góp quan trọng của Đêmôcrit cho triết học duy vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là một hiện tượng không có nguyên nhân.  Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm về sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên sống ở dưới nước, sau đó chuyển lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông coi cái chết là sự phân tích của các nguyên tử tạo nên xác và của những nguyên tử cấu tạo lên tinh hồn chứ không phải linh hồn rời khỏi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính mộc mạc song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người.

Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận thức thế giới. Hình thức cơ bản cuối cùng của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng đại biểu là Mác, Ăngghen, Lênin. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác – Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực đó. Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.

Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của phương pháp luận. Triết học Mác – Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên triết học Mác – Lênin còn được gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nghiên cứu triết học Mác – Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặt cách mạng do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ sung phát triển thêm.

Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích về thế giới vật chất và vai trò con người về mặt lí luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết học đối với đời sống xã hội. Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật Mác – Lênin đã bao hàm sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học. Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin được coi là cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu con người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận động phát triển của xã hội, khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định tồn tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết học và khoa học hiện đại trên cơ sở nghiên cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho sự hoạt động của đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại". Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.

Trả lời mặt thứ nhất của “vấn đề cơ bản của triết học là gì” cũng đã xuất hiện nhị nguyên luận khi lấy việc thừa nhận vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại, không có cái nào trước, chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới, mà Đêcáctơ [1596-1650] là một nhà khoa học, đồng thời là một nhà triết học lớn của Pháp và châu âu. Ông được đánh giá là một trong những người sáng lập nên nền triết học của thời đại mới chống lại tôn giáo, chống lại chủ nghĩa kinh viện và cũng xây dựng tư duy mới giúp cho việc nghiên cứu khoa học-đề ra phương pháp mới trong vấn đề nhận thức: ”phương pháp thực nghiệm”[emperism].

Học thuyết triết học của ông toát lên tinh thần duy lý.Có thể chia triết học của ông thành hai bộ phận là siêu hình học và khoa học [vật lý học]. Trong siêu hình học, Đêcác tơ là nhà nhị nguyên luận ngã về phía duy tâm; nhưng trong khoa học ông lại là nhà duy vật siêu hình máy móc nổi tiếng. Hi vọng với bài viết này sẽ giúp bạn trả lời được câu hỏi “vấn đề cơ bản của triết học là gì?”. Chúc bạn học tập tốt! 

Video liên quan

Chủ Đề