Nhận xét bộ máy nhà nước thời Lý Trần Hồ

* Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Lý, Trần

* Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tông

* Đánh giá cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông:

- Đây là cuộc cải cách hành chính toàn diện được tiến hành từ trung ương đến địa phương.

- Qua cuộc cải cách nhà nước quân chủ chuyên chế đạt đến cao độ.

Cơ quan pháp luật

Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện. Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử[2].

Khi có dịp lễ hội, cầu đảo hay thay đổi thời tiết hoặc vua mới lên ngôi… thường có lệnh chẩn tế hoặc tha tù.

Năm 1077, Lý Nhân Tông tổ chức thi lại viên để tuyển chọn quan lại với 3 môn: thư [viết chữ], toán và hình luật[2].

Thời Lý Anh Tông, triều đình đặt ra hòm bằng đồng để tiếp nhận thư kêu oan của dân.

Hình thư

Năm 1042, Lý Thái Tông sai trung thư san định luật lệ, chấn chỉnh cho thích ứng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản thành sách Hình thư của một triều đại.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận việc này: từ khi sách làm xong, Lý Thái Tông xuống chiếu ban hành, nhân dân lấy làm tiện.

Theo Lê Quý Đôn trong Nghệ văn chí của sách Đại Việt thông sử, Hình thư gồm có 3 quyển, đã bị thất truyền[1].

Ngay sau khi ban hành luật, nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội: những người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới 15 tuổi, người có nhược tật, những người họ nhà vua và người có công nếu phạm tội có thể chuộc tội bằng tiền, trừ khi người đó phạm phải những tội trong thập ác[1]:

Mưu phản: làm nguy xã tắcMưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyếtMưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặcÁc nghịch: đánh giết ông bà cha mẹBất đạo: giết người vô tộiĐại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vuaBất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹBất mục: đánh giết những người thân thuộc gầnBất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướngNội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha

Năm 1071, triều đình bổ sung thêm quy định về chuộc tội: tùy theo tội nặng nhẹ thì nộp tiền với mức độ nhiều ít khác nhau[1].

Người phạm tội ăn trộm sẽ bị chặt hết ngón chân, ngón tay. Năm 1043, Lý Thái Tông đặt thêm quy định: ai trộm lúa của dân sẽ bị đánh 100 trượng; nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu. Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trường và thích 30 chữ.

Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu lực vẫn còn hạn chế[2].

Trong lĩnh vực kinh tế

Pháp luật nhà Lý phản ánh và chấp nhận sự xuất hiện của chế độ tư hữu ruộng đất. Lý Anh Tông quy định ra phép chuộc ruộng và nhận ruộng, theo đó ruộng cầm đợi trong 20 năm được chuộc; tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm thì được quyền kiện. Ruộng đã bán có khế ước thì không được chuộc, ai trái lệnh sẽ bị đánh 80 trượng. Nếu khi tranh chấp ruộng ao mà dùng binh khí đánh người gây tử thương thì cũng bị xử đánh 80 trượng, bị tội đồ và phải trả ruộng cho người bị tử thương[3].

Pháp luật nhà Lý bảo vệ nguồn thu nhập của triều đình, đảm bảo dân đinh là sức lao động chủ yếu mà triều đình sử dụng. Năm 1146, Lý Anh Tông ra lệnh cho bách quan, quản giáp, chủ đô khi tuyển lính để bổ sung cho cấm quân thì phải chọn những hộ lớn là những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc. Ai làm trái sẽ bị trị tội.

Thể lệ thu thuế cũng được định rõ: các quan lại thu thuế của dân, ngoài khoản phải nộp cho triều đình, được thu riêng một phần gọi là "hoành đầu" làm tiền giấy bút. Những người thu quá số sẽ bị ghép vào tội ăn trộm. Nhân dân có ai tố cáo việc đó được miễn dịch 3 năm. Nếu quản giáp, chủ đô và người trưng thu thuế thông đồng với nhau thu quá quy định, tuy lâu ngày nhưng có người phát giác thì tất cả cùng bị tội như nhau[3].

Khố ti thu thuế lụa, nếu ăn lụa của nhân dân thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng, mỗi tấm lụa đến trên 10 tấm phạt thêm phối dịch 10 năm.

Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp, việc giết trâu bò được quy định chặt chẽ. Người giết trâu bò bừa bãi không theo quy định bị xử tội nặng.

Với đẳng cấp xã hội

Pháp luật nhà Lý phản ánh rõ sự phân biệt đẳng cấp xã hội. Đẳng cấp của quý tộc quan liêu được hưởng đặc quyền, từ trang phục, nhà cửa cũng có sự phân biệt giữa vua quan và dân[3].

