Những tổ chức có vai trò tạo cho thị trường tài chính quốc tế mở rộng trắc nghiệm

Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực: "Chúng ta vừa kiến tạo vẫn phải kiểm soát rủi ro".

Theo chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực: Thị trường vốn có 6 vai trò chủ yếu.

Thứ nhất, đó là kênh huy động, phân bổ vốn trung, dài hạn cho Chính phủ, doanh nghiệp.

Thứ hai, giúp phát triển lành mạnh, cân đối hệ thống tài chính, giảm áp lực cho vay trung dài hạn đối với các ngân hàng.

Thứ ba, đa dạng hóa kênh đầu tư cho Chính phủ, người dân và doanh nghiệp, đa dạng hóa nền tảng nhà đầu tư và sản phẩm tài chính trong nước và quốc tế, qua đó giúp phát triển hệ thống tài chính.

Thứ tư, huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tổ chức và doanh nghiệp cả trong và ngoài nước phục vụ cân đối ngân sách, sản xuất kinh doanh, giúp giảm hiện tượng vàng hóa, đô la hóa, tệ nạn tín dụng đen trong nền kinh tế.

Thứ năm, cung cấp công cụ để phân tán rủi ro, nhưng cũng có thể khuếch đại rủi ro nếu không kiểm soát tốt.

Thứ 6, giúp tăng trưởng ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 3 yếu tố: Vốn, lao động, TFP, thì trong 11 năm qua [từ 2011 đến nay], vốn chiếm khoảng 50% tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng nó vô cùng quan trọng.

Liên thông 4 thị trường

Về thực trạng, đặc điểm của hệ thống tài chính của Việt Nam, ông Cấn Văn Lực cho rằng, có các đặc điểm rất quan trọng để nhận diện các rủi ro cũng như cơ hội.

Một là, tính liên thông của 4 thị trường tại Việt Nam bao gồm: Thị trường ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm và thị trường bất động sản. Bốn thị trường liên thông với nhau. Hệ thống ngân hàng cho vay bất động sản, nhận thế chấp bằng bất động sản, doanh nghiệp bất động sản chiếm khoảng 17% vốn hóa thị trường chứng khoán của Việt Nam.

Đặc điểm thứ hai là thị trường vẫn còn khá non trẻ. Thị trường cổ phiếu 22 năm, thị trường trái phiếu 16 năm. Chính vì vậy nó phát triển tương đối nhanh về quy mô tốc độ. Trong 11 năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng tài chính bao gồm ngân hàng chứng khoán bảo hiểm là 14%/ năm, gấp 2,5 lần so với mức phát triển kinh tế hàng năm. Trong đó, thị trường ngân hàng 11%/năm, thị trường cổ phiếu 27%/năm, thị trường trái phiếu 12%/năm, thị trường bảo hiểm 17%/năm.

Đặc điểm thứ ba là quy mô hệ thống tài chính rất lớn mạnh. Theo tính toán, tổng tài sản ngân hàng là một, vốn hóa thị trường cổ phiếu là hai, dư nợ thị trường trái phiếu là ba nếu tính theo quy định quốc tế thì tương đương 300% GDP. Trong đó tổng tài sản hệ thống ngân hàng hiện nay chiếm 57,2% quy mô hệ thống tài chính. Vốn hóa thị trường cổ phiếu chiếm 28,4%, thị trường trái phiếu 13,6%, thị trường bảo hiểm 1%.

Đặc điểm thứ tư là về khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm tương đương 33 -34% GDP thì vốn tín dụng chiếm 47%, huy động vốn từ trái phiếu 21,5%, thị trường cổ phiếu thông qua ITO, phát hành trái phiếu 3,2%. Như vậy cả thị trường vốn hiện nay chiếm 25% tổng nguồn vốn tung ra nền kinh tế. Giải ngân đầu tư công là 13,5%, FDI là 15%.

Đặc điểm thứ 5 là sáng tạo tài chính, dịch vụ tài chính số, ngân hàng số. Và thứ sáu là đặc điểm về tài chính xanh, ngân hàng xanh, tiền kỹ thuật số, thanh toán không tiền mặt là xu hướng tất yếu. Đấy là 6 đặc điểm cũng là 6 cái thực trạng của chúng ta.

10 giải pháp để thị trường phát triển lành mạnh, bền vững

Trên cơ sở tính toán về tiềm năng phát triển, ông Cấn Văn Lực đã đề xuất 10 giải pháp để thị trường vốn phát triển lành mạnh, bền vững.

