Ghi nhớ công lao của Tống Phước Hiệp đổi với dinh Long Hồ nhân dân nơi đây đã suy tôn ông là gì

Trong lịch sử của một đất nước, điều làm nên sự khác biệt chính là “linh hồn”  dân tộc. Kết tinh từ những giá trị văn hiến, nhân văn bất khả xâm phạm, những gì tinh túy nhất hình thành nên bản sắc của một cộng đồng, sắc dân, dân tộc. Đó cũng là vũ khí quan trọng nhất của một đất nước trong quá trình hình thành, tồn tại, hội nhập và phát triển.

Ông Nguyễn Chiến Thắng tra cứu về nhân vật Tống Phước Hiệp trong bản thảo công trình khoa học “Từ điển nhân vật lịch sử tỉnh Vĩnh Long”.

Đối với đất nước chúng ta- đặc biệt là vùng đất mới phương Nam, đình miếu là một trong những thành tố quan trọng, tạo nên một không gian văn hóa riêng, kết nối vào tiến trình vận động chung của dân tộc, hòa thành dòng chảy lịch sử chứa đựng trong lòng nó một chiều sâu ngàn năm văn hiến. Vĩnh Long là một vùng đất trọng yếu, trong giai đoạn hoàn thành quá trình mở cõi phương Nam nên cũng không ngạc nhiên khi đây là một trong số ít địa phương của Nam Bộ còn lưu giữ lại “đậm đặc” những di tích lịch sử văn hóa. Trong đó, miếu Tống Quốc Công là một di tích khá đặc biệt, ghi nhận công lao to lớn của một nhân vật lịch sử- quan Lưu thủ Long Hồ Dinh Tống Phước Hiệp.

Những mốc lịch sử  trong quá trình mở cõi

Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục [quyển III], vào tháng 3 năm Tân Sửu [1301], Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã truyền ngôi cho con ở núi Yên Tử, muốn thưởng ngoạn khắp núi sông thiên hạ, nên mới du phương rồi sang Chiêm Thành. Trong chuyến đi này, Trần Nhân Tông đã hứa gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Đến tháng 6 năm Bính Ngọ [1306], tức 5 năm sau, Huyền Trân công chúa mới chính thức lên thuyền hoa về nhà chồng. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí [châu Lý] làm sính lễ. Vua Trần Anh Tông tiếp nhận châu Ô và châu Rí, đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu, tức vùng đất từ Quảng Trị và đến đèo Lao Bảo [Nam đèo Hải Vân], bắt đầu cuộc di dân, lập ấp đầu tiên trong lịch sử mở rộng cõi bờ về phương Nam.

Nhưng phải đến năm 1558, khi chúa Nguyễn Hoàng nghe theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái. Vạn đại dung thân”, mà xin về trấn thủ đất Thuận Hóa, mở xứ Đàng Trong; con cháu kế tiếp nối ngôi chúa Nguyễn kéo dài 219 năm trong lịch sử, đất nước mới thật sự hình thành nên thế đất vững bền, phát triển cực thịnh về mọi mặt.

Cuộc mở mang bờ cõi lại được đánh dấu bằng mốc son lịch sử đáng nhớ: Năm 1732, khi Ninh vương Nguyễn Phúc Trú quyết định thành lập dinh thứ 12 là Long Hồ Dinh [châu Định Viễn], lỵ sở đặt tại thôn An Bình Đông, huyện Kiến An [Cái Bè]. Đến năm 1757, lỵ sở được dời về xứ Tầm Bào, thuộc địa phận Long Hồ, TP Vĩnh Long ngày nay. Long Hồ Dinh ra đời, định vị một cuộc đất quan trọng đối với phương Nam về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa,... Và, cũng đánh dấu cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc ta, đã cơ bản hoàn thành.

Đặc biệt, vùng đất Long Hồ Dinh gắn liền với tên tuổi một nhân vật lịch sử Tống Phước Hiệp.

Quan Lưu thủ đầu tiên của Long Hồ Dinh

Theo bản thảo công trình khoa học “Từ điển nhân vật lịch sử tỉnh Vĩnh Long” của ông Nguyễn Chiến Thắng- nguyên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long, Tống Phước Hiệp là một công thần nhà Nguyễn, thuộc dòng dõi họ Tống, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam mở cõi. Ông quê ở huyện Tống Sơn, nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, là cháu của Quận công Tống Phước Trị.

Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Trú quyết định thành lập Long Hồ Dinh, Tống Phước Hiệp được bổ nhiệm làm quan Lưu thủ đầu tiên ở Long Hồ. Trong thời gian này, ông đã có rất nhiều công sức giữ vững an ninh trật tự của vùng đất mới, phát triển kinh tế, mở rộng giao thương, khai hoang lập ấp. Ông là vị tướng có nhiều công trạng đánh đuổi quân Xiêm ở vùng đất Tây Nam. Theo ông Nguyễn Chiến Thắng, Tống Phước Hiệp là vị quan văn võ toàn tài, tận tụy hết lòng vì công việc an dân mở cõi, và nổi tiếng là vị quan thanh liêm, thương dân hết mực.

Năm 1772, quân Xiêm tràn vào xâm chiếm Hà Tiên, Đô đốc Mạc Thiên Tứ thua trận rút lui về Trấn Giang [Cần Thơ], ông được lệnh đem quân tiếp cứu. Trong trận này, ta tiêu diệt hàng ngàn tên địch, buộc giặc phải rút quân ra khỏi biên giới. Năm 1775– 1776, ông nổi tiếng là vị tướng tài hết lòng phò chúa Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, đánh giặc giữ vững vùng đất miền Trung và phía Tây Nam, được chúa Nguyễn phong Tiết chế tướng Kinh Quận Công.

Ngày mùng 2 tháng 6 năm Bính Tuất [1776], Tống Phước Hiệp bị bệnh nặng rồi mất. Dân chúng hết lòng thương tiếc, để tang 3 ngày. “Chợ búa nghỉ buôn bán, phố phường đóng cửa, mọi hoạt động làm ruộng, đánh cá đều ngừng lại, quốc kỳ treo rũ các tư dinh”. Triều đình truy tặng ông nhiều danh hiệu: “Tả phù Quốc Công”, “Hữu phù Quốc Công”. Và ban sắc phong Trung đẳng thần, truyền lệnh lập miếu Quốc Công thờ tự ông ở làng Trường Xuân, nay là Phường 1- TP Vĩnh Long. Người dân Long Hồ nhiều thế hệ nối tiếp tôn kính ông, hàng năm đến ngày kỵ cơm mùng 2 tháng 6, đông đảo người dân kéo về chiêm bái, nhớ ơn vị quan thanh liêm hết lòng lo cho dân, cho nước.

Như vậy, có thể thấy dòng họ Tống Phước đã đóng góp công trạng to lớn vào quá trình lịch sử mở cõi phương Nam, ngay từ buổi đầu tiên với chúa Nguyễn Hoàng, cho đến khi Long Hồ Dinh thành lập, tức đến khi cuộc Nam tiến cơ bản hoàn thành.

Qua những tài liệu lịch sử như: tài liệu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa, Lịch sử tỉnh Vĩnh Long, Võ tướng Thanh Hóa trong lịch sử dân tộc của Trần Văn Thịnh – NXB KHXH năm 2005, Vĩnh Long xưa và nay của Huỳnh Minh– NXB Cánh Bằng năm 1967... có thể khẳng định: Tống Phước Hiệp là vị quan “Khai quốc công thần”, có công trạng “khai sơn phá thạch” đặt nền móng vững chắc cho cả vùng đất Tây Nam Bộ. Đặc biệt, tên tuổi ông gắn liền với sự hình thành của Long Hồ Dinh. Do đó, miếu Tống Quốc Công cũng là một di tích lịch sử văn hóa quan trọng của Vĩnh Long.

Rất tiếc, hiện nay miếu Tống Quốc Công đã không còn nữa, chỉ sót lại những sắc thần còn lưu giữ tại Bảo tàng Vĩnh Long, Công Thần miếu [Thanh Đức- Long Hồ] và một số ít di vật. Đất nước chúng ta luôn chịu nhiều thiên tai địch họa, rồi chiến tranh liên miên cùng những biến cố thăng trầm của thời gian, lịch sử nên có nhiều công trình kiến trúc, đền chùa miếu mạo bị tàn phá, hủy hoại là điều khó tránh khỏi. Đây cũng là lý do chung đã làm biến mất nhiều di tích, công trình kiến trúc, văn hóa trên thế giới. Do đó, việc khôi phục lại miếu Tống Quốc Công là việc làm vô cùng cần thiết, như lẽ đương nhiên hợp đạo lý và thuận lòng dân.

Ngay lúc này đây, nên thẳng thắn bàn đến chuyện này cũng chưa phải là quá muộn, trước khi Vĩnh Long tự hào kỷ niệm 300 năm thành lập vùng đất Long Hồ Dinh vào năm 2032.


Kỳ 2: Thăng trầm một di tích

Bài, ảnh: HÀ NGỌC TRẢNG

Chuyên đề 4: Nhân vật lịch sử tỉnh Vĩnh Long [27/3/2020] 

Vĩnh Long là tỉnh đồng bằng nằm giữa hai nhánh sông Cửu Long [sông Tiền và sông Hậu], nhìn bao quát, tỉnh Vĩnh Long như hình con thoi nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng hạ lưu sông Mêkông, đất hẹp, người đông, địa hình chia cắt bởi sông rạch chằng chịt, là tỉnh đầu mối giao thông nối liền giữa miền Tây Nam Bộ và miền Đông Nam Bộ, có lịch sử hình thành vào loại sớm nhất của khu vực.

Năm 1732, Long Hồ dinh được thành lập, khẳng định vị thế trọng yếu đối với vùng đất phương Nam, có ý nghĩa quan trọng về mặt địa lý, quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa. Đây là vùng đất minh chứng cho tình đoàn kết keo sơn, gắn bó thủy chung của ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa trong quá trình khai hoang, lập ấp, cùng nhau chống giặc ngoại xâm, gìn giữ bờ cõi do cha ông gầy dựng.

Chặng đường gần 300 năm từ dinh Long Hồ xưa đến Vĩnh Long ngày nay là một thời kỳ lịch sử oai hùng với nhiều chiến công hiển hách của nhiều thế hệ nơi đây.

Khí phách anh hùng đó được thể hiện tiêu biểu bằng hành động yêu nước mang tính lịch sử đầu tiên của người dân Vĩnh Long là ủng hộ phong trào Tây Sơn tham gia cuộc thủy chiến chống quân Xiêm La - Nguyễn Ánh vào tháng 10/1784 trên sông Mang Thít; là cuộc khởi nghĩa năm 1871 do Đốc binh Lê Cẩn, Nguyễn Giao và Phó Mai lãnh đạo, đột nhập vào dinh quận Vũng Liêm diệt tên quận trưởng ác ôn Hồ Thiện Thực và lập kế diệt tên chánh tham biện người Pháp là Alix Salicetty [năm 1872]; cho đến cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940 dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Bí thư Quận ủy Vũng Liêm lúc bấy giờ, ta đã làm chủ quận lỵ trong 8 giờ liền. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng của tiểu đoàn 857 phục kích diệt tên tỉnh trưởng Khưu Văn Ba vào ngày 16/6/1960, làm tan rã khu trù mật Cái Sơn - là một mô hình lập ấp dồn dân kiểu mẫu của Mỹ ở Vĩnh Long; cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta đánh chiếm và làm chủ thị xã Vĩnh Long 6 ngày đêm, là bước ngoặt quan trọng, tiến tới cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975 và kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành thắng lợi trọn vẹn, giải phóng tỉnh Vĩnh Long ngày 30/4/1975, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong suốt chiều dài lịch sử đó, vùng đất Vĩnh Long "địa linh nhân kiệt" đã sinh ra những bậc hiền tài có công với nhân dân, với Tổ quốc. Ngay trong buổi đầu thành lập dinh Long Hồ [tiền thân của tỉnh Vĩnh Long ngày nay], các nhân vật như: Nguyễn Văn Tồn, Nguyễn Văn Thoại, Châu Thị Vĩnh Tế,… với tài năng, đức độ của mình đã có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của tỉnh Vĩnh Long. Khi thực dân Pháp xâm lược, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi, các sỹ phu yêu nước đã chọn Vĩnh Long làm nơi tỵ địa, chốn đàm luận thơ văn, dùng ngòi bút làm vũ khí sắc bén chống kẻ thù. Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhiều người con của quê hương Vĩnh Long đã để lại những dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc như: Nguyễn Ngươn Hanh, Nguyễn Thị Hồng, Phan Văn Năm, Trương Ngọc Quế, Nguyễn Văn Thiệt, Nguyễn Văn Nhung, Ngô Văn Chính, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt, Trần Đại Nghĩa, Phan Văn Đáng; những Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã hiến dâng những đứa con, người chồng, thậm chí là bản thân mình cho Tổ quốc như: Nguyễn Thị Ngọt, Bùi Thị Mè, Võ Thị Chuẩn; những anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân xả thân vì nước như: Phạm Thị Mến, Trần Văn Đang, Trần Thanh Liêm; những anh hùng lao động như: Trần Đại Nghĩa, miệt mài học tập, cần cù tạo nên các giá trị mới vì sự nghiệp độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh những nhà hoạt động chính trị, Vĩnh Long còn có những nghệ sĩ danh tiếng đóng góp cho kho tàng văn hóa nghệ thuật nước nhà như: Tống Hữu Định, Phan Văn Hai, Nguyễn Thành Út [Út Trà Ôn], Tạ Thanh Sơn; những thầy thuốc ưu tú có nhiều cống hiến cho lĩnh vực y học như: Phùng Văn Cung, Trương Công Trung.

