Sau tháng 7/1954, ở trong nước, có những thuận lợi cơ bản cho cách mạng việt nam là:

Đường lối trong giai đoạn 1954-1964

Quảng cáo

1. Đường lối trong giai đoạn 1954-1964

a] Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954

Sau Hội nghị Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.

Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tể, quân sự, khoa học — kỹ thuật, nhất là của Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi vả khu vực Mỹ latinh; phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản chủ nghĩa; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa vững chắc cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.

Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới buớc vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trờ thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.

Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau, ở hai miền dất mrớc có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi, khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.

b] Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối.

- Quá trình hình thành và nội dung đường lối:

Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải đề ra được đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.

Tháng 7-1954, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã phân tích tình hình cách mạng nước ta, xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam.

Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.

Tại Hội nghị lần thứ bảy [tháng 3-1955] và lần thứ tám [tháng 8-1955] Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

Tháng 8-1956, tại Nam Bộ đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam, xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng, “Ngoài con đường cách mạng không có một con đường khác".

Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, được xác định: "Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình".

Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trang ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: "hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là ''giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam". "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân". Đó là con đường "lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đế đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhản dân". "Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hòa bình, phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng: Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được "hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.

Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:

Nhiệm vụ chung: "tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".

Nhiệm vụ chiến lược: "Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước". "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc".

Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện mệt mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ chiến lược ẩy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".

Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.

Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".

Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trong ương Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất.

- Ý nghĩa của đường lối:

Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.

+ Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc, vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam, vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

+ Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.

+ Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây đựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

Đường lối của Đại hội III được Đảng bổ sung, phát triển qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở mỗi miền trong những năm 1960-1965. Trong đó, đối với miền Bắc, các Hội nghị Trung ương lần thứ tư [tháng 4-1961] đã bàn về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương lần thứ năm [tháng 7-1961] bàn về phát triển nông nghiệp, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy [tháng 6-1962] bàn về phát triển công nghiệp. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 [tháng 12- 1964] bàn về lưu thông, phân phối... Đối với cách mạng miền Nam, các Hội nghị Bộ Chính trị đầu năm 1961, 1962 đã chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công của cách mạng. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận. Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thành thị.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Đường lối trong giai đoạn 1965-1975
  • Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm - Bài 2
  • Chủ trương và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng để giữ vững thành quả cách mạng trong giai đoạn 1945 - 1946?
  • Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II [tháng 1-1959] và đường lối cách mạng miền Nam?
  • Chủ trương của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại Hội nghị Trung ương 11 [tháng 3-1965] và Hội nghị Trung ương 12 [tháng 12-1965]?
  • Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Công tác tư tưởng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp [1945 - 1954]

[ĐCSVN] - Công tác tư tưởng đã thường xuyên tố cáo những tội ác dã man của địch để nâng cao lòng căm thù, ý chí quyết tâm kháng chiến, không ngại hy sinh gian khổ, vạch những thủ đoạn xảo quyệt của địch để đề cao cảnh giác. Đã kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần đoàn kết quốc tế, làm cho mọi người phân biệt được bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân lao động Pháp.
Hình ảnh những ngày tháng Tám lịch sử ở Hà Nội [Ảnh: hochiminh.vn]

1. ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN Ở MIỀN NAM VÀ CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, tình hình quốc tế có những thay đổi cơ bản. Liên Xô trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa, có uy tín và anh hưởng sâu rộng, là trụ cột của lực lượng hòa bình và dân chủ trên thế giới, là chỗ dựa của nhân dân các nước đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, một loạt nước Đông Âu và miền Bắc Triều Tiên được giải phóng khỏi ách phát xít, tiến hành các cải cách dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ làm rung chuyển hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã có lực lượng mạnh và những vùng giải phóng rộng lớn. Cuộc đấu tranh để giành độc lập của nhiều nước thuộc địa và nửa thuộc địa ngày càng lớn mạnh, có nơi đã giành được một phần quyền làm chủ đất nước. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống của các tầng lớp nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ. ở một số nước như Pháp và Ý, Đảng Cộng sản có uy tín lớn, có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Phe dế quốc suy yếu đi nhiều. Đức, Ý , Nhật bị đánh bại, Anh, Pháp tuy chiến thắng nhưng kiệt quệ về kinh tế, suy yếu hơn về chính trị, quân sự. Riêng đế quốc Mỹ lợi dụng chiến tranh đã vượt lên về kinh tế, chính trị, quân sự và khoa học, kỹ thuật. Dựa vào sức mạnh kinh tế và độc quyền về vũ khí nguyên tử, Mỹ muốn giành quyền bá chủ thế giới. Mỹ dùng hình thức “viện trợ kinh tế” để buộc Anh, Pháp và các nước tư bản khác lệ thuộc vào mình, xâm nhập vào các nước thuộc địa bằng chủ nghĩa thực dân mới.