Thợ thuyền làm công cho triều đình không được chế các đồ dùng kiểu nhà quan mang ra bán cho nhà dân. Con cái nhà dân không được bắt chước theo cách trang sức trong cung.

Pháp luật nhà Lý coi nô tỳ là những người thấp kém nhất. Nô tỳ không được lấy con gái nhà dân. Tư nô không được xem mình như cấm quân xăm mình rồng, người nào phạm tội sẽ bị sung công.

Nô tỳ nhà vương hầu và các quan lại không được cậy thế đánh đập quân dân, nếu phạm tội thì chủ nô phải tội đồ, còn nô bộc bị sung công[3].

I. BƯỚC ĐẦU TIÊN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC ĐỘC LẬP THẾ KỶ X.

– Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, thành lập chính quyền mới, đóng đô ở Cổ Loa [Đông Anh -Hà Nội].Mở đầu xây dựng nhà nước độc lập tự chủ.

– Năm 968 sau khi dẹp loạn 12 sứ quân Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi,[ Đinh Tiên Hoàng ] đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Chuyển kinh đô về Hoa Lư [Ninh Bình].

– Năm 981 Lê Hoàn lên ngôi vua-Lê Đại Hành, đổi niên hiệu là Thiên Phúc [ gọi là Tiền Lê ]

– Tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh, Tiền Lê là nhà nước quân chủ sơ khai , chính quyền trung ương có 3 ban: Ban văn; Ban võ; Tăng ban.

-Chia nước thành 10 đạo.

-Tổ chức quân đội theo chế độ ngụ binh ngư nông.

Trong thế kỷ X nhà nước độc lập tự chủ treo thiết chế quân chủ chuyên chế đã được. Còn sơ khai, song đã là nhà nước độc lập tự chủ của nhân dân ta.

Tượng đài vua Lý Công Uẩn – Hà Nội

II. PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN CHỈNH NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN Ở ĐẦU THẾ KỶ XI  đến XV.

1. Tổ chức bộ máy nhà nước

-Năm 1009 ,Lý Công Uẩn lên làm vua,nhà Lý thành lập-Lý Thái Tổ.

– Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long [thủ đô Hà Nội nay].

– Năm 1045 Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt.

-Mở ra một thời kỳ phát triển mới của dân tộc.

* Bộ máy nhà nước Lý , Trần ,Hồ:

– Đứng đầu nhà nước là vua , vua quyết định mọi việc quan trọng , giúp vua có tể tướng và các đại thần ,bên dưới là sảnh, viện , đài .

-Bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế được cải tiến hoàn chỉnh hơn.

– Cả nước chia thành  nhiều lộ , trấn  do các hoàng tử [ thời Lý ]hay an phủ Sứ [thời Trần , Hồ ], đơn  vị hành chánh cơ sở là xã .

 

Lược đồ  lãnh thổ Đại Việt thế kỷ XV

Sơ đồ bộ máy nhà nước triều Lý 

 

Sơ đồ bộ máy nhà nước triều Trần

* Bộ máy nhà nước thời Lê sơ: 

– Năm 1428 sau khi chiến thắng nhà Minh ,Lê Lợi lên ngôi hoàng đế khôi phục lại nước Đại Việt,lập nhà Lê [Lê sơ].

– Những năm 60 của thế kỷ XV, Lê Thánh Tông tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn.

-Vua  Lê Thánh Tông bỏ chức tướng quốc ,đại hành khiển ; trực tiếp làm tổng chỉ huy quân đội , cấm các quan lập quân đội riêng .

-Vua nắm mọi quyền hành , giúp vua có 6 bộ [là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công  ], đứng đầu mỗi bộ có quan Thượng thư , bên cạnh bộ có Hàn Lâm Viện [công văn]  ,Quốc sử viện [ biên  soạn lịch sử ],Ngự sử đài [ kiểm tra ].

-Vua Lê Thánh Tông chia cả nước ra làm 13 đạo thừa tuyên  do 3 ty cai quản là Đô ty [ quân sự ], Hiến ty [xử án ], Thừa ty [ hành chánh ]; dưới có  phủ , huyện, châu [ miền núi ], xã .

-Khi giáo dục phát triển, những người đỗ đạt  làm quan , giáo dục thi cử trở thành nguồn đào tạo quan lại .

Dưới thời Lê bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế đạt mức độ cao, hoàn chỉnh.

Nhận xét về cuộc cải cách của Lê Thánh Tông :

Đây là cuộc cải cách hành chính lớn toàn diện được tiến hành từ trung ương đến địa phương. Cải cách để tăng cường quyền lực của nhà vua. Quyền lực tập trung trong tay vua, chứng tỏ bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế nhà Lê đạt đến mức độ cao, hoàn thiện.