Đây là những nhân vật tiêu biểu nhất trong 260 nhân vật lịch sử của tỉnh Vĩnh Long. Các nhân vật được chọn lọc với những tiêu chí cụ thể[1] và được chia thành các nhóm nhân vật gồm: những nhân vật có công trong quá trình khai hoang mở cõi vùng đất Long Hồ dinh, nhân vật hoạt động chính trị tiêu biểu, nhân vật là bí thư tỉnh ủy tiêu biểu qua các thời kỳ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng, những anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động, nhân vật tiêu biểu trong hoạt động nghệ thuật, y học,… trong đó, cuộc đời, công lao, đóng góp và nhân cách của các nhân vật lịch sử được trình bày hết sức cô đọng, súc tích, khách quan, ghi lại những dấu ấn trong suốt chiều dài lịch sử gần 300 năm hình thành và phát triển của quê hương Vĩnh Long anh hùng.

I. NHÂN VẬT CÓ CÔNG TRONG QUÁ TRÌNH KHAI HOANG, MỞ CÕI VÙNG ĐẤT LONG HỒ DINH

          1. NGUYỄN VĂN TỒN [1763 - 1820]

Ông Nguyễn Văn Tồn, có tên thật là Thạch Duyên [Duồn], tục danh Tà Duồn, nguyên gốc người Khmer. Ông có công với nhà Nguyễn nên được vua ban họ. Ông sinh năm 1763 tại thôn Nguyệt Lãng, huyện Vĩnh Trị, nay thuộc xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.

Năm 1780, Nguyễn Ánh lánh nạn vào Nam. Ông hết lòng phò chúa Nguyễn, lập nhiều đạo quân gồm hàng nghìn người Kinh, Khmer vừa dựng đồn trấn giữ ở Trà Vang, Cầu Chông, Cầu Kè, Trà Ôn, Mang Thít, vừa giúp dân khai hoang, mở rộng vùng đất Cầu Kè, Trà Ôn [thuộc đạo Trấn Giang]. Ở Tích Thiện, Vĩnh Xuân, Trà Ôn có cánh đồng mang tên ông.

Năm 1802, ông được thăng chức Thống chế Điều bát, đóng quân tại Trà Ôn quản lý hai phủ Trà Vinh, Măng Thít thuộc Vĩnh Trấn dinh. Mỗi khi giặc Xiêm đánh phá Cao Miên, Thống chế Điều bát được phái sang giúp nên có uy tín lớn.

Ngoài việc khẩn hoang sản xuất, ông chăm lo việc rèn luyện quân binh, tổ chức nhà thi võ [còn gọi tại Nhà Thí] để chọn nhân tài giúp nước. Sửa sang lại thành lũy, ông đổi "Xiêm binh đồn" [đồn chống quân Xiêm] thành đồn Uy Viễn [có uy danh lâu dài]. Ông giáo hóa ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa đoàn kết chăm lo làm ăn, giữ yên bờ cõi. Ông còn khuyên dân làm lò rèn, rèn dụng cụ làm ruộng, bỏ tiền ra dựng chùa chiền để dân tín ngưỡng.

Từ năm 1818 đến năm 1820, Thống chế Điều bát là trợ thủ đắc lực cho Thống chế Khâm sai Nguyễn Văn Thoại trong việc huy động lực lượng Kinh, Khmer đào kinh Long Xuyên - Rạch Giá [Thoại Hà] và kinh Châu Đốc - Hà Tiên [Vĩnh Tế].

Ông mất ngày mùng 4 tháng giêng [âm lịch] năm 1820, thọ 57 tuổi. Lăng mộ của ông được xây tại Giồng Thanh Bạch, cách thị trấn Trà Ôn 2km. Hằng năm, ngày mùng 4 Tết, ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa đều dự lễ hội để tưởng nhớ công đức của ông.

2. NGUYỄN VĂN THOẠI [1761 -1829]

Ông Nguyễn Văn Thoại [đọc trại ra từ tên Thụy] tước Ngọc Hầu nên thường được gọi là Thoại Ngọc Hầu. Ông sinh năm 1761 ở làng An Hải, huyện Sơn Trà, nay là thành phố Đà Nẵng. Ông là con của Từ thừa Nguyễn Văn Lượng được vua Minh Mạng sắc phong Anh dũng tướng quân kinh đô úy thần sắc Vệ úy Nguyễn Hầu và cụ bà Nguyễn Thị Tuyết cũng được vua Minh Mạng sắc phong mỹ hiệu "Thục nhân".

          Mồ côi cha lúc 7 tuổi, ông cùng mẹ và hai em chạy nạn vào Nam dừng chân lập nghiệp tại làng Thới Bình trên cù lao Dài, nay thuộc xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Ông có chí lớn, học ít, nghiên cứu nhiều nên giỏi văn võ, biết tiếng Khmer và Xiêm. Khi mới 14 tuổi, ông đã tham gia hương binh. Năm 1777, mới 16 tuổi, ông tham gia tinh binh, được tin dùng đi phò giá Hoàng gia và lập nhiều công lớn. Năm 1800, ông giữ chức Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân.

          Từ năm 1802, ông được phong Khâm sai Thống binh Cai cơ trấn thủ Bắc Thành rồi trấn thủ Lạng Sơn, Trấn thủ Định Tường [1808], Trấn thủ Vĩnh Thanh [1815].

          Khi làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, ông có công đưa dân từ miền Trung vào khẩn hoang lập ấp, lập năm thôn ở cù lao Dài, chăm lo việc an dân. Đồng thời, ông phát hiện Lưu Phước Tường, nguyên Trấn thủ Vĩnh Thanh [1813-1815] và đồng bọn [Cai bạ, Ký lục] tham nhũng, sách nhiễu dân lành nên kết án trảm [chết chém]. Thời gian làm Trấn thủ Vĩnh Thanh và Bảo hộ Cao Miên, công lao lớn của ông là ngoài việc giữ yên biên giới, ông còn chỉ đạo đào hai con kênh: Long Xuyên - Rạch Giá [năm 1818], còn gọi là Thoại Hà, dài 87km, ngang 45m và kênh Châu Đốc - Hà Tiên [năm 1820], còn gọi Kinh Vĩnh Tế, dài 97km, rộng 45m. Để đào các kênh này, có lúc, ông huy động trên 80 ngàn dân Kinh và Khmer. Dọc kênh, ông cho lập năm làng, khuyến khích dân định cư, góp phần phát triển sản xuất và giữ gìn an ninh biên giới.

          Ông và vợ [bà Châu Thị Vĩnh Tế] hết lòng lo cho dân, cho nước. Chính vì thế, nhân dân luôn nhớ ơn và đặt tên của ông bà cho tên kênh, tên núi, tên làng, tên huyện. Tên tuổi của ông bà được lưu danh muôn đời.

          Ông mất ngày 6-6-1829, thọ 68 tuổi. Ông được vua Minh Mạng sắc phong: "Tráng Võ tướng quân, trị quốc đô thống!".

3. CHÂU THỊ VĨNH TẾ [1766 - 1826]

Bà Châu Thị Vĩnh Tế, sinh năm 1766 tại làng Thanh Bình, huyện Vĩnh Trị, nay là xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Bà là con của cụ ông Châu Vĩnh Huy và cụ bà Đỗ Thị Toán, từ miền Trung đến cù lao Dài lập nghiệp từ nhiều đời.

Năm 1788, bà lập gia đình với Thống binh Cai cơ Nguyễn Văn Thoại.

Năm 1818, bà vận động lực lượng giúp chồng đào kênh Long Xuyên - Rạch Giá [87km]. Năm 1819-1820, bà tận lực giúp chồng bằng cách vận động lực lượng nam, nữ đào kinh Châu Đốc - Hà Tiên [97km].

Vợ chồng bà có công lớn trong việc khai hoang, mở cõi, đào kinh phục vụ sản xuất và lập làng. Vì thế, nhà vua đặt tên kênh Long Xuyên - Rạch Giá và ngọn núi Sập mang tên chồng bà [Nguyễn Văn Thoại]. Con kênh Châu Đốc - Hà Tiên, núi Sam và một làng bên chân núi Sam mang tên bà [Vĩnh Tế hà].

Bà mất năm 1826, thọ 60 tuổi, được an táng ở Châu Đốc. 10 năm sau vua Minh Mạng truy tặng bà danh hiệu: "Nhàn tĩnh Phu nhân".

II. NHÂN VẬT HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ TIÊU BIỂU

  1. PHAN VĂN ĐÁNG [1918 - 1997]

Ông Phan Văn Đáng, bí danh Hai Văn, sinh năm 1918, trong gia đình có truyền thống cách mạng tại xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thuở nhỏ, ông sớm được giác ngộ cách mạng. Năm 12 tuổi, ông tham gia hoạt động bí mật của cơ quan Đảng tại chợ Cái Ngang [huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long] làm liên lạc, nhận rải truyền đơn. Tháng 9/1939 ông vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng, từ đó gắn với những hoạt động cách mạng sôi nổi và có nhiều đóng góp quan trọng cho công cuộc đấu tranh giành độc lập và công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, ông có đóng góp tiêu biểu trong phong trào Đồng khởi ở Bến Tre và Đồng khởi ở Tây Ninh với trận đánh Tua Hai lịch sử và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968.

Ông đã lần lượt đảm trách nhiều chức vụ quan trọng như: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long, Phó Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Trà, Xứ ủy viên rồi Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

          Không chỉ là một nhà cách mạng tài năng, ông còn là nhà lý luận với rất nhiều bài viết, bài nói sắc sảo trên nhiều lĩnh vực như: xây dựng Đảng vai trò của người cán bộ, vai trò lực lượng thanh niên, việc học tập đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,… mang tính thuyết phục cao.

          Ông còn là nhà lãnh đạo có lối sống giản dị, gần gũi, tác phong làm việc nguyên tắc nhưng không gò bó, cứng nhắc mà luôn cởi mở, chân tình, tinh thần làm việc cầu thị, sâu sát, gần dân, trọng dân và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Câu nói nổi tiếng của ông là: "Đảng muốn nói cho dân nghe trước hết Đảng phải nghe dân nói!".

     Ông là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng, uy tín của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

          Năm 1983, ông về hưu. Ngày 9-5-1997, sau cơn bệnh nặng ông từ trần, thọ 78 tuổi.

          Ông được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

  1. NGUYỄN NGƯƠN HANH [1872 - 1942]

Ông Nguyễn Ngươn Hanh, tên thường gọi Xã Trinh, sinh năm 1872 tại xóm La Ghì, làng Vĩnh Xuân, quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ [nay là huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long]; con của nhà Nho nổi tiếng Nguyễn Ngươn Trung [Ngươn Sinh].

Thuở nhỏ, ông thông minh, học rộng: chữ Nho, Đông y..., thường xuyên trị bệnh giúp đỡ người nghèo.

     Vốn quan tâm đến thời cuộc, nghiên cứu sách báo tiến bộ, kết thân với Lý Trung Chánh, Trần Phước Định, Nguyễn Thần Hiến, ông hưởng ứng phong trào yêu nước của Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, tích cực ủng hộ tiền bạc cho Phong trào Đông Du và cho con trai là Nguyễn Đăng Truyện du học ở Nhật với ước mong có kiến thức mới góp phần giải phóng đất nước.

Ông có tài nói chuyện, diễn thuyết hấp dẫn.

Năm 1924-1925, ông tham gia các tổ chức xã hội như Hội Nông dân, Hội Tương tế, Hội Nhà vàng để có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau chống đế quốc, chống cường hào ác bá.

Từ năm 1926-1930, ông tham gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hoạt động chống sưu cao thuế nặng, chống địa chủ gian lận tầm 3 thước để bóc lột của cải và sức dân. Ông có uy tín, vận động nhiều cuộc biểu tình lớn, có cuộc 500 đến 1.000 người tham gia, vừa biểu tình tuần hành, vừa đấu tranh trực diện với địch tại quận Cầu Kè [1/5/1930].

     Cũng trong năm 1930, sau khi đi dự lớp huấn luyện ở Bù Hút [Phong Hòa], ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Bị địch khủng bố, ông sang huyện Kế Sách [Sóc Trăng] tiếp tục hoạt động.

     Từ năm 1931 - 1936, ông tham gia biểu tình hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, chào mừng Đảng Cộng sản ra đời, treo cờ Đảng, rải truyền đơn. Ông quan hệ với báo chí Sài Gòn để vạch mặt địa chủ gian lận dùng giạ 44 lít rưỡi, tầm 3 thước bóc lột nông dân, lên án đế quốc cấu kết với quan làng làm cho dân thống khổ. Ông còn vận động thành lập Ủy ban hành động, đấu tranh bằng pháp lý bênh vực quyền lợi dân nghèo.