Tuy bọn đế quốc mâu thuẫn với nhau sâu sắc nhưng trước sự lớn mạnh của Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới, chúng câu kết với nhau lập mặt trận bao vây Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, chống phá phong trào cách mạng thế giới.

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới là điều kiện khách quan thuận lợi để nhân dân ta giữ vững chính quyền và xây dựng chế độ mới. Tuy nhiên, do tính chất triệt để chống đế quốc, lại có vị trí đi đầu trong phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở một địa bàn chiến lược ở Đông Nam Á cho nên cách mạng Việt Nam đã trở thành đối tượng chống phá chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chính quyền cách mạng mới ra đời đã gặp muôn vàn khó khăn. Nạn đói khủng khiếp chưa chấm dứt lại xảy ra lụt lớn ở Bắc Bộ, sau đó lại đến hạn hán. Sản xuất đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả cao vọt. Về mặt tài chính, Nhà nước gặp khó khăn lớn: Kho bạc trống rỗng, tbuế chưa thu được. Nước Việt Nam dán chủ cộng hoà ra đời chưa được nước nào trên thế giới công nhận. Giữa lúc ấy thì hơn hai mươi vạn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho chúng.

Ở miền Nam quân đội Anh kéo vào, mở đường cho quân đội thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Một đội quân Pháp từ Vân Nam trở về chiếm đóng tỉnh Lai Châu. Bọn phản động người Việt [tập hợp trong hai tổ chức: Việt Nam quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh hội] theo gót quân đội Tưởng, được chúng giúp đỡ đánh chiếm các thị xã Lao Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Móng Cái, hô hào chống lại chính quyền cách mạng, tổ chức bạo loạn.

Bọn chúng được quân Tưởng hỗ trợ lập trụ sở ở nhiều khu phố Hà Nội, tự xưng là những người yêu nước, nói xấu chính quyền cách mạng, xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản. Chúng tập hợp các loại phản cách mạng từ bọn phản động trong giai cấp địa chủ, tư sản, trong đạo Thiên Chúa đến bọn Tờrốtkít. . . vào cái gọi là “Mặt trận quốc gia”. Chúng mắc loa phóng thanh tuyên truyền, xuất bản báo chí phản động, tổ chức mít tinh, biểu tình vận động, bãi thị, bãi khóa, tổ chức ám sát, bắt cóc, nhằm lật đổ chính quyền.

Chính quyền cách mạng mới ra đời kinh tế tài chính kiệt quệ, trên đất nước có tới 30 vạn quân đội thù địch nước ngoài. Vận mệnh dân tộc ta lúc này khác nào “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền cách mạng có thể bị lật đổ. Nhưng cũng chính vào lúc này, nhân dân ta đã làm chủ đất nước tràn đầy phấn khởi, tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng làm mọi việc để bảo vệ độc lập, tự do.

Ngay sau ngày công bố Tuyên ngôn Độc lập [2-9- 1945], trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng nêu ra 6 nhiệm vụ cấn kíp: chống đói; chống dốt; tổng tuyển cử; xây dựng nếp sống mới; xoá bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tín ngưỡng tự do. Sau đó Người đã bổ sung và khái quát thành ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Trong tháng 9, cuộc đấu tranh phức tạp, gay gắt của nhân dân miền Bắc chống lại quân đội Tưởng và bè lũ tay sai diễn ra cùng một lúc với cuộc kháng chiến anh dũng và gian khổ của nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Công tác tư tưởng lúc này tập trung giáo dục ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lời thề ngày “Tuyên ngôn độc lập” 2-9 “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vưng quyền tự do và độc lập”[1], cổ vũ nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Ngay sau khởi nghĩa,Bộ Tuyên truyềnđược thành lập do đồng chí Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng đã tiếp quản các cơ sở tuyên truyền, báo chí của chế độ cũ và đài phát sóng Bạch Mai. Đài phát thanhTiếng nói Việt Namđược thành lập và hoạt động từ ngày 7-9- 1945.Việt Nam Thông tấn xãcũng được thành lập để cung cấp tin cho các cơ quan lanh đạo và phục vụ công tác tuyên truyền. Ngày 15-9 Việt Nam Thông tấn xã đã chính thức phát tin bằng sóng vô tuyến ra thế giới bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp, Anh.

