Phân tích khổ thơ thứ 3 bài đoàn thuyền đánh cá

Nếu như trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chìm đắm vào nỗi sầu vương nhân thế thì sau cách mạng, thơ ông tràn ngập niềm yêu cuộc sống, ngợi ca cuộc đời và con người mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tác giả sáng tác trong một lần đi thực tế tại Quảng Ninh là một tác phẩm như thế. Vẻ đẹp huy hoàng, kỳ vĩ của thiên nhiên cùng những người lao động mạnh mẽ, lạc quan tạo nên một bức tranh cuộc sống hài hoà, đẹp đẽ. Các khổ thơ 3, 4, 5, 6 là những đoạn thơ thể hiện rõ nhất bức tranh ấy.

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng"

Những người đánh cá ra đi mang theo câu hát của niềm tin và hy vọng. Giữa biển cả sóng nước mênh mông của vũ trụ, người lao động nào có nhỏ bé mà họ trở nên phi thường, lớn lao, làm chủ chính công việc của mình. Qua cái nhìn lãng mạn của thi nhân cùng lối tưởng tượng độc đáo, từ một công việc vất vả trở nên thi vị biết bao. Thiên nhiên sát cánh cùng người lao động, gió căng buồm cùng người lái thuyền vượt sóng, buồm chở trăng vượt biển, lướt mây. Nhờ gió, trăng mà người lao động vui vầy hơn với công việc, thiên nhiên gần gũi, thân thương thật nhiều. Động từ "lướt" được đặt đầu câu cho thấy khí thế phơi phới trong hoạt động lái thuyền, vượt biển.

"Ra đậu dặm xa dò bụng biển"

Thuyền cùng người "lướt mây cao", vượt "biển bằng" để đến nơi xa xôi của biển cả "ra đậu dặm xa", tìm kiếm những nguồn cá tôm dồi dào. Công việc đánh cá nào có dễ dàng thuận lợi, phải cần kinh nghiệm và mưu trí của mình, người lao động mới tìm được nơi có bãi cá, luồng tôm để đánh bắt " dò bụng bể".

"Dàn đan thế trận lưới vây giăng"

Đánh bắt cá cũng là một cuộc chinh phục của con người trước thiên nhiên. Công việc diễn ra như một trận đánh của người lao động vậy, cần sự tập trung cao độ trong mỗi bước hành động "dàn đan thế trận" để giăng lưới bắt cá. Công việc đánh cá hiện lên vừa chân thực lại không kém phần lãng mạn qua cách khắc hoạ của Huy Cận. Kinh nghiệm bao mùa mưa nắng đánh bắt cá tôm đã nuôi dưỡng trong những người dân chài bản lĩnh can trường để vượt qua gian khó, công việc trở thành một môn nghệ thuật mà những người lao động ấy là nghệ sĩ tài ba, vô danh và dũng cảm.

"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe"

Phải chăng thiên nhiên cũng thấu hiểu được sự vất vả của con người mà thương họ, bạn phát cho họ nguồn cá tôm dồi dào đến thế. Thủ pháp liệt kê được tác giả vận dụng để thể hiện sự phong phú, đa dạng của các loài cá trên biển: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,..... Ta như thấy được niềm vui của người lao động khi bắt gặp luồng cá đông đến vậy. Trong màu sắc dịu dàng của ánh trăng đêm giữa biển khơi, những chú cá hiện lên thật lung linh, đẹp đẽ. Cá song "lấp lánh đuốc đen hồng" nổi bật trong làn nước của biển đêm. Nghệ thuật nhân hoá "em" như một cách gọi đầy trìu mến và thân thương của người lao động dành cho bao chú cá biển khơi. Động từ "quẫy" kết hợp với cụm danh từ "trăng vàng choé" càng làm cho khung cảnh lao động trong biển đêm thêm sinh động, nên thơ. Ánh trăng đêm rẽ nước cùng thuyền vượt biển, trăng mang ánh sáng huyền diệu xua tan tăm tối của biển đêm, sáng soi cho con người lao động. Trăng cùng cá tôm vẽ nên nét đẹp lung linh, mơ màng của biển cả.

"Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long"

Nghệ thuật nhân hoá một lần nữa được tác giả vận dụng để miêu tả thiên nhiên "đêm thở", "sao lùa".

"Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Câu hát luôn được người lao động nơi biển cá mang theo. Dẫu mệt nhọc, vất vả thì những lời ca, tiếng hát văn vang lên, xua tan bao khó khăn, đem đến cho họ nguồn năng lượng tích cực để làm việc. Câu hát mời gọi tôm cá đến với con người nghe sao mà thiết tha, ân tình đến vậy. Trăng cũng hoà mình vào làn nước mát xanh, vỗ vào mạn thuyền để gõ nhịp, góp thêm cho lời hát của con người khúc nhạc tâm tình, dạt dào mời gọi. Nhịp thơ nhẹ nhàng, lời thơ phóng khoáng ấy càng thể hiện vẻ đẹp của người lao động trong cuộc đời mới: tự do, kiêu hãnh và đầy khát khao.

Xúc cảm trào dâng mãnh liệt, thay lời bao người con biển cả, nhà thơ cất lên lời biết ơn từ tận đáy lòng dành cho mẹ biển:

"Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Bao nhiêu thế hệ được lớn lên, trưởng thành nơi đây là nhờ biển cả. Biển mang lại nguồn kinh tế vô cùng lớn cho người lao động để họ có thể mưu sinh, nuôi sống gia đình mình. Nếu lòng mẹ cao lớn, dạt dào nuôi nấng chăm sóc con thì biển cả cũng vĩ đại như lòng mẹ vậy, dành cho người lao động nguồn cá tôm rộng mở, nuôi dưỡng và chở che cho cuộc đời con người "Nuôi lớn đời ta tự buổi nào". Lời biết ơn cũng là lời ngợi ca biển quê hương giàu đẹp, tiếng thơ chân thành mà tha thiết yêu thương.

"Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng"

Không khắc hoạ vẻ cường tráng, mạnh bạo của người dân qua ngoại hình, màu da như Tế Hanh, nhưng Huy Cận lại thể hiện vẻ đẹp đó của họ quá hành động. Sao dần mờ, trời sắp sáng cũng là lúc mọi người thúc giục nhau kéo lưới lên. Hành động "kéo xoăn tay chùm cá nặng" khắc hoạ nên hình ảnh dân chài đầy sức sống, mạnh mẽ như bức tượng đồng, dù đã mệt mỏi sau đêm dài thức trắng làm việc, họ vẫn quyết dùng hết sức lực để kéo lưới lên. Ta như thấy được những cánh tay cuồn cuộn, rắn chắc căng mình kéo lưới, một hình ảnh khoẻ mạnh và thật rắn rỏi. "Chùm cá nặng" là thành quả xứng đáng mà còn người nhận được sau bao thời gian gắng sức, vất vả. Đó là niềm vui thoả những chờ đợi, mong mỏi mà họ đã gửi gắm vào từng câu ca, tiếng hát.

"Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"

Chùm lưới nặng được kéo lên cũng là lúc công việc hoàn thành, vừa lúc rạng đông cũng đến. Con thuyền trở về với cá tôm đầy khoang. "Vẩy bạc" "đuôi vàng" lấp lánh trong ánh bình minh của buổi sớm. Hình ảnh lung linh và đẹp đẽ ấy là đại diện cho thành quả của người dân chài, họ tự hào và trân trọng những gì mà mình nhận được, họ hạnh phúc vì những cống hiến, hy sinh của mình được nhận lại xứng đáng. Cánh buồm căng gió trở về trong niềm hứng khởi, "nắng hồng" sớm mai lên cũng là lúc mọi người chào đón một ngày mới với những niềm vui mới, những hy vọng mới.

Bốn khổ thơ dạt dào cảm xúc, mang cả những yêu thương, ước vọng và niềm tin của tác giả dành cho người dân chài nói riêng và dành cho quê hương, đất nước nói chung. Hồn thơ khoẻ khoắn, khoáng đạt của Huy Cận đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào về con người và thiên nhiên Việt Nam.

