Luật Doanh nghiệp 2014 có rất nhiều điểm mới liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp so với Luật Doanh nghiệp 2005 trước đây. Một trong các điểm mới cơ bản của Luật Doanh nghiệp 2014 là quy định về thời hạn góp vốn điều lệ. Nếu như trước đây Luật Doanh nghiệp 2005 quy đinh Công ty TNHH một thành viên, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần đều phải thực hiện góp vốn khác nhau: Công ty TNHH được quyền góp vốn trong vòng ba mươi sáu tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, với Công ty cổ phần thù phải góp đủ vốn trong vòng 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thay vì quy định thời gian góp vốn là khác nhau cho từng loại hình công ty như trước đây Luật doanh nghiệp đã quy định quy định thống nhất thời hạn thanh toán đủ phần vốn góp của tất cả các loại hình công ty đều là 90 ngày kể từ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Cụ thể là các quy định như sau:
- Đối với Công ty TNHH hai thành viên trở lên được quy định tại khoản 2 Điều 48: Thực hiện góp vốn thành lập công ty và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp: “Thành viên phải góp vốn phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”;
- Đối với Công ty TNHH một thành viên được quy định tại khoản 2 Điều 74: Thực hiện góp vốn thành lập công ty: “Chủ sở hữu phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”.
- Đối với Công ty cổ phần được quy định tại khoản 1 Điều 112: Thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp: “Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm giám sát, đôn đốc thanh toán đủ và đúng hạn các cổ phần các cổ đông đã đăng ký mua”.
Quy định này giúp xóa đi cách biệt giữa các loại hình doanh nghiệp, tạo ra sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp mới có gì mới?
Huy Nam - Chuyên viên kinh tế và thị trường chứng khoán
Ngoài sự bao quát về đối tượng điều chỉnh, bao gồm doanh nghiệp trong nước, ngoài nước và nhà nước, Luật Doanh nghiệp 2005 [LDN 2005, có hiệu lực từ ngày 1-7-2006] có nhiều bổ sung mới, được thay đổi hoặc chỉnh sửa tốt hơn nhiều so với Luật Doanh nghiệp 1999 [LDN 1999].
Những quy định chung
Với nội dung dày hơn, số điều luật nhiều hơn [tăng 48 điều, từ 124 lên 172], LDN 2005 nhìn chung đã có sự cải thiện đáng kể, nếu không muốn nói là có bước tiến dài, có khả năng chuyển tải thông điệp sẵn sàng hội nhập cho nền kinh tế, và là chỗ dựa tốt hơn cho doanh nghiệp và người đầu tư. Thế những nét lớn qua đó là gì? Là tính chi tiết cần thiết để có sự cụ thể và rõ ràng hơn giữa các mối quan hệ trong hành xử; tính chặt chẽ hay cởi mở hơn tùy theo phạm vi điều chỉnh, tính minh bạch và những quy định có ý nghĩa hành lang để bảo vệ nhà đầu tư, các chủ thể tham gia... Những nội dung này được thiết đặt bàng bạc trong luật mới và cần tới đâu ta sẽ tham khảo tới đó. Bài này chỉ nêu lên một số thông tin minh họa nổi bật. Có thể thấy ngay trong phần định nghĩa nhiều khái niệm đã thay đổi. Điển hình như những người sáng lập doanh nghiệp, vốn trước đây do không rõ ràng nên gây tranh cãi [sự cố nổi đình nổi đám tại Công ty Tràng Tiền, Hà Nội, hồi năm 2001 là ví dụ], thì nay đã cụ thể hơn với một ý bổ sung nhỏ là người “ký tên” vào bản điều lệ. Một trường hợp khác, nếu trước ngày 1-7-2006, công chức dễ bị khước từ tham gia góp vốn vào các công ty trách nhiệm hữu hạn [TNHH] do người quản lý doanh nghiệp đã được LDN 1999 định nghĩa là thành viên hội đồng thành viên thì nay vấn đề đã được hóa giải với một thay đổi nhỏ để chỉ là chủ tịch hội đồng thành viên. Ta để ý điều 6 của luật mới nói về “tổ chức chính trị xã hội trong doanh nghiệp” cũng đã nhẹ hơn rất nhiều so với điều 5 luật cũ. Các điều khoản về tên doanh nghiệp tuy được quy định khá dài và chi tiết hơn nhưng lại có vẻ nhẹ nhàng hơn xưa do chính ở sự rõ ràng... Nếu không bị các văn bản dưới luật hoặc thực tế triển khai vô hiệu, thì với quy định: “Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt” sẽ giúp cởi trói cho nhiều trường hợp. Do chỉ cần viết được bằng tiếng Việt [chứ không phải được viết], doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn trong ý đồ đặt tên và xây dựng thương hiệu cho mình. Trong quá khứ, đây có khi lại là những tình huống khó xử nếu lỡ bị