BáoCờ giải phóngcủa Đảng,Cứu Quốccủa Mặt trận Việt minh,Lao độngcủa Hội Công nhân cứu quốc,Tiếng gọi phụ nữcủa Hội Phụ nữ cứu quốc,Hồn nướccủa Đoàn thanh niên cứu quốc,Độc lậpcủa Đảng Dân chủ đã được phát hành công khai, rộng rãi. Khắp nơi tổ chức các cuộc mít tinh, các buổi nói chuyện về việc thành lập Chính phủ cách mạng, chính quyền địa phương và những nhiệm vụ công tác trước mắt.

Khi quân Tưởng kéo vào, đâu đâu chúng cũng thấy những khẩu hiệu “Hoa-Việt thân thiện”, “Kiên quyết ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm” . Ngày 11-9-1945 tướng Lư Hán vào Hà Nội thì ngày 14-9- 1945 đã được chứng kiến hàng chục vạn nhân dân Hà Nội biểu tình phản đối quân đội Anh yểm trợ cho quân đội thực dân Pháp trở lại miền Nam.

Đầu tháng 10, Tổng tham mưu trưởng quân đội Tưởng, tướng Hà ứng Khâm đến Hà Nội để thúc đẩy thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng lại được đón tiếp bằng một cuộc biểu tình của hơn 30 vạn nhân dân Hà Nội. Các đoàn biểu tình hàng ngũ chỉnh tề mang theo cờ, băng, biểu ngữ, hô vang các khẩu hiệu “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh", "Đả đảo thực dân xâm lược Pháp".

Ngày 26-9- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửl thư cho đồng bào Nam Bộ, nêu rõ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ được cả nước ủng hộ, biểu dương gương chiến đấu dũng cảm của quân dân Nam Bộ, nêu rõ quyết tâm của toàn dân ta: "Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”[2], khẳng định cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta nhất định thắng lợi. Công tác tuyên truyền đã liên tục tố cáo âm mưu và tội ác của thực dân Pháp ở miền Nam, động viên lòng căm thù và ý chí quyết tâm chống xâm lược, ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến. Các tỉnh đều có những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng chống thực dân Pháp xâm lược. Các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ đều có nhiều hình thửc động viên phong phú để quyên góp thuốc men, quần áo, vũ khí chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam như tổ chức ra các "Phòng Nam Bộ", "Ngày Nam Bộ". Hàng vạn thanh niên nô nức tham gia tòng quân, xung phong "Nam tiến". Các cuộc tiễn đưa các đoàn quân "Nam tiến" diễn ra hào hùng trong tiếng ca cách mạng.

Ở Nam Bộ, ngay từ đầu tháng 9-1945 khi quân Pháp bám gót quân Anh kéo vào, công tác tuyên truyền đã được tiến hành sâu rộng nhằm nâng cao ý chí chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Ở Sài Gòn Chợ Lớn, chiều 23-9- 1945 ta vận động đồng bào tổng đình công, không hợp tác với giặc, lập các công sự, tổ chức cuộc chiến đấu trong thành phố bằng các vũ khí sẵn có. Từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10, cuộc chiến đấu của các lực lượng tự vệ công nhân, tự vệ thanh niên, công an xung phong cùng với nhân dân thành phố đã gây cho quân đội Anh, Pháp khốn đốn: điện, nước bị cắt, tiếp tế khó khăn, luôn luôn bị ta tập kích tiêu hao, tiêu diệt, buộc chúng phải tìm cách điều đình với ta để tạm thời hoà hoãn cho đến khi có thêm quần tiếp viện. Vì chưa có thời gian chuẩn bị, cuộc kháng chiến ở Nam Bộ lúc đầu có nhiều khó khăn, nhưng sau hội nghị Xứ uy Nam Bộ, đảng bộ Nam Bộ được củng cố, ta rút được kinh nghiệm bước đầu, tổ chuc lại các lực lượng vũ trang, phát triển cơ sở chính trị, đẩy mạnh chiến tranh du kích, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của Pháp.

Tháng 2- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu vẻ vang“Thành đồng Tổ quốc”cổ vũ mạnh mẽ cuộc chiến đấu của quân, dân miền Nam.