     Ngày 14/7/1939, kỷ niệm 150 năm Cách mạng Tư sản Pháp [1789], dưới hình thức kỷ niệm ngày Quốc khánh, một cuộc biểu tình lớn đã được tổ chức với nội dung là diễn đàn chống thực dân Pháp tại rạp hát lớn Cần Thơ, có hàng ngàn người tham dự. Có uy tín nên ông được giới thiệu chủ tọa danh dự, đọc diễn văn khai mạc. Ông vạch trần bản chất chế độ thực dân Pháp, kêu gọi các tầng lớp nhân dân noi gương cách mạng Pháp, đấu tranh giải phóng áp bức. Diễn đàn gây tiếng vang lớn ở thành phố Cần Thơ.

     Địch theo dõi hòng bắt, bỏ tù ông nhiều lần. Tháng 9/1939, ông bị địch bao vây, nhiều người đứng ra che chở, tạo điều kiện cho ông lánh nạn. Nhưng ông khẳng khái: "Tao già rồi cần đấu tranh trước pháp lý [tòa án] có chết không sao, mong tuổi trẻ hãy tiếp tục làm cách mạng!". Địch bắt được ông nhưng không đưa ra tòa xử mà đày ông đi Côn Đảo. Bị tra tấn dã man, ông trút hơi thở cuối cùng tại nhà giam Côn Đảo ngày 9/9/1942, thọ 70 tuổi. Trước khi vĩnh biệt, ông còn căn dặn động viên tù chính trị: "Hãy giáo dục lớp trẻ đi theo cách mạng, một lòng vì Đảng, vì dân".

     Mộ ông được bạn tù mến phục, lập bia ghi tên công khai để nhắc nhở lòng yêu nước, khí tiết người cộng sản.

     Theo hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ, gia đình của ông có trên 15 đảng viên, có 3 con và cháu là Bí thư Tỉnh ủy.

3. NGUYỄN THỊ HỒNG [1915 - 1992]

     Bà Nguyễn Thị Hồng, tên thật là Hà Thị Lan, làm báo với bút danh Hồng Hoa. Bà sinh năm 1915 tại làng Vĩnh Kim, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho [nay là tỉnh Tiền Giang].

     Bà tham gia cách mạng từ năm 15 tuổi, hoạt động ở đoàn hát Đồng Ấu Ban [1930], sau đó bà tham gia công tác nội thành, rải truyền đơn, chuyển tài liệu và vũ khí cho cơ sở cách mạng ở thành phố Sài Gòn, làm phóng viên với bút danh Hồng Hoa, viết cho báo Dân Chúng [Sài Gòn],… Bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.

     Năm 1940, để chuẩn bị thực lực khởi nghĩa, bà được phân công về Vũng Liêm hoạt động và phát triển củng cố được 6 chi bộ. Bà được bổ sung Ban Chấp hành Quận ủy Vũng Liêm. Sau khi Lê Quang Phòng bị địch bắt, bà được bổ sung làm Tỉnh ủy viên, Bí thư Quận ủy chỉ đạo khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm. Đêm 22 rạng ngày 23/11/1940, lực lượng cách mạng đánh chiếm dinh quận, diệt ác ôn, thu vũ khí, thiêu hủy toàn bộ tài liệu. Các xã trong huyện nổi dậy, chiếm trụ sở giành thắng lợi. Do không tương quan lực lượng, sau 7 giờ, địch chiếm lại và truy lùng đàn áp khốc liệt. Bà chuyển địa bàn hoạt động, làm Bí thư Quận ủy quận Châu Thành, tỉnh Rạch Giá. Tháng 5/1941, bà bị địch bắt, kết án 5 năm tù và giam ở khám Chí Hòa [Sài Gòn].

     Từ năm 1945 đến năm 1992, bà tiếp tục hoạt động cách mạng và kinh qua nhiều chức vụ quan trọng như: Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ Nam Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ tỉnh Vĩnh Trà; Bí thư quận Vũng Liêm; Bí thư thị xã Trà Vinh,… Bà mất năm 1992.

     Quá trình cống hiến, bà đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận và tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng.

4. PHẠM HÙNG [1912 - 1988]

     Ông Phạm Hùng, tên thật là Phạm Văn Thiện, sinh ngày 11/6/1912, trong một gia đình nông dân ở xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long [hiện nay].

     Năm 1928, khi mới 16 tuổi ông hoạt động trong phong trào yêu nước của thanh niên, học sinh. Năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản, đã hoạt động qua cấp chi ủy xã, huyện ủy và Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, lúc đó mới 19 tuổi.

     Năm 1931, trong cuộc chỉ đạo biểu tình quy mô ở Mỹ Tho, ông bị bắt và bị kết án tử hình. Nhưng do phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta cùng các lực lượng tiến bộ trên thế giới, địch buộc phải giảm án còn chung thân khổ sai và đày ông đi Côn Đảo.

     Trải qua 15 năm bị tù đày trong nhà lao đế quốc, trong đó có 11 năm ở nơi "địa ngục trần gian" Côn Đảo, biết bao hình phạt tàn khốc của kẻ thù vẫn không thể nào khuất phục được "con người thép" - người chiến sĩ cộng sản Phạm Hùng, ông luôn luôn đứng đầu sóng ngọn gió, đấu tranh tiêu biểu trong nhà tù. Được sự tín nhiệm cao, suốt thời gian ở tù, ông làm Phó Bí thư, rồi Bí thư Đảng bộ nhà tù.

     Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được rước về đất liền, được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Nam Bộ.

     Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ông giữ nhiều vị trí lãnh đạo như: Ủy viên, rồi Bí thư Trung ương Cục kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ, Trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Liên hiệp đình chiến Nam Bộ, Trưởng phái đoàn liên lạc Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế Sài Gòn. Trong thời gian này ông đã vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng vào điều kiện cụ thể của miền Nam, đề ra các chủ trương, đường lối phù hợp với thực tiễn như: mở rộng chiến tranh nhân dân, thực hiện dân chủ nông thôn, chỉ đạo phong trào đấu tranh ở đô thị,… Nhờ vậy, khối liên minh công - nông không ngừng được đẩy mạnh, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Pháp.

     Năm 1967-1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào thời điểm vô cùng gay go, ác liệt, ông được phân công vào chiến trường miền Nam. Trên cương vị Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy viên lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, đồng chí đã lãnh đạo quân và dân ta nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, luôn tìm tòi, sáng tạo từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh, buộc Mỹ rút quân về nước.

     Sau khi đất nước hòa bình, ông được Đảng và Nhà nước giao giữ nhiều cương vị: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa II, III, VI, VII, VIII.

Với những trọng trách lớn lao trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, phức tạp sau ngày giải phóng, ông đã thể hiện bản lĩnh của một nhà lãnh đạo có tầm chiến lược, giàu kinh nghiệm, quyết đoán và sáng suốt. Ông đã để lại những dấu ấn sâu đậm của một người cán bộ giàu bản lĩnh, một nhà lãnh đạo tài năng trong các quyết định và triển khai các quyết sách của Đảng và Nhà nước.

     Ngày 10/3/1988, ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh sau một cơn đau tim đột ngột. Với quá trình cống hiến lớn lao cho sự nghiệp cách mạng, ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất; Huân chương Cách mạng Tháng Mười của Nhà nước Cộng hòa liên bang Xô viết và nhiều huân chương cao quý khác của các nước Cu Ba, Tiệp Khắc, Bungari.

5. VÕ VĂN KIỆT [1922 - 2008]

     Ông Võ Văn Kiệt, tên thật là Phan Văn Hòa, với các bí danh Sáu Dân, Tám Thuận, là con thứ chín trong gia đình, tục danh Chín Hòa, sinh ngày 23/11/1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống yêu nước.

     Ông tham gia cách mạng từ năm 1938, vào Đảng tháng 11/1939 và lần lượt đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền. Năm 1991-1997, ông giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng [năm 1992 đổi thành Thủ tướng Chính phủ]. Từ năm 1997 đến năm 2001 ông không còn giữ các chức danh trong Chính phủ nhưng vẫn được tín nhiệm làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

     Ông là đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX, được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng, huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

     Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt được đánh giá là vị Thủ tướng có tinh thần đổi mới mạnh mẽ, là vị "tổng công trình sư" của nhiều dự án táo bạo của thời kỳ đổi mới. Những công trình được thực hiện dưới thời gian ông làm lãnh đạo Chính phủ đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển kinh tế đất nước.

     Năm 1988, ở cương vị là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng [tức Phó Thủ tướng], ông đã có những quyết đoán cho chủ trương thực hiện chương trình 10 năm đầu tư khai phá vùng Đồng Tháp Mười, khu Tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau. Đây là vùng đất vốn bị nhiễm phèn, mặn, nhờ được cải tạo đã trở nên trù phú, màu mỡ, phát triển mạnh về nông nghiệp - thủy sản.

     Năm 1992, trên cương vị Thủ tướng, ông đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng công trình đường dây tải điện Bắc - Nam. Đây là hệ thống tải điện với đường dây 500KV đầu tiên ở Việt Nam, chuyển tải năng lượng từ Nhà máy thủy điện Hòa Bình vào miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam. Công trình sau khi hoàn thành đã giúp khắc phục tình trạng thiếu điện nghiêm trọng tại miền Nam, tạo sức bật cho sự phát triển mạnh mẽ của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các tỉnh Đông Nam Bộ nói chung, trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước.

     Năm 1993, ông ký quyết định xây dựng con đường Trường Sơn công nghiệp hóa [tức đường Hồ Chí Minh] với mục tiêu giảm tải phương tiện cho Quốc lộ 1A.

     Ông cũng là người ký quyết định lập trường Đại học Quốc gia năm 1993, chủ trương xã hội hóa giáo dục. Sự ra đời của 2 trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là dấu mốc đổi mới sâu sắc trong cơ cấu hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện loại trường đại học đa lĩnh vực có quyền tự chủ cao trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.

     Trong điều hành Chính phủ, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng là người lập ra "Tổ chuyên gia tư vấn cải cách kinh tế và cải cách hành chính" quy tụ nhiều chuyên gia hàng đầu góp sức cho Thủ tướng trong việc hoạch định chính sách. Đây là tiền lệ tốt để sau ông, các đời Thủ tướng khác đều lập các tổ tư vấn.

     Với tầm tư duy chiến lược, quyết tâm đổi mới sâu sát, quyết đoán, luôn tìm tòi trăn trở. Ông đã có đóng góp xứng đáng vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với những công trình lớn ở khắp mọi miền đất nước. Là cán bộ lãnh đạo trung thành, tận tụy, bản lĩnh, sáng tạo gắn kết với ý chí hành động, ông được đồng chí, đồng bào quý trọng, bạn bè quốc tế mến yêu[2]. "Việt Nam luôn tự hào về Thủ tướng Võ Văn Kiệt - người đầy bản lĩnh, hành động quyết đoán và chịu trách nhiệm cao"[3].

     Ông mất lúc 7 giờ 40 phút, ngày 11/6/2008, tại Bệnh viện nước Cộng hòa Xingapo. Lễ tang của ông được tổ chức trọng thể theo nghi thức Nhà nước tại Hội trường Thống Nhất [Thành phố Hồ Chí Minh], ở Hà Nội và Vĩnh Long quê hương ông. Thi hài của ông được an táng tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.

     Ông không những hoạt động chính trị mà còn là nhà báo lớn, có tầm nhìn sắc sảo và thực tiễn cuộc sống phong phú, viết nhiều bài có giá trị cao và đi vào lòng dân.

6. PHAN VĂN NĂM [1918 - 1967]

     Ông Phan Văn Năm, tên thường gọi là Năm Thục, sinh năm 1918 tại làng Mỹ Thuận, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, nay thuộc thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long.

     Ông là người theo Phật giáo Hoà Hảo. Năm 1947, ông tham gia lực lượng quân sự của Hòa Hảo thuộc Đại đội 17 của Trần Văn Soái [Năm Lửa]. Tuy nhiên, bản thân ông có cảm tình với cách mạng. Ông lần lượt được làm Đại đội trưởng Đại đội 17 rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 77 của lực lượng quân đội Hoà Hảo đóng tại Bình Minh [Cái Vồn]. Thời gian này, ông khôn khéo trừ khử những tên tay sai Pháp ác ôn có nợ máu với nhân dân [trong đó có tên Dương].

     Sau khi làm Tổng thống chính quyền Sài Gòn, Ngô Đình Diệm tiến hành thanh toán các lực lượng giáo phái không ăn cánh. Biết rõ ý đồ đen tối đó, ngày 5/6/1955, ông dẫn Tiểu đoàn 77 ly khai chính quyền Sài Gòn, mang toàn bộ vũ khí về với cách mạng, cùng nhân dân chống Mỹ - Diệm.

     Tiểu đoàn 77 được đổi tên thành Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo, sau đó, phát triển hai tiểu đoàn nữa là Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng. Ông được phong làm Tổng tư lệnh liên quân giáo phái miền Tây chống Mỹ - Diệm, được rút về hoạt động ở Phân liên khu miền Tây.

Từ năm 1957-1967, ông tiếp tục hoạt động cách mạng, được bầu làm Ủy viên Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Tây. Năm 1967, trên đường đi công tác, ông bị địch bắn, hy sinh ngày 16/9/1967 [âm lịch], thọ 64 tuổi.