    Sơ đồ tổ chức chính quyền thời Lê sơ [1428-1527

 

 Lược đồ hành chính nước Đại Việt thời Lê sơ 1428-1527

2. Luật pháp và quân đội

* Luật pháp:

– 1042 Vua Lý Thái Tông ban hành Hình thư [bộ luật đầu tiên].

– Thời Trần: Hình luật.

– Thời Lê biên soạn một bộ luật đầy đủ gọi là Quốc triều hình luật[ luật Hồng Đức ].

-Luật pháp nhằm bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, an ninh đất nước và một số quyền lợi chân chính của nhân dân.

* Quân đội: được tổ chức quy củ:

-Cấm binh [bảo vệ kinh thành] và quân chính quy bảo vệ đất nước

-Ngoại binh [lộ binh]: tuyển theo chế độ ngụ binh ư nông .

3. Hoạt động đối nội và đối ngoại

* Đối nội:

– Quan tâm đến đời sống nhân dân.

– Chú ý đoàn kết đến các dân tộc ít người.

* Đối ngoại:

-Với nước lớn phương Bắc:

+ Quan hệ hòa hiếu.

+ Đồng thời sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

– Với: Chămpa, Lào, Chân Lạp có lúc thân thiện, có lúc xảy ra chiến tranh.

Tham khảo :

Trong lịch sử, cha ông ta cũng đã có nhiều phương cách để giải quyết khiếu nại, tố cáo, oan sai cho nhân dân. Vua Lý Thái Tổ, là vị vua đầu tiên của nhà Lý, đã cho xây cung Long Đức ở ngoài Hoàng thành Thăng Long, cho thái tử Lý Phật Mã ở, để thái tử gần dân, “ý muốn cho thái tử hiểu biết mọi việc của dân”.

Thái tử Lý Phật Mã lên làm vua, là vị vua hiền Lý Thái Tông, rất chăm lo việc giải quyết khiếu kiện, oan trái cho dân. Vào năm 1040, vua Lý Thái Tông đã giao việc xét xử kiện tụng của dân cho đích thân thái tử Khai Hoàng Nhật Tôn, dùng điện Quảng Vũ của thái tử làm nơi cho thái tử xử kiện cho dân.

Năm 1042, vua Lý Thái Tông cũng cho xây dựng bộ luật Hình Thư đầu tiên của nước ta, quy định phân minh các việc xử phạt, tránh việc làm tùy tiện, nhũng lạm, gây ra oan trái cho dân của các quan lại. Luật Hình Thư quy định người tố cáo đúng tệ nhũng lạm của các quan lại, được “tha phu dịch cho cả nhà trong 3 năm. Người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật thu được”. Tiếc rằng bộ luật Hình Thư của nhà Lý đến nay đã thất truyền, chỉ còn lại bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê sau này.

Đến năm 1052, vua Lý Thái Tông cho đúc chuông lớn đặt ở cung Long Trì, trong khu vực Hoàng thành Thăng Long ngày nay, để “cho dân ai có oan ức không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên”. Chính vua Lý Thái Tông cũng là vị vua đã cho xây chùa Một Cột, còn gọi là chùa Diên Hựu vào năm 1049.

Đến năm 1158, vua Lý Thần Tông cũng “cho đặt cái hòm đồng ở giữa sân để ai có việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy”.

Cải Cách Hành Chính Của Vua Lê Thánh Tông:

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến hành cuộc cải cách hành chính trên phạm vi cả nước. Ông bỏ hết các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành, chia lại cả nước thành 12 thừa tuyên, thống nhất các đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu, xã. Cuộc cải cách đã tạo được một hệ thống hành chính tinh giản, có hiệu lực, là mô hình tiên tiến của chế độ quân chủ, phong kiến đương thời.

Có thể nói Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế đầy tự tin, ý chí kiên định và hành động quyết đoán. Ông trực tiếp điều hành ở mức tối cao nhiều công việc của triều đình.