Ở miền Bắc, ngay từ khi đưa quân vào nước ta, bọn Tưởng cũng đã thấy quyết tâm bảo vệ chủ quyền của nhân dân ta, bắt buộc phải liên hệ với chính quyền cách mạng để giải quyết những nhu cầu về hậu cần, tiếp tế. Nhân dân ta ngày càng thấy rõ đã tâm của chúng và bọn phản động tay sai nên tỏ rõ thái độ phản đối, bất hợp tác với những hành động vu cáo, phá rối của bọn tay sai Việt quốc, Việt cách.

Ngày 17- 10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện và làng, chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ chính quyền cách mạng. Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, đều là đầy tớ của dân nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của đế quốc Pháp, Nhật. Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Người cũng vạch ra những lầm lỗi cần phải sửa chữa của một số cán bộ: Cậy thế, làm trái phép, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.Bức thư này bước đầu đã xây dựng cơ sở lý luận cho chính quyền kiểu mới ở nước ta.

Ngày 25- 11- 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”, phân tích tình hình trong nước và thế giới, đánh giá thái dộ của đế quốc Pháp, Anh, Mỹ và phản động Tưởng Giới Thạch, xác định cách mạng nước ta vẫn là cách mạng giải phóng dân tộc, kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược. Hai nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ mới. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Chỉ thị cũng nêu rõ những biện pháp cơ bản về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao để thực hiện nhiệm vụ trên.

Về tuyên truyền, khẩu hiệu vẫn là: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, chỉ nói đánh thực dân Pháp xâm lược, không nói đánh cả Anh, Pháp, không công kích nước Pháp và dân Pháp.

Chỉ thị kháng chiến kiến quốc vạch ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược sau Cách mạng Tháng Tám, soi đường cho nhân dân ta giữ vững chính quyền cách mạng, từng bước xây dựng chế độ mới trong tình hình vô cùng khó khăn, phức tạp lức này.

Các cán bộ Đảng, đoàn thể, Mặt trận được phái đi khắp mọi nơi tuyên truyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, chống đói, xoá nạn mù chữ, phát triển và củng cố các đoàn thể cứu quốc.

Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, chống đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa. Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”[3]. Trong Lời kêu gọi đồng bào cả nước ra sức cứu đói Người viết: “… Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước:

Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó [mỗi bữa một bơ để cứu dân nghèo”[4]. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói sôi nổi ở khắp nơi.

Với khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang”, các khu hoang hoá được khai khẩn, trồng trọt. Nhiều sáng kiến tương trợ, đùm bọc lẫn nhau của nhân dân để cứu đói như tổ chức “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày nhịn ăn cứu đói” được thực hiện ở cả nông thôn, thành phố.

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất cứu đói, Đảng lãnh đạo chính quyền thực hiện việc tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại công điền, giảm tô, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác. Nhờ đó sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục. Việc chống nạn mù chữ cũng được tuyên truyền rộng rãi thành một cao trào ở các địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo…”[5]

Nội dung và hình thức tuyên truyền chống mù chữ rất phong phú. Khắp nơi có khẩu hiệu “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên gạch xây nền độc lập của nước nhà”… Nhiều ca dao, hò vè được sáng tác để cổ vũ phòng trào, gây ấn tượng sâu sắc, như: “Lấy chồng biết chữ là tiên, lấy chồng mù chữ là duyên lỡ làng” . Sau một năm đã có 2 triệu người thoát nạn mù chữ. Thắng lợi trên mặt trận sản xuất, chống nạn mù chữ có ý nghĩa chính trị rất lớn làm cho nhân dân càng tin tưởng vào chính quyền cách mạng và chế độ mới.

Tháng 9- 1945, nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau khi cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh cả nước, khuyến khích các cháu học tập tốt để sau này đem tài năng phục vụ đất nước.

“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[6].

Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, giáo dục tinh thần yêu nước, đạo đức "cần kiệm, liêm chính", chống các hủ tục lạc hậu cũng được tuyBn truyền sâu rộng. Nạn trộm cắp, cờ bạc, các hủ tục trong ma chay cưới xin được xoá bỏ ở nhiều nơi, công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ cách mạng có tính quần chúng, nhất là ca hát được phát triển rộng rãi.

Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử vào ngày 6-l-1946 để bầu Quốc hội, xây dựng hiến pháp và lập chính phủ chính thức.

Công tác tuyên truyền vận động bầu cừ thực sự là một cuộc đấu tranh gay gắt chống lại sự phá hoại của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt quốc, Việt cách ở miền Bắc và bọn thực dân Pháp ở miền Nam.