     Trong quá trình công tác, ông được tặng thưởng nhiều huân chương. Ông là người có uy tín đối với đồng bào Phật giáo Hòa Hảo. Hiện nay, ở thị trấn Bình Minh có con đường mang tên Phan Văn Năm.

7. TRƯƠNG NGỌC QUẾ [1901 - 1968]

Ông Trương Ngọc Quế, thường gọi là Sáu Quế, sinh năm 1901 tại làng Tân Ngãi, tổng Bình An, quận Châu Thành [nay là xã Tân Ngãi, thành phố Vĩnh Long], tỉnh Vĩnh Long.

Ông xuất thân trong gia đình Nho giáo. Thời niên thiếu, ông thông minh, học giỏi. Năm 1924, ông tốt nghiệp bác sĩ Y khoa và làm việc tại Bệnh viện Sài Gòn.

Từ năm 1934, ông về Vĩnh Long hành nghề thuốc. Ông thường xuyên quan tâm giúp đỡ bệnh nhân nghèo. Phòng mạch của ông ở đường Võ Tánh, cầu Bà Điều [nay là đường Lê Văn Tám, phường 1, thành phố Vĩnh Long]. Ông có uy tín trong trị bệnh.

Đầu năm 1945, ông tham gia tổ chức Thanh niên Tiền phong của Phạm Ngọc Thạch và là thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong tỉnh Vĩnh Long.

Trong Cách mạng Tháng Tám, ông phối hợp với Chi bộ đặc biệt do Nguyễn Văn Thiệt lãnh đạo tổ chức nhân dân nổi dậy, giành chính quyền thành công ở Vĩnh Long ngày 25/8/1945.

Chính quyền cách mạng được thành lập, Nguyễn Văn Phát được cử làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Ông được cử làm Phó Chủ tịch. Tuy làm Phó Chủ tịch thời gian ngắn nhưng ông đã góp phần xây dựng bộ máy nhà nước còn non trẻ, sử dụng người chế độ cũ có lòng yêu nước, truy kích bọn phản cách mạng, ổn định tình hình, giảm tô, giảm tức cho nông dân, tương trợ cứu đói cho dân nghèo, cấm bắt dân làm công xâu, công lễ, cấm cho vay nặng lãi, mê tín dị đoan.

Ông bệnh mất tại Bệnh viện Sài Gòn năm 1968. Tác phẩm của ông còn để lại là Những điều suy tưởng của một bác sĩ. Nội dung của tác phẩm này là khuyên mọi người muốn sống lâu phải chăm sóc sức khỏe từ việc ăn ở, cách phòng và trị bệnh...

III. BÍ THƯ TỈNH ỦY VĨNH LONG QUA CÁC THỜI KỲ

Trong những chiến công và những thành tích mà quân và dân Vĩnh Long đạt trong suốt chặng đường lịch sử gần 90 năm, kể từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên, tiền thân của Tỉnh ủy Vĩnh Long ra đời có sự đóng góp không nhỏ của các đồng chí là Bí thư Tỉnh ủy. Tính đến nay Vĩnh Long có 31 đồng chí được đề bạt, bổ nhiệm, chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy.

Trong số 31 đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, có 01 đồng chí là nữ, có 06 đồng chí đã hy sinh trong kháng chiến, 24 đồng chí từng bị bắt, giam cầm nhiều lần, bị kết án tử hình, có đồng chí bị lưu đày sang tận Madagascar, 19 đồng chí đã từ trần, có 01 đồng chí có quyết định bổ nhiệm nhưng chưa nhận nhiệm vụ đã hy sinh[4]

Có 17 đồng chí quê Vĩnh Long, 5 đồng chí quê Trà Vinh và 8 đồng chí quê ở các tỉnh: An Giang, Ninh Bình, Tiền Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Quảng Ngãi[5], Quảng Nam và 01 đồng chí đến nay chưa biết quê quán[6].

Đặc biệt, trong những giai đoạn cam go của cách mạng nhất là trong những ngày đầu thành lập do bị thực dân Pháp truy bắt gắt gao, Tỉnh ủy Vĩnh Long đã nhiều lần thay đổi Bí thư Tỉnh ủy, chỉ trong không đầy 01 năm đã có đến 04 đồng chí thay phiên nhau giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy [Đồng chí Ngô Văn Chính [tháng 2 năm 1931], đồng chí Nguyễn Văn Nhung [tháng 2 đến tháng 4/1931], đồng chí Nguyễn Văn Tiễn [tháng 4 đến tháng 5/1931], đồng chí Đặng Văn Quang [tháng 6 đến cuối năm 1931]].

Đặc biệt có hai giai đoạn Tỉnh ủy Vĩnh Long không có người đứng đầu. Đó là giai đoạn từ cuối năm 1931 đến giữa năm 1936 sau khi đồng chí Đặng Văn Quang bị bắt cách mạng Vĩnh Long cũng rơi vào giai đoạn thoái trào cho đến khi đồng chí Tạ Uyên cử làm bí thư. Và giai đoạn thứ 2 vào thời gian từ tháng 3 năm 1943 đến tháng 9 năm 1945 khi đồng chí Tạ Bửu mất đến khi đồng chí Nguyễn Văn Thiệt được bầu làm bí thư Tỉnh ủy sau khi chỉ đạo giành chính quyền sau cách mạng tháng Tám.

Ở các đồng chí đều thể hiện những đức tính, phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản: tấm lòng yêu nước nồng nàn, lập trường kiên định, chấp hành tuyệt đối mọi sự phân công của tổ chức, của Đảng, không ngại khó khăn, gian khổ, bắt bớ, tù đày tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng quê hương, đất nước. 

Có không ít đồng chí đã để lại những dấu ấn đậm nét trong những giai đoạn lịch sử đầy biến động của tỉnh nhà như:

1. NGÔ VĂN CHÍNH, Bí thư tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long, sinh năm 1905, xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Tháng 2 năm 1931 Tỉnh ủy Vĩnh Long được thành lập, đồng chí được cử làm Bí thư. Đồng chí đã vạch ra kế hoạch đấu tranh chống mọi âm mưu của địch, bàn phương pháp công tác tuyên truyền vận động vào tổ chức Đảng, phân công các tỉnh ủy viên phụ trách một số nơi, củng cố tổ chức đảng ở những nơi sa sút do bị đánh phá. Lúc này Xứ ủy Nam Kỳ, cũng như Đặc ủy Hậu Giang và một số tỉnh một số cán bộ lãnh đạo của ta bị bắt, vì vậy đến giữa tháng 2 đồng chí Ngô Văn Chính được phân công về Sài Gòn hoạt động và bị bắt, bị đày Côn Đảo 5 năm, năm 1936 được thả và hoạt động cách mạng ở Long Xuyên, năm 1945 được bầu vào Ban Thường vụ Long Xuyên phụ trách quân sự chỉ đạo 2 huyện Thốt Nốt và Lấp Vò, tháng 7/1946 bị bắt, đến 10/01/1947 bị xử bắn tại thị trấn Lai Vung.

     2. NGUYỄN VĂN NHUNG, tên thường gọi Tư Nhung, sinh ngày 9/01/1903 tại làng Long Đức, quận Châu Thành [nay là khóm 5, thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ], tỉnh Vĩnh Long; ông là con của cụ ông Nguyễn Văn Vững và cụ bà Tống Thị Tòng, thuộc gia đình trung nông.

     Thuở nhỏ, đi học trường tỉnh, nhờ học giỏi nên ông thi đậu và được cấp học bổng vào trường Collège Chasseloup Laubat Sài Gòn. Sau đó, theo người anh là Nguyễn Chánh Lý đang làm thư ký Tòa chánh sứ Nam Vang, ông tiếp tục học trường Lycée Sisowasth PhnomPênh. Tốt nghiệp Diplome [Thành chung], ông ra làm thư ký Tòa khâm sứ Pháp tại Cao Miên.

     Xuất phát từ chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp và được sự giáo dục lòng yêu nước, năm 1927, ông tham gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Hồ Cao Cương kết nạp.

     Năm 1928, ông về nước, hoạt động ở Chi bộ Ngã tư Long Hồ - chi bộ do Nguyễn Văn Thiệt làm Bí thư, ông và em gái Nguyễn Thị Nhỏ là thành viên.

     Ngày 3/02/1930, hợp nhất Đảng, ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản, hoạt động tại Cờ Đỏ [Ô Môn] do Hà Huy Giáp làm Bí thư.

     Tháng 4/1930, ông từ Cờ Đỏ về Vĩnh Xuân [Cầu Kè] hoạt động gây dựng cơ sở đảng. Sau đó, ông mở rộng địa bàn ra các vùng Ba Chùa, Tường Lộc, Mỹ Thạnh Trung, Cái Ngang. Tháng 11/1930, Quận ủy Tam Bình được thành lập, ông được cử làm Bí thư.

     Tháng 2/1931, Tỉnh ủy Vĩnh Long được thành lập [tại Ba Chùa], Ngô Văn Chính làm Bí thư, ông làm Phó Bí thư. Sau đó, Ngô Văn Chính được rút về công tác Xứ ủy, ông được cử làm Bí thư Tỉnh ủy.

     Tháng 4/1931, cơ sở Tỉnh ủy ở Cầu Lầu bị địch đánh phá, ông bị bắt giam tại Khám lớn Sài Gòn.

     Cuối năm 1932, được trả tự do, ông về hoạt động ở địa bàn tỉnh Long Xuyên [quê vợ]. Ông tổ chức móc ráp các tù chính trị được thả về, thành lập "Ủy ban hành động", tiếp tục hoạt động chống Pháp. Ông bị Pháp bắt kết án 18 tháng vì bị kết tội "xúi giục" nông dân đấu tranh.

     Năm 1938, ra tù, ông hoạt động ở Cà Mau, sau đó về Ngã tư Long Hồ, rồi Long Xuyên, tổ chức lại phong trào, bị địch bắt quản thúc ở Bà Rá [Biên Hòa].

     Tháng 3/1945, Nhật đảo chánh Pháp, ông vượt ngục về Long Xuyên tiếp tục hoạt động, tập hợp lực lượng thành lập Tỉnh ủy lâm thời ở Long Xuyên do ông làm Bí thư, chỉ đạo giành chính quyền thắng lợi. Tỉnh trưởng Long Xuyên Trương Văn Thành [quê Vĩnh Long] giao toàn bộ chính quyền và xin làm bất cứ việc gì để lập công, ổn định tình hình.

     Khi Pháp tái chiếm Long Xuyên [9/01/1946], ông bị Pháp bắt trên đường công tác, bị giam ở Châu Đốc.

     Ra tù năm 1949, ông được phân công làm Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Long Châu Tiền, rồi được rút lên làm Ủy viên Khu ủy Khu 8, phụ trách công tác Mặt trận. Sau đó, ông làm Phó Giám đốc Sở Thương binh - Xã hội Nam Bộ.

     Tháng 2/1951, ông sang hoạt động ở Campuchia, làm Phó Bí thư liên tỉnh Prey Veng- Xoài Riêng, Phó Chủ nhiệm Tổng hội Việt kiều yêu nước.

     Năm 1954, tập kết ra Bắc, ông làm Vụ phó Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Y tế, Phó Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô.

     Năm 1964, ông nghỉ hưu.

     Sau ngày giải phóng, ông về sống quê nhà. Ông mất năm 1982, thọ 79 tuổi, được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Vĩnh Long.

Ông thuộc lớp cách mạng tiền bối của tỉnh Vĩnh Long, người có công lớn trong việc xây dựng phong trào cách mạng, tổ chức đảng trong những ngày đầu mới thành lập. Với những đóng góp cho sự nghiệp cách mạng ông được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu 50, 60 năm tuổi Đảng.

     3. NGUYỄN VĂN THIỆT, thường gọi Ba Thiệt, sinh năm 1909 tại làng Long An, quận Châu Thành [nay thuộc thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long] trong gia đình trung nông. Cha ông là cụ Nguyễn Văn Được, từng ủng hộ phong trào tiến bộ của Nguyễn An Ninh, mẹ ông là cụ Đặng Thị Cho. Gia đình của ông có 7 anh em, trong đó 5 người tham gia cách mạng.

     Thuở nhỏ, ông học ở Vĩnh Long, sau học trường Huỳnh Khương Ninh - Sài Gòn. Ông tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh yêu nước. Ông là người khẳng khái, bộc trực, gan dạ, từng tham gia đánh Pháp khi chúng hống hách, hiếp đáp dân lao động ở Sài Gòn.

     Năm 1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cử Nguyễn Văn Côn [Kỳ ủy viên] đến Vĩnh Long gặp Nguyễn Văn Thiệt, Châu Văn Ký, Nguyễn Văn Đại, tuyên truyền vận động và kết nạp vào tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, sau khi được tập huấn tôn chỉ mục đích và điều lệ tại Sài Gòn.

     Sau đó, các thành viên này vận động tuyên truyền kết nạp thêm hai người nữa. Năm 1928, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Vĩnh Long được thành lập do Nguyễn Văn Thiệt làm Bí thư Chi bộ.

     Tháng 2/1930, sau khi thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng Ngã tư Long Hồ, là chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long. Ngoài ra, ông còn được phân công làm Ủy viên Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, phụ trách các tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh, Cần Thơ.