Năm 1471, khi đã ổn định các vùng biên giới phía bắc và phía nam, cuộc cải cách hành chính mới thật sự bắt đầu. Bản “Hiệu định quan chế” tức là văn bản chính thức về cuộc cải cách hành chính được ban hành. Lê Thánh Tông nêu những lý do cấp thiết dẫn đến cuộc cải cách: “Đồ bản, đất đai ngày nay so với trước đã khác nhau xa, ta cần phải tự mình giữ quyền chế tác, hết đạo biến thông. ở trong kinh, quân vệ nhiều thì đặt năm phủ để giữ, việc công bề bộn thì đặt sáu bộ bàn nhau cùng làm, sáu khoa để xét bác trăm quan, sáu tự để thừa hành mọi việc”. Lê Thánh Tông cũng chỉ rõ những lợi ích mà cuộc cải cách đem lại: “Ăn hại đã không có, trách nhiệm lại rõ ràng. Như thế là cốt để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, uy quyền không bị lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay, khiến trăm họ có thói quen theo đạo, giữ phép, không có lầm lỗi làm trái nghĩa, phàm hình, để theo trọn cái chí của Thái Tổ, Thần Tông ta mà giữ được an trị lâu dài”.

Và cuộc cải cách hành chính đã diễn ra hết sức có hiệu quả.

Trước hết, Lê Thánh Tông bỏ hết các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành như Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, khu mật viện, các tướng quốc, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ… Nếu khi cần phải có người thay vua chỉ đạo công việc, thì phải là các đại thần như thái sư, thái phó, thái bảo, thái úy, thiếu sư, thiếu bảo…

Tiếp đến, Lê Thánh Tông tách sáu bộ Lại, Lễ, Binh, Hình, Công, Hộ ra khỏi Thượng thư sảnh, lập thành sáu cơ quan riêng, phụ trách các hoạt động khác nhau của nhà nước. Đứng đầu mỗi bộ là chức thượng thư, hàm nhị phẩm, chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua. Sự cải cách dễ nhận ra nhất là ở bộ Lại, một bộ chịu trách nhiệm tuyển bổ, thăng giáng và bãi miễn các chức quan từ tam phẩm trở xuống. Không như các triều đại trước, bộ Lại không được toàn quyền hành động. Theo nguyên tắc “lớn nhỏ cùng ràng buộc lẫn nhau”, nếu “bộ Lại thăng bổ không xứng thì Khoa có quyền bắt bẻ, hoặc tố giác nếu bộ Lại làm sai trái”.

Trong cuộc cải cách này, Lê Thánh Tông rất đề cao công tác thanh tra, giám sát quan lại. Ngoài Ngự sử đài có từ thời Trần, ông cho đặt sáu khoa chuyên theo dõi, giám sát quan lại ở sáu bộ. “Bộ Lễ nghi thức không hợp thì Lễ khoa được phép đàn hặc. Bộ Hộ có Hộ khoa giúp đỡ. Hình khoa có quyền xét lại sự thẩm đoán của bộ Hình…”.

Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến kiến thức thật sự của những người lãnh đạo. Ông bỏ chế độ bổ dụng vương hầu, quý tộc vào các trọng trách của triều đình mà lấy thước đo học vấn làm tiêu chuẩn dùng người, không phân biệt thành phần xuất thân. Các thân vương, công hầu, tuy vẫn được ban bổng lộc nhưng nếu không đỗ đạt thì không được đứng trong bộ máy nhà nước.

Chỉ riêng với cải cách này, Lê Thánh Tông đã có một tầm nhìn hơn hẳn các triều đại trước.

Bên cạnh bộ máy nhà nước ở trung ương, hệ thống hành chính địa phương cũng có ý nghĩa rất quan trọng với địa vị thống trị của một triều đại. Bởi vì phần đông dân cư tập hợp ở những nơi này. Nếu có một chế độ phù hợp với họ, triều đại sẽ bền vững vì có sự bảo vệ của chính những người dân ấy.

Năm 1466, cùng với việc thành lập các bộ, các tự, Lê Thánh Tông sáng suốt chia lại cả nước thành 12 đạo thừa tuyên và một phủ Trung đô [khu vực kinh thành]. Năm 1471, ông cho lập thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam. ở cách phân chia mới, mỗi đạo thừa tuyên đều có ba ty ngang quyền nhau cai quản: Đô tổng binh sứ ty [Đô ty], Thừa tuyên sứ ty [Thừa ty] và Hiến sát sứ ty [Hiến ty]. Đô ty và Thừa ty trông coi về quân sự và dân sự. Hiến ty chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát các quan chức địa phương; luôn đi sâu, tìm hiểu đời sống và nguyện vọng của nhân dân. Ngoài ra, để giúp Hiến ty làm nhiệm vụ, ở Ngự sử đài, Lê Thánh Tông đặt thêm 13 cai đạo giám sát ngự sử chuyên giám sát, giúp đỡ các Hiến ty. Dưới đạo Thừa tuyên, Lê Thánh Tông cho thống nhất các đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu, xã.

Như vậy, khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực được bảo đảm từ trên xuống dưới.

Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc…

[Nguồn ://diepdoan.violet.vn/entry/show/entry_id/1776867]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề