Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2023

Bộ Tài chính cho rằng, mức giảm trừ 4,4 triệu đồng/tháng của người lao động vẫn chưa lạc hậu

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong 3 tháng đầu năm 2022, khoản thu từ thuế thu nhập cá nhân [TNCN] tăng hơn 20%, lên tới 50.700 tỷ đồng, hoàn thành gần một nửa kế hoạch cả năm. Đây là khoản thu từ thuế TNCN với người làm công ăn lương, người kinh doanh, cá nhân đầu tư chứng khoán, chuyển nhượng bất động sản...

Dư luận cho rằng mức giảm trừ gia cảnh nên căn cứ theo mức lương tối thiểu vùng để khi tăng mức lương tối thiểu vùng thì mức giảm trừ cũng tự động tăng theo, thay vì cột cứng ở mức cố định như hiện nay khiến người lao động thiệt đơn thiệt kép. Ngoài ra, cần tăng mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc lên bằng 70% mức giảm trừ của người lao động vì mức 4,4 triệu đồng/tháng hiện nay đã quá lạc hậu. 

Về vấn đề này, Bộ Tài chính đã đưa ra lý giải về tính hợp lý của thuế TNCN.

Cụ thể, theo quy định của Luật Thuế TNCN hiện hành, cá nhân được trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trừ đi mức giảm trừ gia cảnh, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, các khoản phụ cấp, trợ cấp được trừ [nếu có]… số còn lại mới là thu nhập làm căn cứ tính thuế TNCN.

Đối với các cá nhân là người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 nếu bị mất việc làm, không có thu nhập hoặc thu nhập chưa đến mức phải nộp thuế thì không phải nộp thuế. Các khoản trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm... cũng không tính vào thu nhập chịu thuế của cá nhân.

Đợt điều chỉnh gần đây nhất là ngày 2/6/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14 về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN. Theo đó, điều chỉnh nâng mức giảm trừ cho người nộp thuế từ 9 triệu đồng/tháng lên 11 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc từ 3,6 triệu đồng/tháng lên 4,4 triệu đồng/tháng và áp dụng ngay từ kỳ tính thuế năm 2020.

Việc điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN đã góp phần giảm bớt nghĩa vụ cho người nộp thuế, số thuế phải nộp đã giảm cho mọi đối tượng đang nộp thuế TNCN.

Theo Bộ Tài chính, với việc điều chỉnh nâng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế từ 9 triệu đồng lên 11 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc từ 3,6 triệu đồng lên 4,4 triệu đồng/tháng thì người có thu nhập từ tiền lương, tiền công 17 triệu đồng/tháng [nếu có 1 người phụ thuộc] hay 22 triệu đồng/tháng [nếu có 2 người phụ thuộc] cũng chưa phải nộp thuế TNCN.

Trường hợp cá nhân có thu nhập lớn hơn các mức nêu trên [17 triệu đồng/tháng, 22 triệu đồng/tháng] thì số thuế phải nộp cũng rất nhỏ so với thu nhập của cá nhân.

Bộ Tài chính có dẫn một số ví dụ như cá nhân có thu nhập dưới 100 triệu đồng/tháng, theo quy định hiện hành, số thuế TNCN phải nộp so với thu nhập cũng chưa đến 20%, cụ thể: Cá nhân có thu nhập 40 triệu đồng/tháng thì số thuế TNCN phải nộp là 6,61%/thu nhập; thu nhập 60 triệu đồng/tháng thì số thuế TNCN phải nộp là 11,86%/thu nhập; thu nhập 80 triệu đồng/tháng thì số thuế TNCN phải nộp là 15,74%/thu nhập; thu nhập 100 triệu đồng/tháng thì số thuế TNCN phải nộp là 18,66%/thu nhập. Đối với cá nhân có thu nhập ở mức cao trên 100 triệu đồng thì số thuế TNCN phải nộp mới ở tỉ lệ cao hơn 20%/thu nhập, cụ thể: Cá nhân có thu nhập 110 triệu đồng/tháng thì số thuế TNCN phải nộp là 20,15%/thu nhập; thu nhập 150 triệu đồng/tháng thì số thuế TNCN phải nộp là 24,11%/thu nhập...

"Việc tính toán ở trên với giả định cá nhân có 1 người phụ thuộc, trường hợp cá nhân có nhiều hơn 1 người phụ thuộc thì số thuế phải nộp cũng thấp hơn tương ứng", Bộ Tài chính đưa ra tính toán.