     Là Bí thư Chi bộ kiêm Ủy viên Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, ông chỉ đạo vận động phát triển tổ chức cách mạng ở Ba Chùa, Cái Ngang, Vũng Liêm. Để tuyên truyền sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông tổ chức míttinh biểu tình, qua đó sàng lọc kết nạp Đảng, tiến tới thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và tỉnh. Cuộc mít tinh biểu tình lớn ở xã Phước Hậu, Long An [3/1930], ở làng Phú Đức, Long An [02/6/1930] và cuộc biểu tình quy mô 2.000 người thuộc 3 quận Châu Thành, Vũng Liêm, Tam Bình ngày 2/6/1930 với khẩu hiệu:

- Tinh thần ngày 01 tháng 5 muôn năm!

- Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!

- Đả đảo đế quốc Pháp và quan làng tay sai.

- Đòi giảm thuế, giảm tô tức cho dân nghèo.

     Cuộc biểu tình có băng cờ, vũ trang gậy gộc, gạch đá đã gây tiếng vang ở tỉnh Vĩnh Long.

     Để tránh địch theo dõi truy lùng, tháng 7/1930, ông được phân công làm Bí thư huyện Cao Lãnh. Tại đây, ông bị bắt ở xã Hoà An, kết án 5 năm tù, đày ra Côn Đảo. Trong nhà tù, ông dũng cảm đấu tranh và giúp đỡ cho đồng đội, trong đó có Tôn Đức Thắng. Năm 1935, mãn hạn tù, ông về liên lạc với Xứ ủy và được phân công hoạt động công khai ở Vĩnh Long, gây dựng cơ sở đảng, tạo điều kiện tái lập Tỉnh ủy do Tạ Uyên làm Bí thư.

     Ông đóng vai người buôn bán gạo, hoạt động trong Ủy ban hành động, tập hợp quần chúng nông dân, công nhân gửi thư dân nguyện, tổ chức cho nhà báo đến điều tra để tố cáo cường hào, ác bá đàn áp bóc lột nhân dân lao động. Năm 1939, khi Mặt trận Bình dân Pháp sụp đổ, Chính phủ phản động lên thay, giải tán các tổ chức cộng sản, đàn áp những người trong tổ chức dân chủ tiến bộ, Nguyễn Văn Thiệt bị thực dân Pháp bắt đưa đi quản thúc ở Bà Rá [Biên Hòa].

     Tháng 4/1945, ông cùng Nguyễn Hữu Thế vượt ngục, bắt liên lạc với Xứ ủy và về Vĩnh Long móc nối cơ sở cũ. Các đồng chí vượt ngục thành lập "Chi bộ đặc biệt" gồm 5 người do ông làm Bí thư. Chi bộ tiến hành chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, thành lập các tổ chức đoàn thể, thanh niên, nông dân, phụ lão cứu quốc, lập đội tự vệ....

     Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra tại thị xã Vĩnh Long sáng ngày 25/8/1945 sục sôi khí thế cách mạng. Tên Lương Khắc Nhạc - Tỉnh trưởng Vĩnh Long quy hàng, giao toàn bộ chính quyền cho cách mạng. Nguyễn Văn Thiệt nhanh chóng củng cố, thống nhất tổ chức [giữa Tiền phong và Giải phóng], thiết lập bộ máy quản lý hành chính do Nguyễn Văn Phát làm Chủ tịch, tuyên bố xóa bỏ chế độ cũ, thiết lập bộ máy chính quyền cách mạng, công bố 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, sớm ổn định tình hình và chuẩn bị chống Pháp tái chiếm. Ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Trong tình thế vô vàn khó khăn, ông dựa vào tập thể, lãnh đạo quần chúng tiến hành chống địch tái chiếm, bảo vệ thành quả cách mạng, tổ chức tuần lễ ủng hộ vàng cho kháng chiến và bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên đạt kết quả.

     Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, làm Phó Giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn, phụ trách công tác Đảng. Trong điều kiện thiếu thầy, thiếu thuốc, ông động viên sự nhiệt tình phục vụ "Lương y như từ mẫu" theo lời dạy của Bác Hồ làm cho Bệnh viện được sự tín nhiệm của bệnh nhân và nhân dân.

     Ông bị bệnh mất ngày 31/12/1970 tại Hà Nội. Sau ngày thống nhất đất nước, ông được cải táng về Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Vĩnh Long.

     Ông đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.

     IV. BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG TỈNH VĨNH LONG

Trong suốt chiều dài của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như trong công cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, tỉnh Vĩnh Long có 16.228 người con ưu tú hy sinh vì Tổ quốc, được công nhận liệt sĩ và 5.948 thương binh. Mỗi sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ là một nỗi đau vô tận, không gì bù đắp được của Quý Mẹ Việt Nam anh hùng. Nén đau thương, Quý mẹ vẫn tiếp tục động viên và hiến dâng những người con yêu quý của mình cho sự nghiệp giải phóng quê hương, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bản thân Mẹ còn trực tiếp tham gia nuôi chứa cán bộ, tải đạn, tiếp tế lương thực… cho cách mạng, thậm chí có Mẹ, bản thân là liệt sĩ. Đó là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của sự hy sinh cao quý, sự đóng góp to lớn của quân, dân Vĩnh Long vào thắng lợi chung của cả nước.

Thực hiện pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" ngày 29 tháng 8 năm 1994 của Quốc hội và Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13, ngày 20 tháng 10 năm 2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng", tỉnh Vĩnh Long có 2.880 Mẹ được Chủ tịch nước tặng và truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng".

Mỗi Mẹ là một tấm gương hy sinh cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cho công cuộc giải phóng quê hương, thống nhất đất nước và cho việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả. Các mẹ đã hiến dâng những đứa con, người chồng thân yêu, thậm chí là bản thân mình cho Tổ quốc.   

Trong số hơn 2.880 Mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh Vĩnh Long có thể kể đến tấm gương cống hiến hy sinh của các Mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu sau:

          Mẹ Võ Thị Chuẩn sinh năm 1948, tại ấp 6, xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Chồng mẹ là ông Phạm Văn Chính, cán bộ xã Trung Hiệp [Vũng Liêm]. Mẹ sinh được một con trai. Khi con vừa một tuổi, ông Chính bị địch bắt đày ra Phú Quốc. Hai người em ruột của mẹ là Võ Văn Tý, Võ Văn Pho tham gia kháng chiến lần lượt hy sinh. Nén đau thương, năm 1968, mẹ tham gia du kích mật, hoạt động khu vực Cầu Mới [cầu Mang Thít hiện nay].

          Sau Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, địch phòng thủ nghiêm ngặt ở thị trấn cũng như thị xã. Yêu cầu của cách mạng là phải đánh mạnh giao thông, triệt phá cầu đường, cắt đứt sự chi viện, đưa quân càn quét, đánh phá vùng căn cứ cách mạng của địch. Mẹ được phân công cùng với một chiến sĩ đi điều nghiên quyết đánh sập Cầu Mới cắt đứt giao thông huyết mạch của địch ở tuyến lộ 70 [Vĩnh Long - Trà Vinh].

     Sau khi điều tra, nghiên cứu, đêm 30/5/1970, mẹ giả làm người chở ghe trấu, thả khối thuốc nổ 250kg cặp sát trụ cầu rồi rút chốt nổ định giờ. Khi ghe máy chở trấu chạy một đoạn xa, khối thuốc nổ đã phá sập Cầu Mới hoàn toàn, tiêu diệt nhiều tên lính gác, hai xe quân sự, chìm hai tàu và một xà lan, bẻ gãy cuộc chuẩn bị hành quân càn quét của địch ở huyện Vũng Liêm ngày hôm sau. Trong chiến công này, mẹ được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì.

     Đơn vị du kích mật của mẹ được củng cố và phát triển thế hợp pháp đánh địch. Ngày 12/5/1972, trong cuộc phối hợp với lực lượng du kích đánh giao thông, 2 chiến sĩ du kích hy sinh. Lợi dụng thế hợp pháp, mẹ đấu tranh đem tử sĩ về vùng căn cứ, trên đường đi, mẹ vướng phải mìn và hy sinh. Sau giải phóng, người con trai duy nhất của mẹ là Phạm Văn Hai tình nguyện vào bộ đội và đã hy sinh ở chiến trường biên giới Tây Nam. Mẹ được Chủ tịch nước công nhận liệt sĩ và được truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

     Mẹ là đại diện tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam anh hùng, cả gia đình mẹ gồm: chồng, con và bản thân mẹ đều hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

          2. MẸ BÙI THỊ MÈ

          Mẹ Bùi Thị Mè sinh năm 1921 tại làng Trung Tín, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, trong một gia đình khá giả, vì vậy từ nhỏ đã được gia đình cho học hành tử tế và rất giỏi tiếng Pháp. Trong thời gian đi học ở Sài Gòn, mẹ đã tích cực tham gia phong trào cách mạng tháng Tám và được tổ chức giao nhiệm vụ hoạt động công khai trong giới trí thức Sài Gòn và các tỉnh miền Tây.

Sau đó mẹ được phân công làm hiệu trưởng trường trung học tư thục thuộc xã Long Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Tại đây, mẹ đã tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, những tấm gương sáng của cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng hy sinh vì dân, vì nước cho các thế hệ học trò. Đồng thời trường cũng là cơ sở hoạt động hợp pháp của Tỉnh uỷ Trà Vinh trong những năm 1950-1957. Hoạt động của trường không tránh khỏi sự theo dõi của mật thám chính quyền Sài Gòn nên đã ra lệnh đóng cửa ngôi trường với lý do hiệu trưởng "thân cộng". Do đó mẹ được điều về Trung ương cục miền Nam giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Y tế - Thương binh - Xã hội của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong thời gian công tác tại đây, mẹ đã đại diện cho Hội phụ nữ giải phóng miền Nam báo cáo chuyên đề về những người mẹ đảm đang trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nhân Đại hội phụ nữ toàn miền. Về sau với tư cách là uỷ viên Ban chấp hành hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, tại Đại hội phụ nữ được tổ chức tại An-giê-ri mẹ đã có một bài thuyết trình lưu loát bằng tiếng Pháp về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam anh hùng. Mẹ có 6 người con, trong đó 4 người con trai của mẹ đều tham gia cách mạng [03 người là liệt sĩ: Nguyễn Huỳnh Khanh, Nguyễn Huỳnh Tài, Nguyễn Huỳnh Đại; 01 người là thương binh: Nguyễn Huỳnh Đạo].

Mẹ Bùi Thị Mè là tấm gương tiêu biểu của người phụ nữ trí thức sẵn sàng từ bỏ cuộc sống bình an, sang giàu để dấn thân vào con đường cách mạng đầy hiểm nguy nhưng cũng rất đỗi anh hùng.

          Mẹ Nguyễn Thị Ngọt sinh năm 1910, tại xã Mỹ Lộc [nay là xã Phú Lộc], sinh sống tại ấp Phú Hòa Yên, xã Song Phú, huyện Tam Bình. Mẹ lập gia đình với ông Võ Văn Sanh, sinh được 8 người con [7 trai, 1 gái].

          Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mẹ cùng chồng nuôi con và tham gia cách mạng ở địa phương. Sau Hiệp định Giơnevơ, chồng đi tập kết, mẹ một mình cật lực lao động sản xuất, đảm đang việc nhà, nuôi con để chồng yên tâm công tác. Nhà ở cách chi khu Ba Càng chỉ 01 km nhưng gia đình của mẹ vẫn bí mật nuôi chứa cán bộ. Các con của mẹ vừa lao động, sản xuất, vừa cùng mẹ bảo vệ hầm bí mật nuôi chứa cán bộ, làm liên lạc thông báo tin tức cho cách mạng... chính những điều này đã nuôi dưỡng, hun đúc lòng yêu nước, ý chí quyết tâm tiếp nối truyền thống gia đình, vì vậy 6 người con của mẹ đã lần lượt tham gia cách mạng.

          Trải qua 02 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, gia đình mẹ có 7 người hy sinh, bao gồm chồng và 6 người con của mẹ.

          Liệt sĩ Võ Văn Sanh, chồng mẹ, sinh năm 1910, tham gia cách mạng năm 1945, là cán bộ Hội Nông dân tỉnh. Ngày 15/3/1970, ông hy sinh khi giặc càn, chúng bắn vào hầm bí mật nơi ông đang trú ẩn ở kinh Tư, xã Nguyễn Văn Thảnh [huyện Bình Minh, nay thuộc huyện Bình Tân]. Hài cốt được an táng tại đất nhà.

          Sáu người con của mẹ là:

          Liệt sĩ Võ Bá Đương [Năm Dương] sinh năm 1935, tham gia cách mạng năm 1960, là Trung đội trưởng Tiểu đoàn 857 đơn vị tỉnh Vĩnh Long. Khi cùng đồng đội phục kích trên quốc lộ 4, anh bị thương nặng, vết thương còn rỉ máu nhưng vẫn quyết tâm xin ra trận, chiến đấu cùng đồng đội. Anh hy sinh năm 1964 trong trận đánh ở Bằng Tăng, xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình.

     Liệt sĩ Võ Bá Thế, sinh năm 1937, tham gia cách mạng năm 1961, anh hy sinh năm 1971 trong chuyến đi công tác ở xã Mỹ Lộc. Hài cốt anh được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Tam Bình.