Hình minh hoạ

Trường THPT Phạm Hồng Thái sẽ hướng dẫn phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận một cách hay và chuẩn xác nhất trong bài viết hôm nay. Tham khảo dàn ý và 3 bài văn mẫu phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá dưới đây sẽ giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên và niềm vui sướng hân hoan của người ngư dân trong công việc lao động.

Hướng dẫn phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

Dàn ý Đoạn văn phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá chuẩn nhất.

1. Mở đoạn

Giới thiệu tác giả, tác phẩm, khổ cuối bài thơ.

2.Thân đoạn

– “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Lời hát theo gió căng buồm đưa thuyền vượt sóng trở về. – Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”: người lao động chạy đua với thời gian, tận dụng từng phút giây vượt sóng, vượt gió, đưa cá tôm tươi ngon về bến. – “mặt trời đội biển”: báo hiệu khoảnh khắc tốt lành, mở ra một ngày mới tốt đẹp. → Cảnh mình minh huy hoàng, rực rỡ.

– Phép nhân hoá, ẩn dụ: “mắt cá huy hoàng” để chỉ những thành quả rực rỡ được tạo nên từ sức lao động chân chính và bền bỉ.

* Nghệ thuật:

-Với giọng điệu tự hào cùng âm hưởng ngợi ca.- Phối kết hợp các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ.

Dàn ý phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá

3. Kết đoạn

Khẳng định giá trị của khổ thơ.

Đoạn văn mẫu số 1: phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá hay nhất.

“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận viết vào năm 1958, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ đã khắc hoạ vẻ đẹp thiên nhiên và sức sống của người lao động trong thời kì mới.

Khổ thơ cuối bài thơ thể hiện rõ nhất vẻ đẹp ấy. Sau một đêm vất vả, đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh “Câu hát căng buồm với gió khơi/ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Câu hát một lần nữa được cất lên giữa biển cả, tiếng hát của người ngư dân cùng gió khơi của biển đã thổi căng cánh buồm, đưa con thuyền trở về đất liền.

Tiếng hát của người lao động chan chứa niềm vui, sự phấn khởi và tự hào sau một đêm đánh bắt hăng say. Hình ảnh nhân hoá “đoàn thuyền” đang “chạy đua cùng mặt trời” diễn tả sự mạnh mẽ, sung sức của người lao động đang chạy đua với thời gian để mang về cho quê hương những cá tôm tươi ngon nhất. Tiếp đến là vẻ đẹp thiên nhiên miền biển và vẻ đẹp của người lao động “Mặt trời đội biển nhô màu mới/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được Huy Cận miêu tả đầy sinh động qua biện pháp nhân hóa “mặt trời đội biển” gợi cảm giác đầy sống động. Đặc biệt câu thơ cuối bài đã gợi ra hình ảnh những đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, trên khoang là đầy ắp cá tôm- những thành quả sau bão vất vả, nhọc nhằn. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng” vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào, niềm tin yêu của những người lao động vào cuộc sống mới đầy tốt đẹp.

Bằng thể thơ tám chữ cùng phép điệp ngữ, nhân hoá, ẩn dụ, Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của đoàn thuyền về bến bằng ngôn từ nghệ thuật. Qua đó, thấy được tình cảm trân trọng của tác giả dành cho những người lao động trong cuộc sống mới. Khổ thơ cuối bài như một nốt nhạc ngân vang trong bài ca lao động, chan chứa niềm tin yêu và lòng tự hào vào một thế hệ dựng xây đất nước tươi đẹp, phồn vinh.

Đoạn văn mẫu số 2: phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn và đủ ý.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận mang âm hưởng khỏe khoắn vui tươi, ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống con người mới. Khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bức tranh đẹp và sống động về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi/ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” trở về trong tâm trạng đầy phấn khởi, người lao động cất lên câu hát thiết tha. Lời hát theo gió căng buồm đưa thuyền vượt sóng trở về.

Phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn và đủ ý.

