Theo sử cũ và truyền thuyết, nước Văn Lang với một tổ chức chính trị-xã hội phát triển và một nền văn hoá tương đối cao, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài hàng ngàn năm trước đó của nền văn minh sông Hồng. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở trung du và miền đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hàng chục bộ lạc Âu Việt sinh sống chủ yếu tại vùng Việt Bắc. ở nhiều nơi, người Âu Việt và người Lạc Việt sống xen kẽ với nhau cùng với các cư dân khác. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh hơn cả. Lãnh thổ của bộ lạc nay trải rộng từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo. Thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử, là người đứng ra thông nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang. ông xưng vua, sử gọi là Hùng Vương, và con cháu ông nhiều đời sau cũng mang danh hiệu đó. Theo Ngọc phả Hùng Vương, 18 đời vua Hùng là: 1. Kinh Dương Vương, vị vua viễn tổ. 2. Lạc Long Quân, vị vua cao tổ. 3. Hùng Quốc Vương, huý là Lân Lang, vị vua mở nước. 4. Hùng Diệp Vương Bảo Lang. 5. Hùng Huy Vương Viên Lang. 6. Hùng Huy Vương [cùng hiệu với đời thứ 5] huý Pháp Hải Lang. 7. Hùng Chiêu Vương Lang Tiên Lang. 8. Hùng Vi Vương Thừa Vân Lang. 9. Hùng Duy Vương Quốc Lang. 10. Hùng Uy Vương Vương Hùng Hải Lang. 11. Hùng Chính Vương Hùng Đức Lang. 12. Hùng Việt Vương Đức Hiền Lang. 13. Hùng Việt Vương Tuấn Lang. 14. Hùng Anh Vương Châu Nhân Lang. 15. Hùng Chiêu Vương Cảnh Chân Lang. 16. Hùng Tạo Vương Đức Quân Lang. 17. Hùng Nghị Vương Bảo Quang Lang. 18. Hùng Duệ Vương Huệ Lang. Hùng Vương là thủ lĩnh của thời kỳ Việt Nam bắt đầu dựng nước. Miền đất đầu tiên nơi tổ tiên ta định cư là miền Bắc Việt Nam. Đất không rộng lắm, người chưa đông lắm, nhưng cũng đã có đủ điều kiện để dựng nước, có sức sinh tồn và phát triển. Những nhóm dân cư quan trọng nhất trên lãnh thổ đó là người Việt cổ. Ban đầu họ sống thành từng công xã, ràng buộc với nhau bởi quan hệ máu mủ, quan hệ làng xóm. Họ đoàn kết, tương thân tương ái trong công việc làm ăn và giữ làng, giữ nước.
Tổ tiên ta đã định cư ở một vùng non nước vừa giàu đẹp nhưng cũng vừa khắc nghiệt, cho nên sớm biết tận dụng cái tốt, cái có ích và cố gắng khắc phục dần dần những cái bất lợi của thiên nhiên. Qua công việc làm ăn sinh sống, hun đúc nên những đức tính quý báu, bền bỉ, kiên nhẫn, sáng tạo, thông minh, giản dị. Trên đất nước Văn Lang đã nảy nở nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Con người Việt Nam thời kỳ Hùng Vương vừa mới cố gắng vươn mình lên khỏi cuộc sống tự nhiên đầy khó khăn, gian khổ giữa rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, dông bão, lụt lội... thì đã phải đương đầu với những kẻ thù xâm lược. Chuyện Thánh Gióng là thiên thần thoại lịch sử, ngợi ca tinh thần chiến đấu bất khuất vì độc lập, tự do, ngợi ca cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Chế độ xã hội của nước Văn Lang đã bắt đầu có sự phân hoá giai cấp. Các bộ lạc Lạc Việt tập hợp thành liên minh bộ lạc, đứng đầu là Hùng Vương. Trải qua những giai đoạn quá độ, liên minh dần dần mang bóng dáng đầu tiên của một hình thái Nhà nước. Đứng đầu Nhà nước là vua và ngôi vua được cha truyền con nối. Dưới vua là các tầng lớp quý tộc gọi là những “lạc hầu”, “lạc tướng”. Lớp người cơ bản, đông đảo nhất trong xã hội là “lạc dân”. Họ là dân của các công xã, cày cấy ruộng đất công [ruộng lạc] và phải nộp một phần sản phẩm cho vua và các lạc hầu, lạc tướng. Ngoài ra, một số lượng nhất định những người tôi tớ [nô tì] chủ yếu phục vụ trong cung vua và các nhà quyền quý. Song chế độ của riêng và xã hội giai cấp đầu tiên không xoá mờ tinh thần đoàn kết, tương trợ giữa các công xã, cũng như vai trò của người phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội.
Những truyền thống tốt đẹp đó được duy trì rất lâu trong xã hội Việt Nam.
Như vậy, thời kỳ Văn Lang, thời kỳ Hùng Vương, là một giai đoạn rất trọng yếu của lịch sử dân tộc. Chính trong thời kỳ này đã xây dựng nên nền tảng dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hoá Việt Nam và truyền thống tinh thần Việt Nam.
Nhân dân ta lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày giỗ Tổ và cùng nhau hành hương về thăm Đền Hùng tưởng nhớ đến cội nguồn tiên tổ.
Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba.
Qua mấy ngàn năm lịch sử, từ các vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giữ gìn nguyên vẹn cõi bờ đất nước, đúng như lời Bác Hồ đã căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Các thế hệ người Việt nối tiếp nhau đã làm cho non sông Việt Nam ngày càng tươi đẹp, đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, có vị thế trên thế giới. Ngày 10 tháng 3 âm lịch đã trở thành ngày Quốc giỗ thiêng liêng của cả dân tộc, hướng về đất tổ Hùng Vương, hướng về cội nguồn, nơi hội tụ, phát tích tinh hoa ngàn năm của dân tộc, tăng thêm tình sâu nghĩa nặng của người dân đất Việt, làm tròn trách nhiệm với lịch sử, với Tổ quốc Việt Nam.
Quốc Báu
|