trùng, phải quay qua mượn chức năng hoạt động là cách rất luộm thuộm... Nay doanh nghiệp có thể “điệu” một chút để né trùng, lại có tên hay. Ví dụ, Công ty TNHH Nam Mai có thể được viết cách điệu thành Công ty TNHH Namai; hoặc là Bino chứ không cần phải là Bi Nô. Ngoài ra, quy định “Tên viết tắt... được viết tắt từ tên bằng tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước ngoài” cũng cho thêm một cửa ra, nếu đó là doanh nghiệp Tây, hay doanh nghiệp ta mà muốn Tây một chút. Thật ra, do luật mới là luật chung cho cả ta lẫn Tây nên cũng cần chút hội nhập vậy. Một tiểu tiết mới đáng lưu ý khác là quy định “phải thông báo thời gian mở cửa tại trụ sở chính...” đã được luật định hẳn hoi. Đã vậy thì doanh nghiệp hãy coi chừng, tùy tiện là có thể bị kiện như chơi. Bên cạnh quy định về văn phòng đại diện và chi nhánh, chi tiết về “địa điểm kinh doanh” cũng đã được bổ sung vào luật mới. Điều này mới nghe chẳng có gì, nhưng quên “địa điểm kinh doanh” cũng có thể tạo ra lắm khó xử. Chẳng hạn cửa hàng hay phòng trưng bày của doanh nghiệp trước đây chẳng biết phải theo thủ tục nào... Nếu những quy định chung [vừa được lược qua] là cần cho giới tổ chức và quản lý doanh nghiệp, thì việc tìm hiểu cụ thể từng loại hình doanh nghiệp có lẽ sẽ thu hút sự quan tâm rộng hơn. Nhìn chung, luật mới chú trọng đến môi trường minh bạch, đảm bảo sự công bằng, trung thực, tính bảo vệ [người đầu tư] cao hơn. Do có độ phổ biến cao, dưới đây ta sẽ lướt qua một số ý lớn của hai loại công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.Công ty TNHH từ hai thành viên trở lên
Ngoài nhiều chi tiết mới hoặc đã được chỉnh sửa nghiêm hơn [đã nghiêm thì thường là tốt], quyền của thành viên nhỏ được nâng lên thấy rõ. Chỉ cần một tỷ lệ sở hữu vốn 25% [thay vì 35% như luật cũ] là [các] thành viên đã có thể tiến hành thực hiện một số quyền quan trọng [điều 41]. Trường hợp có một thành viên trong công ty sở hữu hơn 75% vốn điều lệ thì quyền vừa nói sẽ trở thành đương nhiên. Theo điều 45 thì thành viên còn có thể dùng vốn góp của mình để cho tặng [khoản 5] hoặc trả nợ [khoản 6], những nội dung này luật cũ không có. Các điều khoản liên quan đến “họp hội đồng thành viên” đã có những thay đổi quan trọng. Nếu trước đây cuộc họp có thể tiến hành khi có số thành viên tham dự đại diện cho ít nhất là 65% vốn điều lệ thì nay con số này đã được nâng lên 75% [cần sự hiện diện nhiều hơn]. Quyết định của hội đồng thành viên được thông qua tại cuộc họp cũng cần tỷ lệ cao hơn, là 65% tổng số vốn điều lệ dự họp chấp thuận, thay vì trước đây chỉ cần 51% [cần sự đồng thuận cao hơn]. Cũng giống như thế, việc thông qua dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản, tỷ lệ này theo luật mới cần đến 75% đại diện chủ sở hữu vốn điều lệ chấp thuận so với LDN 1999 là 65%. Tuy nhiên, phần quy định về các vấn đề “phải được thông qua bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp” [nghĩa là không thể áp dụng hình thức lấy ý kiến bằng văn bản] tại điều 52, khoản 1 [luật cũ không có] lại có thể sẽ bị vô hiệu hay gây tranh cãi, nếu có sự diễn dịch theo chủ quan từ câu dẫn “Trong trường hợp điều lệ công ty không có quy định khác...”. Ý luật là buộc nhưng văn luật lại tùy [?]. LDN 2005 cũng đã dành riêng một điều mới [điều 54] để quy định cụ thể về “thủ tục thông qua quyết định của hội đồng thành viên theo hình thức lấy ý kiến bằng văn bản”. Một điều mới khác cũng đã được đưa vào luật để nói về “tiêu chuẩn và điều kiện chức vụ tổng giám đốc” [điều 57]. Cho dù khoản 1.b của điều này có vẻ hơi cứng một tí với quy định “Là cá nhân sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ”, nhưng ta hãy lưu ý từ “hoặc...” theo sau ngay đó đã hóa giải... Cùng một chiều hướng minh bạch, một số điều luật khác cũng đã quy định chi tiết hơn về mặt hoạt động của loại công ty TNHH từ hai thành viên trở lên. Chẳng hạn, điều 59 về “Hợp đồng, giao dịch phải được hội đồng thành viên chấp nhận” có nội dung dài gấp đôi luật cũ, quy định thêm về tỷ lệ biểu quyết [phải cần trên 75% đồng ý]. Một số nội dung khác có liên quan đến doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng nên được xem kỹ.Công ty TNHH một thành viên
Công ty cổ phần
Nguồn TB Kinh tế Sài Gòn số 29-30/7/2006