     Liệt sĩ Võ Bá Đức [Vũ Tiến], sinh năm 1942, tham gia cách mạng năm 1962. Năm 1970, trong chuyến đi công tác, không may lọt vào ổ phục kích của địch, anh đã hy sinh tại xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Anh được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Hài cốt anh được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Tam Bình.

     Liệt sĩ Võ Bá Chiến [Ba Thành], sinh năm 1945, tham gia cách mạng năm 1964. Năm 1970, anh hy sinh vì bị pháo địch bắn trong lúc an dưỡng ở khu Tây Nam Bộ. Anh được Nhà nước truy tặng danh hiệu "dũng sĩ diệt Mỹ" trong trận đánh quán bar Lệ Hoa ở thị xã Vĩnh Long cùng với anh hùng Lưu Văn Liệt và được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhì. Hài cốt anh được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Tam Bình.

     Liệt sĩ Võ Bá Lực [Vũ Sơn] sinh năm 1949, tham gia cách mạng năm 1964 thuộc đơn vị Quân y huyện Tam Bình. Anh hy sinh năm 1970 tại ấp An Phong, xã Ngãi Tứ khi giặc đánh vào quân y huyện. Anh được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba. Hài cốt anh được an táng tại xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình.

          Liệt sĩ Võ Bá Mười Hai [Minh Hùng], sinh năm 1950, tham gia cách mạng năm 1966. Anh hy sinh năm 1969 trong chuyến đi công tác ở xã Hậu Lộc. Anh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì. Hài cốt anh được an táng ở Nghĩa trang liệt sĩ huyện Tam Bình. 

          Chiến tranh kết thúc, 6 người con và chồng của Mẹ đã vĩnh viễn không trở về. Họ đã nằm xuống cho quê hương được thanh bình, độc lập, đó cũng là niềm an ủi, động viên đối với mẹ trước sự mất mát, hy sinh quá lớn.

     Mẹ Nguyễn Thị Ngọt là Mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu nhất của tỉnh Vĩnh Long, gia đình mẹ có đến 07 người hy sinh cho Tổ quốc [nhiều nhất tỉnh Vĩnh Long], bản thân Mẹ đã thể hiện đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam luôn hết lòng vì chồng, vì con, vì quê hương, đất nước. Ngày 17/12/1994, Mẹ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Huân chương Độc lập hạng Nhất. Để ghi nhớ công lao và sự đóng góp to lớn của Mẹ cho cách mạng, Tỉnh uỷ, Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã cho dựng tượng của mẹ tại khu căn cứ cách mạng Cái Ngang, xã Phú Lộc, huyện Tmm-am Bình, tỉnh Vĩnh Long, để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng, tấm gương cống hiến, hy sinh của mẹ cho các cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

V. ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN, ANH HÙNG LAO ĐỘNG TIÊU BIỂU

Vĩnh Long đã được Chủ tịch nước ký Quyết định phong và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 10 đơn vị, 39 địa phương và 47 cá nhân; danh hiệu Anh hùng lao động cho 01 địa phương và 05 cá nhân. Mỗi địa phương, đơn vị, cá nhân được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, những tấm gương vì dân vì nước "trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Mỗi người một hoàn cảnh, một tấm gương chiến đấu dũng cảm tuyệt vời, sẵn sàng xả thân vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, sẵn sàng "thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Những anh hùng lao động, trí thức cách mạng đem cả tâm lực, trí lực cuộc đời nghiên cứu phục vụ cách mạng, cống hiến cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

1. TRẦN VĂN ĐANG [1942 - 1965]

     Ông Trần Văn Đang sinh năm 1942 ở làng Long Hồ, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long [nay là xã Long Phước, huyện Long Hồ]; con của ông Trần Quang Cầm và bà Trương Thị Đống, sống nghề làm ruộng. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo có 6 anh em, cha mất sớm, mẹ tảo tần nuôi con.

     Ông theo người chú lên Sài Gòn học nghề phụ xe, rồi chuyển sang học nghề điện, làm công cho tiệm bán hàng điện tại Phú Nhuận. Sau đó, ông đi sửa điện dạo và sạc bình ắc quy.

     Tháng 3/1964, được người chú là cán bộ nội thành giác ngộ cách mạng, ông vào hoạt động trong lực lượng biệt động Sài Gòn [với bí danh là Sang].

     Sau thời gian bồi dưỡng chính trị, tập huấn nghiệp vụ ở căn cứ Củ Chi, ông được cấp trên giao nhiệm vụ đánh mìn Câu lạc bộ sĩ quan Mỹ ở số 3 đường Võ Tánh [nay là Hoàng Văn Thụ] quận Tân Bình, thành phố Sài Gòn. Nơi đây, phi công Mỹ thường tổ chức ăn nhậu.

     Kế hoạch đã chuẩn bị xong, khi chiếc xe Vespa mang 10kg thuốc nổ vừa cập trận địa thì bị một tên "chiêu hồi" phản bội. Ông bị bắt trưa ngày 20/03/1965.

     Địch gấp rút xử án ông để ngăn chặn phong trào đánh Mỹ, diệt Mỹ ở thành phố. Ngày 9/4/1965, toà án quân sự đặc biệt kết án tử hình ông.

     Cùng bị giam trong xà lim án tử hình với ông còn có Nguyễn Văn Hai [tức Ba Thợ Mộc], biệt động đánh toà Đại sứ Mỹ ngày 30/3/1963, bị bắt với vết thương ở bụng chưa lành. Trong khám, ông hết lòng chăm sóc, động viên nhau giữ khí tiết và tinh thần lạc quan cách mạng.

     Lúc 5 giờ sáng ngày 22/6/1965, địch đưa ông ra pháp trường sau khi chúng cho ăn bữa cơm "ân huệ" cuối cùng, ông từ chối ăn cơm, từ chối linh mục vào xưng tội. Ông thay quần áo sạch sẽ, hút thuốc, uống trà và chải lại mái tóc gọn gàng như người chiến sĩ xuất trận trong tư thế chiến thắng. Ở pháp trường, bị cảnh sát trói vào cọc bắn, ông gạt băng đen bịt mắt: "Phải để tôi thấy đồng bào tôi". Trong tư thế giằng co với bọn đao phủ, ông hô lớn:

     - Đả đảo đế quốc Mỹ! Đả đảo đế quốc Mỹ!

     - Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!

     Bất ngờ trước đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước, địch vội vã ra lệnh, nhưng đã muộn sau tiếng hô đanh thép của ông.

     Trước đó, ngày 24/10/1964, Nguyễn Văn Trỗi bị địch xử bắn tại Khám Chí Hòa. Đến ngày 22/6/1965, địch xử bắn ông tại chợ Bến Thành với ý đồ hạ uy thế cách mạng, răn đe phong trào. Nhưng khí phách của ông đã đánh vào kẻ thù một đòn hiểm, khiến chúng trở tay không kịp.

     Sau đó, Đảng và Bác Hồ gửi thư cho thế hệ trẻ phát động học tập tấm gương anh hùng liệt sĩ Trần Văn Đang và Nguyễn Văn Trỗi.

     Ngày 6/11/1978, ông được Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

2. TRẦN THANH LIÊM [1941 - 1968]

     Ông Trần Thanh Liêm [còn có tên Trần Văn Liêm] sinh năm 1941 ở xã Phong Hòa, huyện Lai Vung, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp.

     Sinh ra trên quê hương có truyền thống cách mạng, năm 1960, ông tham gia du kích xã, được đi học lớp đặc công, vào Đoàn Thanh niên và được đề bạt Tiểu đội trưởng của Trung đội đặc công tỉnh.

     Năm 1965, ông được kết nạp Đảng, từ Trung đội phó, Trung đội trưởng rồi Đại đội phó Đại đội 203 thuộc Tiểu đoàn 857 địa phương quân Vĩnh Long.

     Tháng 5/1967, ông chỉ huy đơn vị diệt đồn Trà Kiết [xã Mỹ Thuận, Bình Minh] diệt 1 trung đội địch thu toàn bộ vũ khí, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân.

     Tháng 9/1967, ông chỉ huy diệt đồn Bình Tiên [Châu Thành - Sa Đéc], phối hợp với Đại đội 203 đánh tiêu diệt 2 đại đội cảnh sát dã chiến của địch, bắt sống 21 tù binh, thu nhiều súng đạn, mở rộng vùng giải phóng.

     Trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân [1968], ông không để tay xuống nếu không được chọn làm mũi trưởng dù biết là sẽ hy sinh với lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!", quyết hoàn thành nhiệm vụ đánh vào sân bay, hang ổ gây tội ác của địch, nơi đi trút bom đạn giết hại đồng bào. Khi được chọn làm mũi trưởng, lãnh đạo hỏi đồng chí có nguyện vọng gì. Ông trả lời "Tôi còn một mẹ già, nếu tôi hy sinh các đồng chí nhớ chăm sóc mẹ già dùm tôi".

     Vào lúc 12 giờ đêm 29 rạng sáng mùng một Tết Mậu Thân, dưới sự chỉ huy của ông, cả đại đội xông lên hủy diệt hàng chục chiếc máy bay, phá hủy bãi xe thiết giáp, kho tàng, làm tê liệt bộ máy địch, tạo điều kiện cho các mũi tấn công của quân ta, chiếm và giữ thị xã Vĩnh Long nhiều ngày. Trong chiến đấu, ông đã hy sinh lúc 5 giờ ngày 01/01/1968. Với chiến công đánh vào sân bay, ông được tuyên dương công trạng và truy tặng Huân chương Quân công hạng Hai.

     Trước đó, trong quá trình chiến đấu, ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất và nhiều bằng khen.

     Ngày 30/8/1995, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng ông danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

3. PHẠM THỊ MẾN [1939 - 1961]

     Bà Phạm Thị Mến, tên thường gọi Út Mến, sinh năm 1939 tại xã Trà Côn, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Cha của bà hy sinh trong nhà tù năm 1954. Mẹ của bà làm ruộng nuôi các con và hết lòng giúp đỡ cách mạng trong thời kỳ khó khăn.

     Được giác ngộ lòng yêu nước, năm 18 tuổi [10/1957], bà tham gia cách mạng, làm công tác giao liên xã, sau đó được rút về công tác giao liên cho Huyện ủy huyện Trà Ôn.

     Trong tình hình đồn bót giặc dày đặc, bọn lính lục soát gay gắt, bà mưu trí qua mắt địch, đem công văn tài liệu mật của Đảng đến nơi an toàn, đúng thời gian quy định bất kể đường xa, ngày đêm và mọi trở ngại. Đã có hàng chục lần bà vượt qua sự ngăn chặn tình nghi của địch.

     Tháng 5/1959, trong một lần chuyển tài liệu từ huyện về xã theo yêu cầu gấp, bà bị cảnh sát xã Trà Côn bắt nhưng đã kịp thủ tiêu tài liệu. Địch tra tấn dã man, dùng mọi cực hình như cho điện giật, đổ nước xà bông cho chết ngạt, dùng sắt nướng đỏ dí vào lưng, vào cửa mình nhiều lần làm cho ngất xỉu, nhiều lần bị đánh ói máu chết đi sống lại nhưng bà không hề khai báo. Cuối cùng, địch đày bà đi nhà tù Phú Lợi [Biên Hòa] suốt hai năm. Sau khi được thả, bình phục, bà xin vào du kích trực tiếp chiến đấu, gây cho địch nhiều tổn thất.

     Ngày 18/12/1961, tổ du kích do bà làm Tổ trưởng chiến đấu chống lại một trung đội địch tại ấp Bang Chang [xã Trà Côn]. Sau khi bẻ gãy 3 đợt phản kích của địch, 3 chiến sĩ du kích lần lượt hy sinh, còn mình bà chiến đấu. Hết đạn, chỉ còn một trái lựu đạn, chờ địch đến, bà cho lựu đạn nổ, địch ngã gục, bà bị thương ở chân. Bà bị địch bắt, đánh đập, tra tấn cực hình nhưng luôn giữ khí tiết người cán bộ cách mạng.

     Tên Tình, cảnh sát ác ôn hết lời dụ dỗ rồi tra tấn, dùng kim ghim vào 10 đầu ngón tay bà để đe dọa. Bà dũng cảm dùng 10 ngón tay bấu vào mặt kẻ thù, chửi thẳng bọn chúng. Biết không thể khai thác được gì, đêm 19-12-1961, địch dắt bà ra phía sau đồn xã Trà Côn thủ tiêu. Bà dũng cảm hô: "Đả đảo đế quốc Mỹ, đả đảo ác ôn!" trước loạt đạn nổ kéo dài.

     Ngày 11/6/1999, bà được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Chiến công hạng Nhì.

4. TRẦN ĐẠI NGHĨA [1913 - 1997]

     Ông Trần Đại Nghĩa, tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 tại xã Xuân Hiệp, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Quê quán của ông ở làng Chánh Hòa [nay thuộc Hòa Thạnh, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long].

     Xuất thân trong gia đình khá giả, cha ông là cụ ông Phạm Văn Mùi, gốc nhà giáo [quê Biên Hòa]; mẹ là cụ Phạm Thị Diệu, vốn có kiến thức chữ Nho và đạo Phật.

     Thuở nhỏ, ông thông minh hiếu học, sau khi học ở trường tỉnh, ông thi đỗ vào trường Collège de Mỹ Tho [nay là Trường Nguyễn Đình Chiểu] và Trường Pétrus Ký Sài Gòn [nay là Lê Hồng Phong]. Năm 1933, ông đỗ hai bằng tú tài Việt và Pháp.