Thứ nhất về cách tiếp cận cần coi những vụ việc xảy ra trong thời gian vừa qua [các sai phạm trên thị trường chứng khoán, trái phiếu của một số doanh nghiệp] như là cơ hội để lành mạnh thị trường. Các nước khác cũng xảy ra tình trạng tương tự như vậy khi thị trường còn non trẻ. Và đặc biệt, trong bối cảnh thị trường phát triển nhanh thì khung pháp lý tiếp tục hoàn thiện.

"Chúng ta vừa kiến tạo vẫn phải kiểm soát rủi ro. Đây là quan điểm rất là quan trọng", ông Cấn Văn Lực nhấn mạnh.

Thứ hai, cần sớm giải quyết những vụ việc trên thị trường vừa qua, vừa khắc phục hậu quả cho nhà đầu tư, qua đó củng cố niềm tin vào thị trường.

Thứ ba, sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, quy chế quản lý thị trường, cơ chế bảo vệ nhà đầu tư theo thông lệ, có chế tài mạnh hơn; song vẫn tạo điều kiện sáng tạo tài chính, tài chính xanh phát triển.

Thứ tư, nâng cấp hoàn thiện hạ tầng tài chính của chúng ta, lưu ý thị trường thứ cấp tập trung, các công ty định hạng tín nhiệm [nên có nhiều hơn 2 công ty xếp hạng tín nhiệm]; đặc biệt chú trọng cơ sở thông tin dữ liệu, hệ thống giao dịc chứng khoán tiên tiến…

Thứ năm, phát triển đa dạng hóa sản phẩm, nền tảng nhà đầu tư chuyên nghiệp, trong đó chú trọng các công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư, nhà đầu tư cá nhân đủ năng lực, nâng cao vai trò trách nhiệm của các trung gian tài chính.

Thứ sáu, cải thiện chất lượng nhà đầu tư cá nhân, giảm thiểu hiện tượng 4D [điều chỉnh, đầu cơ, đòn bẩy tài chính] bằng cách tăng cường giáo dịch tài chính, chuẩn hóa tiêu chí chuyên nghiệp. Kiến nghị Chính phủ sớm có chương trình quốc gia về giáo dục tài chính. Cái này các nước làm rất bài bản, rất tốt.

Thứ bẩy, phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ như là 1 chuẩn mực định giá.

Thứ tám, tăng cường kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, chứ không phải chỉ là hành chính. "Đây là quan điểm rất quan trọng, phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là: Chúng ta không hình sự hóa nhưng phải nghiêm, đúng chỗ và đúng lúc".

Thứ chín, chú trọng truyền thông bài bản, kịp thời, liên tục và phù hợp.

Thứ mười, kiên định, ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, các cân đối lớn; kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính chính là củng cố niềm tin, thu hút đầu tư và tạo điều kiện thị trường vốn phát triển.


Những cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế của Việt Nam

Ngày phát hành: 19/06/2019 Lượt xem 190231


1. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc xác định cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối phát triển kinh tế do Đảng đề ra được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước để toàn dân thực hiện. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định đối với thành tựu phát triển kinh tế đất nước trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua. Khi xây dựng đường lối, để đường lối được đề ra đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, tình hình đất nước, trong đó rất quan trọng là phân tích, đánh giá, xác định đúng cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế đất nước trong những năm tới. Đánh giá, xác định đúng cơ hội và thách thức là căn cứ, cơ sở khoa học để đề ra được đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đúng đắn, là cơ sở để bố trí, sắp xếp tổ chức, cán bộ phù hợp, để xây dựng kế hoạch, những trọng tâm cần tập trung thực hiện.

Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam [tháng 1-2016] đề ra đường lối phát triển đất nước nói chung, phát triển kinh tế nói riêng trong nhiệm kỳ 5 năm 2016-2020 đã có những đánh giá: “Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược quan trọng; đồng thời cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn… Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao; thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức… Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công việc đổi mới…”[1].

Cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc cả vào tình hình bên trong và bên ngoài đất nước, trong đó đặc biệt quan trọng là nội lực, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, trình độ phát triển kinh tế, uy tín của đất nước. Cùng trong một bối cảnh thế giới và khu vực, cơ hội chỉ mở ra đối với những nước đã có sự chuẩn bị, có đủ thế và lực để nắm bắt cơ hội. Nội lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước cũng là cơ sở để đất nước vượt qua thử thách, thậm chí có thể biến thách thức thành cơ hội khi thách thức đó tạo ra động lực, áp lực buộc đất nước phải nỗ lực phấn đấu, vượt qua. Nhật Bản, Israel là những tấm gương tiêu biểu của những quốc gia đã vượt qua thách thức, biến thách thức thành cơ hội để phát triển. Ngược lại, một số nước được thiên nhiên ưu đãi, có nguồn tài nguyên phong phú, có trữ lượng và giá trị lớn, có cơ hội lớn để phát triển kinh tế, nhưng đã không tận dụng có hiệu quả các cơ hội này, chỉ khai thác tài nguyên để bán, tuy có mức sống cao nhưng không phải là quốc gia có nền kinh tế phát triển, ẩn chứa nhiều thách thức về ổn định chính trị, xã hội.

Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và đang bắt tay vào chuẩn bị các văn kiện cho Đại hội XIII ,dự kiện tổ chức vào đầu năm 2021. Để xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho phát triển kinh tế đất nước trong 5 năm của nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng cũng bắt đầu từ việc phân tích bối cảnh tình hình, cả trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó xác định cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế.

2. Về cơ hội

Đầu tiên, phải nói tới cơ hội do tính chất của thời đại, do bối cảnh tình hình quốc tế ngày nay tạo ra. Đảng CSVN luôn xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt Nam thắng lợi phải phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh của thời đại. Việt Nam là một nước kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nhưng Việt Nam có thể phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do tính chất của thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nguyên lý mà C.Mác, đã nêu ra: loài người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải quyết vấn đề đó đã xuất hiện. Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đã tạo ra cơ hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có thể phát triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung của tất cả các quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các nước đều có thể lưu thông, luân chuyển trên quy mô toàn cầu; phân công và hợp tác sản xuất cũng có thể diễn ra ở nhiều quốc gia trên quy mô toàn cầu; doanh nghiệp của một nước có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu… Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội cho mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm phát triển. Việt Nam, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã sớm chủ trương hội nhập quốc tế, bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước mở rộng ra các lĩnh vực khác. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có quan hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; tham gia, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín, toàn cầu và khu vực [Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, tổ chức ASEAN…], đã ký 16 hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm qua. Trong những năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế quốc tế đã xây dựng được, những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết sẽ có hiệu lực và những hiệp định sẽ được ký kết mới, sẽ tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp tục phát triển.

Những biến động phức tạp gần đây trên thế giới, trong quan hệ quốc tế, sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ trương bảo hộ thị trường trong nước, cản trở toàn cầu hóa ở một số nước lớn, nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, đang và sẽ ảnh hưởng lớn tới lưu thông hàng hóa, đầu tư quốc tế, tăng trưởng kinh tế thế giới. Bối cảnh này có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam, tạo ra những khó khăn, thách thức cho Việt Nam; nhưng đồng thời, cũng tạo ra cơ hội cho Việt Nam, khi Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, vào thị trường Trung Quốc thay thế cho hàng hóa của một số nước bị cản trở xuất khẩu vào những thị trường này. Việt Nam có cơ hội thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi Trung Quốc và thu hút cả các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam sản xuất hàng hóa để xuất khẩu vào Mỹ, đi vòng, tránh thuế quan cao và hàng rào thương mại của Mỹ với hàng hóa Trung Quốc.

- Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, trực tiếp hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0] đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học – công nghệ, tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển. Vai trò của các yếu tố sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, trước đây từng là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, giảm xuống. Với sự phát triển của hệ thống internet và các mạng thông tin kết nối toàn cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và truyền bá tri thức. Những điều này tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm tới phát triển giáo dục, có nền giáo dục phát triển; có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, tỷ lệ người sử dụng internet cao so với nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam, cơ hội để có thể đi ngày vào hiện đại, phát triển theo hình thức rút gọn, đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới.

- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, trở thành khu vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế thế giới. Trong khu vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học – công nghệ mạnh, phát triển năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, có những thị trường lớn, các nguồn vốn đầu tư lớn. Là một nước nằm trong khu vực phát triển năng động nay, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho Việt Nam.

- Việt Nam là đất nước có sự ổn định chính trị - xã hội cao, con người thông minh, nhân hậu, mến khách, có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều bãi biển đẹp, nhiều di sản văn hóa - lịch sử có sức thu hút lớn, có nhiều món ăn và nghệ thuật ẩm thực được bạn bè quốc tế yêu thích. Sau nhiều năm phát triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay, cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường đã có nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù hợp với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy mạnh, các quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được thu hẹp, ngày càng công khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thông thoáng, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín. Nền kinh tế năng động, đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức cao hàng đầu các quốc gia trên thế giới; dân số Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức thu nhập ngày càng được cải thiện, đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao… Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

3. Về thách thức

Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam không chỉ có cơ hội, mà còn có không ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là nhiều thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu tố tạo ra cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước.

- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần lớn là ở những công đoạn có trình độ công nghệ thấp, gia công, lắp ráp.

Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động trên thị trường khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất nước sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam không chủ động có biện pháp ứng phó và nếu nội lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với những thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất là của những đối thủ cạnh tranh.

Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu vào cho hoạt động của nền kinh tế [vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu] là nhập khẩu từ nước ngoài và thị trường bên ngoài có vai trò rất lớn, rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách thức nếu hàng hóa nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi thị trường, bóp chết sản xuất trong nước. Những điều kiện vay vốn nước ngoài [vay chính phủ các nước, vay các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái phiếu quốc tế…] càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ nước ngoài cũng càng có khả năng, điều kiện tăng nhanh, sẽ trở thành thách thức lớn khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế đất nước, tạo việc làm cho người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, nhưng có thể trở thành thách thức lớn nếu quản lý thiếu chặt chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường, nước ta trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu cho các nước phát triển, để các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng các chính sách ưu đãi, khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước, khi hết thời hạn ưu đãi, không còn có thể khai thác tài nguyên và tận dụng lao động rẻ, họ sẽ bỏ đi, để lại nhiều gánh nặng mà đất nước phải giải quyết…

- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải chỉ tạo ra cơ hội cho kinh tế Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua những thách thức này mới nắm bắt được cơ hội, chuyển cơ hội thành hiện thực. Thách thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn đề tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi, phát triển công nghệ diễn ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với Việt Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng.

Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - công nghệ rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các ngành; đây không phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là những thách thức. Không vượt qua được những thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn, so với các nước khác

- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng là khu vực có sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng mạnh mẽ, kìm chế lẫn nhau giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đặc biệt là tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các nước trong khu vực hết sức căng thẳng, có nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững chủ quyền biển, đảo của đất nước, đồng thời phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế đất nước là thách thức lớn đối với Việt Nam.

- Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp, chuyển biến chậm.

Hiện nay, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, nhưng theo dự báo, thời kỳ dân số vàng của Việt Nam sẽ kết thúc sớm hơn so với một số nước, dân số già nhanh. Kinh nghiệm các nước cho thấy, các nước cất cánh được trở thành nước phát triển, vượt qua bẫy thu nhập trung bình đều diễn ra trong thời kỳ dân số vàng. Nếu kinh tế Việt Nam không cất cánh được trong thời kỳ dân số vàng, Việt Nam sẽ khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, chưa giàu đã già. Đây là một thách thức lớn.

Đời sống nhân dân được cải thiện, nhưng khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã hội có xu hướng mở rộng không chỉ ảnh hưởng tới ổn định xã hội mà còn ảnh hưởng tới sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế. Tình trạng ô nhiễm môi trường được quan tâm ngăn ngừa, xử lý, nhưng chưa ngăn chặn được, vẫn có xu hướng tăng lên, nguồn lực, chi phí cho bảo vệ môi trường cũng ngày càng tăng lên. Kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, điều kiện sống được cải thiện, nhưng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội bị suy thoái, xuống cấp; tình trạng tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hoạt động của các doanh nghiệp. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng xấu tới phát triển kinh tế, là những thách thức phải vượt qua.

- Đặc biệt, Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu [theo đánh giá của các tổ chức quốc tế]. Hiện nay, biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra nhanh, tình trạng nước biển xâm nhập sâu vào các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long; sạt lở đê biển, sói lở bờ biển xảy ra ở nhiều vùng; thiên tai, bão lũ cường độ lớn xảy ra nhiều hơn, mức độ tàn phá lớn hơn. Nhiệt độ trung bình hằng năm ở Việt Nam tăng lên, tình trạng hạn hán, thiếu nước khá nghiêm trọng đã xảy ra ở nhiều vùng. Đầu tư cho phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng cao. Đây là những thách thức rất lớn đối với phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm tới.

Trên đây là những cơ hội và thách thức lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm tới. Xác định cơ hội và thách thức là cơ sở để Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam quyết tâm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước phát triển, có thu nhập cao, “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịchHội đồng Lý luận Trung ương


[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, VPTW, Hà Nội, 2016, tr.18-20.

Video liên quan

Chủ Đề