Anh Minh


Cá nhân cho thuê nhà phát sinh thuế TNCN chưa phải nộp thuế đến 31/12/2021

Cụ thể, hoạt động cho thuê nhà là hoạt động kinh doanh theo hợp đồng ký kết, thời hạn cho thuê thường là từ 6 tháng đến một năm, nhiều năm. Theo quy định của pháp luật thuế thì hoạt động này sẽ khai thuế theo từng lần phát sinh và có những đặc thù riêng nên cần phải có hướng dẫn cụ thể về khai thuế, tính thuế, nộp thuế để thực hiện nghĩa vụ thuế kịp thời, chống thất thu NSNN.

Đáng chú ý, Thông tư 40 chỉ quy định về mặt thủ tục hành chính thuế; các nội dung về chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh của cá nhân vẫn đảm bảo theo đúng quy định của các Luật thuế có liên quan. Theo đó, cá nhân kinh doanh, bao gồm cả cá nhân cho thuê tài sản có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống thuộc diện không phải nộp thuế.

Ngoài ra, để giảm bớt khó khăn cho người nộp thuế do tác động của đại dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2021/NĐ-CP. Như vậy, cá nhân cho thuê tài sản phát sinh thuế TNCN phải nộp trong năm 2021 sẽ chưa phải nộp thuế cho đến ngày 31/12/2021.

Trường hợp trong năm cá nhân đã khai, nộp thuế và đến cuối năm tự xác định doanh thu trong năm từ 100 triệu đồng trở xuống thì cá nhân được đề nghị xử lý hoàn trả hoặc bù trừ vào số phải nộp phát sinh của kỳ sau theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Cơ quan Thuế đã và đang đẩy mạnh công tác triển khai quản lý thuế điện tử đối với cá nhân để đáp ứng việc khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế điện tử.

Cơ quan thuế các cấp tăng cường hỗ trợ các cá nhân có nhà cho thuê

Trường hợp, nếu phát sinh những vướng mắc trong quá trình triển khai Thông tư 40 tại các cơ quan thuế địa phương, Tổng cục Thuế sẽ có hướng dẫn kịp thời, tạo điều kiện để các cơ quan thuế và người nộp thuế thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về lĩnh vực thuế

Đối với các vướng mắc của người nộp thuế, ngành Thuế tiếp tục tăng cường hỗ trợ, giải đáp kịp thời trong quá trình triển khai thực hiện chính sách thuế bằng nhiều hình thức, trong đó đẩy mạnh hỗ trợ trực tuyến qua 479 kênh thông tin hỗ trợ người nộp thuế./.        

Lan Trung

Theo Tổng cục Thuế

Điều 9 Thông tư 40/2021/TT-BTC quy định:

Cá nhân cho thuê tài sản không phát sinh doanh thu đủ 12 tháng trong năm dương lịch [bao gồm cả trường hợp có nhiều hợp đồng cho thuê] thì mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân cho thuê tài sản không phải nộp thuế GTGT, không phải nộp thuế TNCN là doanh thu tính thuế TNCN của một năm dương lịch [12 tháng]; doanh thu tính thuế thực tế để xác định số thuế phải nộp trong năm là doanh thu tương ứng với số tháng thực tế phát sinh cho thuê tài sản.

Ví dụ : Ông B phát sinh hợp đồng cho thuê nhà với thỏa thuận tiền cho thuê là 10 triệu đồng/tháng trong thời gian từ tháng 10 năm 2022 đến hết tháng 9 năm 2023. Như vậy, doanh thu thực tế năm 2022 là 30 triệu đồng, nhưng tổng doanh thu tính theo 12 tháng của năm 2022 là 120 triệu đồng; doanh thu thực tế năm 2023 là 90 triệu đồng, nhưng tổng doanh thu tính theo 12 tháng của năm 2023 là 120 triệu đồng. Do đó, Ông B thuộc trường hợp phải nộp thuế GTGT, phải nộp thuế TNCN tương ứng với doanh thu thực tế phát sinh của năm 2022 và năm 2023 theo hợp đồng nêu trên.

>> Điều này có nghĩa việc xác định với cá nhân cho thuê tài sản không tròn 12 tháng/năm thì căn cứ để xác định cá nhân có phải đóng thuế hay không dựa vào doanh thu danh nghĩa chứ không phải doanh thu thực tế phát sinh/năm.

Chủ Đề