     Năm 1935, ông được học bổng sang Pháp du học. Trong 11 năm với tinh thần tự học, ông tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân toán tại các trường: Đại học Bách khoa Paris, Đại học Mỏ, Đại học Điện, Đại học Sorbonne, Đại học Cầu đường Paris. Thời gian  ông làm việc tại Pháp và Đức, ông đã sưu tầm trên 30.000 trang tài liệu về chế tạo các loại vũ khí.

     Năm 1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời về nước tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông đã từ bỏ chức vụ kỹ sư trưởng ở Hãng nghiên cứu chế tạo máy bay Concord với tiền lương 22 lạng vàng một tháng lúc ấy để theo Bác Hồ về nước. Ông được Bác Hồ đặt tên là Trần Đại Nghĩa.

     Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ông có nhiều sáng kiến chế tạo, cải tạo vũ khí chống địch. Ông là người chế tạo súng Bazoka, SkzGo 81, 120mm. Các loại vũ khí này là vũ khí chủ lực của quân đội ta, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Ngoài ra, ông là người đã cải tiến các loại tên lửa đất đối không, diệt pháo đài bay B52 của Mỹ, rà phá các loại bom, mìn thủy lôi mà Mỹ thả xuống các cảng, sông hòng bao vây, phong tỏa miền Bắc.

     Các chức vụ ông đã đảm nhiệm: Cục trưởng Quân giới, Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban thiết kế cơ bản Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam.

     Ông là một trong những người đầu tiên của Việt Nam được phong danh hiệu Anh hùng lao động và được tặng nhiều Huân chương cao quý, trong đó có Huân chương Hồ Chí Minh và Giải thưởng Hồ Chí Minh.

     Sau ngày thống nhất đất nước, ông về hưu ở quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 9/8/1997, ông qua đời tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 84 tuổi.

     Ông có nhiều tác phẩm, tài liệu nghiên cứu về vũ khí quốc phòng và các công trình khoa học có giá trị khác.

     Ông là nhà trí thức lớn, yêu nước nồng nàn, không màng chức vụ và danh lợi, từ bỏ cuộc sống xa hoa ở Pháp để về nước tham gia kháng chiến cứu nước suốt 2 thời kỳ gian khổ.

VI. NHÂN VẬT TIÊU BIỂU TRÊN LĨNH VỰC Y HỌC

1. PHÙNG VĂN CUNG [1909 - 1987]

          Ông Phùng Văn Cung là một trong những trí thức có tên tuổi ở nước ta. Ông sinh ngày 5/5/1909 tại thôn Tân Bình, xã Tân An, tổng Bình Long [nay là khóm 1, phường 9, thành phố Vĩnh Long], trong một gia đình nông dân khá giả, có 12 anh em.

          Thân sinh của ông là cụ ông Phùng Văn Thân, hương cả trong làng; mẹ là cụ bà Nguyễn Thị Lới.

          Ông là con thứ năm trong gia đình, thuở nhỏ ông học rất giỏi, sau khi học xong trường tỉnh, ông vào trường học Chasseloup Laubat Sài Gòn. Gia đình tạo điều kiện để ông học Đại học Y khoa Hà Nội. Học hết năm thứ ba, gia đình cưới vợ cho ông là bà Lê Thoại Chi, con nhà giàu có tiếng ở Cái Tàu Hạ [Sa Đéc], giúp chồng trong suốt quá trình ở Hà Nội.

          Từ năm 1937, tốt nghiệp bác sĩ y khoa, ông mở phòng mạch trị bệnh ở Sa Đéc, Campuchia với tinh thần vì nghề, giúp người.

          Trong Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia giành chính quyền ở Sa Đéc, rồi tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1954, ông bí mật cho 2 con trai tập kết ra Bắc. Năm 1960, ông tiếp tục cho 2 con gái thông qua đường Campuchia để ra Bắc học tập.

          Từ năm 1957, ông làm Giám đốc Sở Y tế tỉnh Châu Đốc [nay là tỉnh An Giang] và tỉnh Rạch Giá [nay là tỉnh Kiên Giang], sau đó, làm Giám đốc Bệnh viện Phúc Kiến - Chợ Lớn [nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi].

          Dưới vỏ bọc là sĩ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa, hàm thiếu tá, ông hoạt động cách mạng là chủ yếu. Ông và vợ quyên góp tiền bạc, chở vũ khí cho cách mạng, đặc biệt là che giấu, trị bệnh cán bộ tại bệnh viện cũng như tại nhà. Bọn tổng nha, tình báo nhiều lần hăm dọa, nhưng ông khôn khéo vượt qua.

          Giữa năm 1960, theo yêu cầu của cách mạng, ông và vợ bí mật ra vùng giải phóng, không nuối tiếc tài sản mà cả gia đình gây dựng lâu nay.

          Ngày 20/12/1960, tại Đại hội đại biểu thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 3-1969, tại Đại hội đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

          Ông được cử làm Trưởng phái đoàn Quân dân miền Nam ra thăm miền Bắc theo nguyện vọng nhân dân miền Nam, bày tỏ lòng biết ơn của đồng bào miền Nam đối với Trung ương Đảng, Bác Hồ và nhân dân miền Bắc ruột thịt.

          Cuối năm 1969, ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của miền Nam, Ủy viên Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam. Ông nhiều lần đi công cán các nước trên thế giới, đem tiếng nói yêu nước, yêu hoà bình, chính nghĩa của nhân dân miền Nam, gây dư luận rộng rãi, lên án đế quốc Mỹ xâm lược gây tội ác bằng bom đạn chất độc hóa học, thảm sát đồng bào.

          Sau ngày miền Nam giải phóng, tuổi cao sức yếu, ông giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

          Với trí tuệ thông minh, lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm cao, ông luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bà Lê Thoại Chi từng giúp chồng công tác, đã hy sinh năm 1966 được công nhận liệt sĩ.

          Ông từ trần ngày 7/11/1987, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 78 tuổi. Ông được tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Huân chương Vì sự nghiệp phong trào hoà bình thế giới [do Hunggari tặng].

          Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có con đường mang tên Phùng Văn Cung để ghi nhớ công lao người trí thức.

          2. TRƯƠNG CÔNG TRUNG [1919 - 2006]

Ông Trương Công Trung sinh ngày 9/11/1919 tại làng Long Châu, tổng Bình Long, tỉnh Vĩnh Long [nay là Cầu Lầu, phường 1, thành phố Vĩnh Long]; con của cụ ông Trương Công Thiện, là công chức. Theo gia phả, Trương Công Thiện đời thứ bảy, Trương Công Trung thuộc đời thứ tám của dòng họ Trương Công từ miền Trung vào Nam lập nghiệp.

Vốn ảnh hưởng của Nho học, ông được gia đình chăm sóc dạy dỗ chu đáo. Thuở nhỏ, ông thông minh, học giỏi. Sau khi học trường Vĩnh Long, trường Collège Mỹ Tho, trường Pétrus Ký Sài Gòn. Năm 1940, Trương Công Trung đỗ vào trường Đại học Y khoa Hà Nội.

Trong lúc ông chuẩn bị bảo vệ luận án bác sĩ Y khoa thì Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông cùng bạn là Nguyễn Thiện Thành, Huỳnh Văn Tiểng trở về Sài Gòn gia nhập Thanh niên Tiền phong giành chính quyền ở Sài Gòn.

Tháng 10/1945, ông làm Ủy viên Ban Y tế, phụ trách phòng mổ ở chiến trường Hậu Giang. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, từ Trưởng ban Giải phẫu lưu động Mặt trận Hậu Giang, ông trải qua các chức vụ Viện trưởng Viện Quân y Quân khu 9, Quân y Vụ phó Quân khu 9, Trưởng ban Giải phẫu lưu động, Viện trưởng Viện Quân y Phân liên khu miền Tây Nam Bộ kiêm Trưởng phòng Quân y miền Tây. Ông tham gia công tác tại các chiến trường miền Tây thuộc Quân khu 9 như chiến dịch Long Châu Hà I, II, Sóc Trăng I, II, Tân Hưng [Cà Mau]...  và các trận đánh của Tiểu đoàn 307 vùng đồng bằng Vĩnh Trà Sa.

Từ 1954 - 1960, ông tập kết ra Bắc, rồi đi làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô, bảo vệ luận án Phó tiến sĩ Y khoa.

Từ năm 1961-1964, ông giữ các chức vụ Tổng Chủ nhiệm Ngoại khoa kiêm Chủ nhiệm Khoa Sọ não và Khoa Tiết niệu Viện Quân y 108 - Hà Nội, Phó Viện trưởng Viện Quân y 103 kiêm Chủ nhiệm liên khoa Ngoại, huấn luyện nhiều khóa đào tạo bác sĩ cho chiến trường miền Nam.

Tháng 4/1964, ông bí mật đi tàu không số vào Nam với bí danh Hoàng Minh Thọ [ghép họ vợ, tên con gái và tên vợ]. Ông nhận nhiệm vụ Phó phòng Quân y miền Nam kiêm Hiệu trưởng trường Quân y sĩ, rồi Hiệu trưởng trường Bác sĩ Quân y, đào tạo nhiều bác sĩ và biên soạn sách giáo khoa gồm trên 40 tài liệu, đề tài phục vụ cho chiến trường miền Nam.

Sau ngày giải phóng [30/4/1975], ông được phong hàm Đại tá, làm Viện trưởng Viện Quân y 175, Hiệu trưởng trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và là đại biểu Quốc hội khóa VII.

Thời gian này, ông đã kết hợp với các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, Trường Đại học Y khoa Cần Thơ mở nhiều lớp bổ túc, đào tạo bác sĩ, tạo cơ sở thực hành. Ông tham gia giảng dạy trường Đại học Y và hướng dẫn luận văn sau đại học [thạc sĩ, tiến sĩ] cho bác sĩ chuyên khoa.

Ngoài quản lý và giảng dạy, ông còn biên soạn nhiều tài liệu nghiên cứu y học.

Ông được Đảng, Nhà nước phong Giáo sư [1980], Nhà giáo nhân dân [1989], danh hiệu Anh hùng lao động [1998] và giải thưởng Nhà nước về công trình khoa học công nghệ [2000]. Ông được tặng thưởng 11 Huân chương các loại, trong đó có Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.

Ông về hưu năm 1995 và bị bệnh mất ngày 2/10/2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 87 tuổi.

     Điều đặc biệt, mặc dù cha của ông là Trương Công Thiện, từng làm Chủ tỉnh Bạc Liêu, Vĩnh Long nhưng 4 anh em của ông đều tham gia cách mạng ngay từ những ngày đầu kháng chiến. Họ đều công tác tốt và được khen thưởng xứng đáng. Bên cạnh đó, vợ của ông, bà Huỳnh Thị Thọ, là thiếu tá quân y. Từ học sinh trường áo tím Sài Gòn, bà đã từng ra Bắc vào Nam có mặt cùng chồng trong hai cuộc kháng chiến đầy gian khổ của dân tộc.

VII. NHÂN VẬT TIÊU BIỂU TRÊN LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT

1. TỐNG HỮU ĐỊNH [1869 - 1932]

Ông Tống Hữu Định sinh trưởng ở làng Long Châu [nay thuộc phường 2, thành phố Vĩnh Long], là dòng dõi của Tống Phước Hiệp - công thần nhà Nguyễn, từng gắn bó với Vĩnh Long.

Ông có hiệu Tịnh Trai, tục gọi Phó Mười Hai [vì làm chức Phó tổng Bình Long, Vĩnh Long và là con thứ mười hai trong gia đình].

Ông nổi tiếng là người hào hoa, say mê âm nhạc dân tộc. Hàng tuần, tư gia của ông là nơi tụ hội nhiều tài tử ca nhạc cổ. Chính ông là người có sáng kiến khai sinh ca ra bộ, tiền thân của nghệ thuật cải lương.

Theo nhà nghiên cứu Hoài Ngọc: "Từ năm 1914-1915, Ca ra bộ dần dần phát triển thành phong trào trên sân khấu gỗ, dưới sân khấu đất và lan rộng đến tận nơi có đông đảo quần chúng tụ họp đông vui, tiệc tùng, tế lễ...". Đó là bước ngoặt quyết định sự cấu thành của sân khấu cải lương sau này.

Ông là người đứng ra vận động thành lập Hội Văn Thánh tại Vĩnh Long năm 1900 để trùng tu lại di tích Văn Thánh Miếu [năm 1903 hoàn thành]. Trong lễ khánh thành, ông tổ chức biểu diễn một loạt bài ca theo điệu Tứ đại oán, vọng cổ, mở đầu cho bộ môn ca kịch cải lương. Cũng từ đó, bộ môn này phát triển làm phong phú nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

Trong lịch sử bộ môn hát cải lương Nam Bộ, các nhà nghiên cứu đã dành cho ông một chỗ đứng về sự hình thành và phát triển của bộ môn này một cách tương xứng. Soạn giả Trương Duy Toản kế tục sự nghiệp của ông đã viết kịch bản cải lương Lục Vân Tiên [tức Kiều Nguyệt Nga cống hồ], được ông Châu Văn Tú [Mỹ Tho] cho dàn dựng vở hát đầu tiên. Các tác phẩm: Tứ đại oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga, Vịnh Văn Miếu [viết năm 1900], Mừng Văn Thánh tái tạo [viết năm 1903].