Trong câu hát là những ân tình, ngọt ngào được thắp lên từ tinh thần lạc quan, niềm hăng say lao động của người dân miền biển. Sau một lao động vất vả trên biển nhưng ta không thấy một chút nào mệt mỏi, những người ngư dân vẫn hân hoan, vui sướng cất lên tiếng hát. Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” để chỉ hình ảnh người lao động chạy đua với thời gian, tận dụng từng phút giây vượt sóng, vượt gió, đưa cả tôm tươi ngon về bến.

Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp trong cuộc sống lao động, họ luôn tận dụng từng phút giây của mình để lao động, tạo ra của cải vật chất, xây dựng một cuộc sống mới ấm no, giàu đẹp. Khi về bến cũng là lúc ánh bình minh mở cửa, “mặt trời đội biển” báo hiệu khoảnh khắc tốt lành, mở ra một ngày mới tốt đẹp.

Ánh sáng mặt trời trong màu mắt cá, tạo nên nét huy hoàng của thành quả ngày lao động. Phép nhân hoá, ẩn dụ cùng sức tưởng tượng phong phú và bút pháp lãng mạn dồi dào một lần nữa được tác giả vận dựng thật tinh tế “mắt cá huy hoàng” để chỉ những thành quả rực rỡ được tạo nên từ sức lao động chân chính và bền bỉ.

Khổ thơ cuối bài như một nốt nhạc trong trẻo nhưng cũng không kém phần hấp dẫn tạo nên sức sống mãnh liệt và bền bỉ cho cả bài thơ.

Đoạn văn mẫu số 3: phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá mới nhất.

Trong khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khéo léo dùng ngòi bút của mình để khắc hoạ “tin thắng lợi” trong lao động của người dân chài miền biển:

“Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Hình ảnh “câu hát căng buồm với gió khơi” được tác giả lặp lại một lần nữa tạo nên kết cấu cân xứng cho bài thơ. Khúc hát hào hùng chan chứa niềm vui và tự hào, lời reo mừng khi trở về với thắng lợi, thuyền đầy khoang những cá tôm tươi ngon. Câu hát còn tiếp thêm sức mạnh cho con thuyền rẽ sóng, vượt đại dương về bến.

Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” báo hiệu buổi bình mình bắt đầu, “màu mới” là vẻ đẹp của một ngày mới, mang theo cả hy vọng về sự đổi thay tươi đẹp của người dân chài. Mặt trời ấm áp đón chào đoàn thuyền về bến như một niềm vui, hân hoan của tự nhiên trước những vất vả, chịu thương, chịu khó của người lao động.

Được mùa cá tôm, chuyến đi đầy thắng lợi, mắt cá lóng lánh trong ánh mai rực rỡ. Mỗi mắt cá như một mặt trời bé con, góp nên vẻ “huy hoàng” giữa biển cả. Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ đầy đẹp đẽ về nỗi mong ước một cuộc sống tươi đẹp, tự do, sung túc, đủ đầy của những người dân chài. Với họ, không có gì hạnh phúc hơn là được tự do trong lao động, làm việc chân chính, ra khơi biển lặng sóng yên, lưới cá tôm trĩu nặng trở về. Ánh mắt cá huy hoàng cũng là niềm tự hào mãnh liệt của người dân khi họ nhìn những thành quả sau những vất vả, mệt nhọc.

Với giọng điệu tự hào cùng âm hưởng ngợi ca, kết hợp các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ, tác giả đã bày tỏ niềm trân trọng của mình dành cho những người lao động với ý chí phi thường, sống cống hiến, làm việc hết mình…

Đó là hình ảnh của người lao động trong thời đại mới, vươn mình chinh phục thiên nhiên bằng niềm hăng say, nhiệt huyết của chính mình, làm chủ cuộc sống, xây dựng đất nước trong thời đại mới.

Kết luận:

Để viết đoạn văn phân tích khổ 3 đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận các bạn hãy tham khảo những dàn ý và 3 đoạn văn mẫu mà trường THPT Phạm Hồng Thái đã viết ở trên. Mong rằng những kiến thức trong bài viết này sẽ giúp ích các bạn có thể học bài dễ dàng hơn và đạt nhiều điểm cao trong những bài kiểm tra nhé!

Video liên quan

Chủ Đề