Ông mất năm 1932 tại Vĩnh Long, thọ 63 tuổi.

2. PHAN VĂN HAI [1904-1980]

Ông Phan Văn Hai còn có tên Phan Văn Huệ, tên thường gọi là Ba Du, sinh năm 1904 tại làng Chánh Hiệp [nay thuộc xã Hoà Thạnh], huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long trong gia đình công chức nghèo.

Vốn mê đờn ca, ông theo học nhạc với ông Lê Tài Khị cùng ông Trần Hữu Trang, Nguyễn Thành Châu. Năm 1920, mới 16 tuổi, ông cùng các bạn đương thời như Tám Danh [Nguyễn Phương Danh], Triệu An, Ba Vân [Lê Long Vân] và nữ nghệ sĩ Phùng Há tham gia lĩnh vực sân khấu, vốn đang thịnh hành.

Bước đầu, ông làm diễn viên đoàn Đồng Ban, Tái Đồng Ban nổi tiếng với vai Lục Vân Tiên [trong tuồng Lục Vân Tiên] do Trương Duy Toản biên soạn. Sau đó, ông lần lượt tham gia các đoàn Phước Chung, Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Phụng Hảo. Tài năng của ông được khẳng định ở các vai độc và hài, tiêu biểu như: vai Tề Quân [Thôi Tử thí Tề Quân], Mạnh Lương [Mộc Quế Anh dâng cây], Đổng Trác [Phụng Nghi Đình], Ban Hồng [Xử án Bàng Quý Phi], Ba Tửu [Tứ Đổ Tường], Mã Giám Sinh [Kiều], Hội đồng Thăng [Đời cô Lựu], Ông Cả [Tô Ánh Nguyệt], Câu Thân [Đoạn Tuyệt]...

Ông thể hiện đậm nét nhân vật, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xem. Ông còn là soạn giả của nhiều vở tuồng. Vở Ngốc Đăng Khoa do ông soạn, biểu diễn tại Hà Nội năm 1936, được báo chí hết lời ca ngợi ông là nghệ sĩ toàn tài.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia giành chính quyền ở Sóc Trăng. Sau đó, ông ra vùng kháng chiến hoạt động ở Đoàn Văn công Quân khu 8. Ông vừa là diễn viên, soạn giả vừa là Phó đoàn Văn công Nam Bộ.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Đoàn cải lương Nam Bộ, Ban nghiên cứu sân khấu cải lương, Hiệu phó Trường Ca kịch Dân tộc, Phó Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu, đại biểu Quốc hội. Ông vừa là cố vấn đạo diễn dàn dựng cho các đoàn nghệ thuật cải lương, vừa làm diễn viên các vai "độc đáo".

Ông còn chú tâm đào tạo thế hệ trẻ, dày công uốn nắn thật kỹ lưỡng từng trường canh, làn hơi mỗi điệu từ của những bản ca lớn [Bắc, Nam, Oán] đến bản ca nhỏ với minh hoạ dễ nghe, dễ hiểu. Các học trò của ông nhiều người đã trở thành nghệ sĩ ưu tú như: Tấn Đạt, Công Thành, Thanh Vi, Quang Văn, Xuân Hiểu...

Ông hoạt động khắp ba miền của đất nước và hai lần cùng Đoàn cải lương Nam Bộ sang biểu diễn tại Pháp. Bên cạnh đó, ông còn tham gia đóng phim [phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm]. Nhiều lần ông biểu diễn cho Bác Hồ xem và được Bác tặng hoa. Đây là một danh dự lớn cho ông.

Ông mất ngày 21/11/1980, tại Hà Nội, thọ 76 tuổi.

Hơn 50 năm phục vụ nghệ thuật, ngày 25/01/1984, ông được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Đảng, Nhà nước tặng cho ông Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc.

3. TẠ THANH SƠN [1921 - 1986]

Ông Tạ Thanh Sơn sinh năm 1921 tại thị trấn Trà Ôn, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ông là con của cụ ông Tạ Thanh Sung và cụ bà Nguyễn Thị Chắc, chủ hãng rượu Quảng Đức An [Trà Ôn]. Đây là hãng rượu lớn ở đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ.

Thuở nhỏ, ông học trường Trà Ôn, rồi học trường Collège de Cần Thơ. Sớm giác ngộ cách mạng, ông gắn bó với phong trào thanh niên yêu nước của Lưu Hữu Phước, Nguyễn Mỹ Ca, Ung Ngọc Ky... Với cây đàn Măngđôlin, ông bắt đầu tập viết nhạc từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường [1940].

Tốt nghiệp, ông ra dạy học ở Sa Đéc và tham gia Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau đó, ông được phân công công tác ở Sở Văn hóa - Thông tin Sa Đéc do ông Nguyễn Việt Nam làm Trưởng ty, hoạt động ở vùng Đồng Tháp Mười chống Pháp tái chiếm.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, chỉ hai ngày sau [ngày 25/9/1945], khi đang dự lớp huấn luyện chính trị [khóa Quách Văn Cự tại xã Mỹ Xương - Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười], ông sáng tác bài Nam Bộ kháng chiến.

Bài hát đã nhanh chóng lan rộng chủ yếu bằng chép tay và truyền miệng, sau đó được báo Độc Lập in và phổ biến rộng cả nước. Bài hát Nam Bộ kháng chiến đã cổ vũ lòng yêu nước, khẳng định tuổi trẻ: "đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Nóp với giáo mang ngang vai nhưng thân trai nào kém oai hùng... một lòng nguyện với tổ tiên. Thề quyết chống quân ngoại xâm!..".

Nam Bộ bước vào cuộc chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân không ai không thuộc bài ca này. Đây là một bài hát tập thể như lời thề đanh thép với núi sông.

Cuối năm 1947, khi đi công tác, ông bị địch bắt, giam ở Khám lớn Sài Gòn. Tình cờ, ông gặp tên sĩ quan Pháp học cùng trường. Tên này hỏi: "Vì sao ông học giỏi không ra làm quan cho Pháp mà lại theo Việt Minh làm giặc?" Ông nói: "Ông có Tổ quốc của ông, tôi có Tổ quốc của tôi, lẽ nào theo các ông để chống lại dân tộc đất nước tôi?". Khuyến dụ không được, chúng lưu đày ông sang Pháp. Tại đây, ông liên hệ với các tổ chức tiến bộ Pháp để hoạt động.

Năm 1949, được trả tự do, ông về dạy học ở trường Huỳnh Khương Ninh [Sài Gòn] và tham gia phong trào yêu nước của quần chúng.

Sau ngày giải phóng [30/4/1975], ông làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường Cái Khế [Cần Thơ]. Năm 1980, do sức khoẻ kém, ông về quê sinh sống, an dưỡng tuổi già. Ông mất năm 1986, thọ 64 tuổi.

4. NGUYỄN THÀNH ÚT [1919 - 2001]

Ông Nguyễn Thành Út, tên thường gọi là Út Trà Ôn, sinh năm 1919 tại làng Đông Hậu, quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ông là con của cụ ông Nguyễn Thành Dư [Hương lễ Dư] và cụ bà Trần Thị Chữ. Ông xuất thân trong gia đình nông dân khá giả, tên thường gọi trong gia đình là cậu Út hay Mười Út [do ông là con thứ mười và cũng là con út]. Ông có giọng ca tốt nên trong các buổi tế lễ, ông thường được chỉ định làm học trò lễ xướng.

Năm 1935, cha mất lúc ông mới 16 tuổi, đang học lớp 4 nên việc học bị dang dở. Khi đi làm đồng ông thường lên lưng trâu nghêu ngao ca theo giọng các nghệ sĩ như Tư Sạn, Năm Nghĩa, Tám Thưa, Bảy Cao... Sau đó, ông tìm học đờn, ca của các thầy Tư Hiệu, Năm Tồn. Giọng ca của ông được phát triển, thu hút trong các buổi lễ làng.

Năm 1939, phong trào đờn ca tài tử thịnh hành. Ông lên Sài Gòn dự thi giọng ca hay do hãng buôn Đức Thành Hưng tổ chức. Ông đạt giải nhất và được hãng rượu Bình Tây trao giải thưởng bằng rượu hiệu Ba Con Mèo. Từ đó, giọng ca của ông trở nên nổi tiếng.

Những bài ca đầu tiên của ông được Đài Phát thanh, hãng dĩa nhựa Asia thu là: Thức trót đêm đông, Sầu bạn chung tình, Tôn Tẩn giả điên...

     Khi về đoàn Tiến Hóa, ông đóng vai Tào Tháo [vở Tào Tháo dâng đao] và các vai trong Đẹp duyên chùa tháp, Mộng tình tan vỡ, Núi Liễu sông Bằng, Tuyệt tình ca... đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả.

Năm 1950, ở tuổi 31, danh tiếng của ông nổi như cồn. Năm 1954. Ông được báo chí bình chọn giọng ca hay nhất [số phiếu của ông nhiều hơn số phiếu người thứ nhì 8 lần].

     Ngày 27/10/1954, báo chí tôn vinh ông là "Đệ nhất danh ca miền Nam". Nhân dân gọi ông là vua vọng cổ. Ông đã hát cho các đoàn Tân Thinh, Thanh Long, Tiến Hóa, Mộng Vân, Thanh Minh, Kim Thanh, Thủ Đô, Kim Chung, Thống Nhất... Bằng giọng ca bất tử của mình, ông một vị trí đặc biệt trong lịch sử sân khấu cải lương.

Ông có hàng trăm bài ca vọng cổ trên các băng dĩa hát như: Tình anh bán chiếu, Gánh nước đêm trăng, Sầu vương biên ải, Mồ em Phượng, Ông lão chèo đò... Soạn giả Hà Triều đánh giá ông: "Thế hệ này khó có ai sánh được!"

Sau ngày giải phóng, trong buổi lễ mừng chiến thắng tại Dinh Độc Lập ngày 19/5/1975, trên khán đài ông hát bài: Đài hoa dâng Bác của tác giả Trần Nam Dân khẳng định tính độc đáo của Út Trà Ôn trước hàng ngàn công chúng, một vua vọng cổ tuổi sắp lục tuần.

Được cách mạng chắp cánh, ông tiếp tục con đường sân khấu qua các vai: Hai Thành [Đời cô Lựu], Tám Khoẻ [Người ven đô], Trùm sò [Ngao sò ốc hến], Văn Hiếu [Bình Tây Đại nguyên soái], Kiều ông [Kiều Nguyệt Nga]... Các bài ca vọng cổ được phát sóng trên đài phát thanh như: Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, Tâm sự với rừng, Núm ruột quê hương, Nói chuyện với đồng bằng... càng khẳng định tài năng của ông. Suốt cuộc đời ca hát của mình, không lần nào ông ca các bài ca phản lại dân tộc, chống lại cách mạng.

Ông còn tận tình đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như: Phương Quang, Bạch Tuyết, Ngọc Hương, Út Hậu, Ngọc Bích... và con gái Bích Phượng đã nối gót ông.

Ngày 03/02/1997, Chủ tịch nước đã phong tặng ông danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân - danh hiệu cao quý nhất trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Ông từ trần ngày 13/8/2001 tại Thành Phố Hồ Chí Minh, thọ 82 tuổi trong sự luyến tiếc biết bao người mộ điệu.

[1] Tiêu chí chọn nhân vật:

- Nhân vật là những người đã hy sinh hoặc từ trần.

- Nhân vật quê quán, trú quán ở Vĩnh Long hoặc quê quán nơi khác nhưng hoạt động ở Vĩnh Long.

- Những hoạt động của nhân vật mang tính tiêu biểu, nổi bật trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,....Trong đó:

+ Nhân vật hoạt động chính trị: bao gồm các nhân vật có ảnh hưởng quan trọng trong từng giai đoạn cách mạng của tỉnh Vĩnh Long; các nhân là bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long tiêu biểu qua các thời kỳ.

+ Nhân vật là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng lao động tiêu biểu.

+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng: những mẹ bản thân là liệt sĩ, hoặc tham gia hoạt động cách mạng, hoặc có những hoạt động nổi bật, tiêu biểu.

+ Nhân vật trên các lĩnh vực y học, nghệ thuật,…có những đóng góp tiêu biểu đối với vùng đất Vĩnh Long.

- Thứ tự của các nhân vật trong từng nhóm được sắp xếp theo thứ tự A, B, C…

[2] Trích Điếu văn do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đọc tại lễ truy điệu.

[3] Trích lời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghi vào sổ tang.

[4] Đồng chí Lê Hà [Bảy Trấm]

[5] Quảng Ngãi có 2 đồng chí làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long là đồng chí Nguyễn Việt Châu và đồng chí Hồ Nam

[6] Đồng chí Tạ Bửu, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long từ tháng 9/1941 đến tháng 3/1943, mồ côi cha mẹ từ nhỏ được đồng chí Tạ Uyên nhận làm con nuôi và cho mang họ của ông.

Page 2

Page 3

Page 4

Page 5

Page 6

Page 7

Page 8

Page 9

Page 10

Page 11

Page 12

Page 13

Page 14

Page 15

Page 16

Video liên quan

Chủ Đề