Khẩu hiệu phổ biến mọi nơi là: Tất cả cử tri tới thùng phiếu, “Mỗi lá phiếu là một viên đạn diệt thù”. Ngày 5-l-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước “… Một lá phiếu cũng có sức lực một viên đạn.

Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã:

Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ,

Kiên quyết chống bọn thực dân,

Kiên quyết tranh quyền độc lập…”[7]

Cuộc tổng tuyển cử đã đạt kết quả tốt thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu bầu cho các ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh, kể cả ở miền Nam dưới bom đạn của thực dân Pháp. Nó cũng là dịp giáo dục cho nhân dân ta về lòng yêu nước, ý thức làm chủ của công dân một nước độc lập, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên thế giới.

Sau kết quả của các cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập”, tổ chức “Tuần lễ vàng”, để xây dựng nền tiền tệ độc lập của nước ta, ngày 31-1-1946 Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.

Khẩu hiệu “Người Việt Nam tiêu tiền Việt Nam” hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên đồng tiền mới đã nhanh chóng thay thế đồng tiền của ngân hàng Đông Dương.

Trong khi ra sức củng cố chính quyền cách mạng, ổn định tình hình, bước đầu xây dựng chế độ mới, chúng ta phải tiếp tục đấu tranh với âm mưu lật đổ của bọn Tưởng và tay sai ở miền Bắc và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam. Công tác tuyên truyền cổ động liên tục vạch đã tâm của bọn Tưởng và hành động bán nước của bọn tay sai, đập tan những luận điệu xuyên tạc, vu cáo của chúng, vận động nhân dân biểu thị sự đoàn kết chặt chẽ chung quanh Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chống lại những hành động chia rẽ, phá hoại trật tự trị an, âm mưu gây bạo loạn của chúng. Mặt khác, lại phải giải thích cho dân hiểu rõ và đồng tình với thái độ kiên nhẫn, mềm dẻo, hoà hoãn với bọn Tưởng để tập trung mũi nhọn chống kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Để hoà hoãn, tháng 11- 1945 Đảng rút vào bí mật, tuyên bố “tự giải tán” nhưng vẫn giữ hệ thống tổ chức và quyền lãnh đạo. Về công khai, Đảng tổ chức ra “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và đường lối chính sách của Đảng. Tờ Sự thật được xuất bản ngày 5- 12- 1945 để thay thế cho tờ Cờ giải phóng dưới danh nghĩa công khai là cơ quan ngôn luận của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác Đông Dương.

Được sự thoả thuận của Mỹ, tháng 1-1946, Pháp đã mua bán với Anh, để quân đội Pháp được thay quân đội Anh ở miền Nam. Ngày 28-2-1946, Pháp và Tưởng lại ký hiệp ước Hoa - Pháp. Pháp được đưa quân vào thay quân Tưởng ở miền Bắc, đổi lại Pháp trả cho Tưởng các tô giới Pháp ở Trung Quốc và đường xe lửa Vân Nam.

Trước tình hình trên, ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Tình hình và chủ trương”. Chỉ thị phân tích âm mưu của đế quốc và tay sai, đánh giá so sánh lực lượng, cân nhắc lợi hại, quyết định hoà hoãn với Pháp để phá tan âm mưu phá hoại cách mạng của bọn Tưởng và tay sai, giành thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chỉ thị cũng vạch ra những nguyên tắc căn bản cho việc đàm phán giữa ta và Pháp và nhấn mạnh: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp không nhữngkhông ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”[8].

Ngày 6-3-1946, Chính phủ ta ký với Pháp hiệp định sơ bộ. Trong tình hình lúc ấy, làm cho nhân dân thông suốt việc ta đồng ý để cho quân đội Pháp vào miền Bắc là rất khó khăn. Ngày 7-3, trong cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội gồm hàng chục vạn người, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp nói chuyện với nhân dân, giải thích lợi ích của việc ký kết, kêu gọi nhân dân giữ bình tĩnh, đoàn kết, tôn trọng kỷ luật, đồng thời nhắc nhở đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Trước đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lên lời thề xúc động mọi người: “Tôi, Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời đã cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước”[9]. Ngày 9-3- 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hoà để tiến” giải thích rõ chủ trương hoà với Pháp lúc này: “Chúng ta hoà với Pháp để:

1] Tránh tình thế bất lợi… 2] bảo đảm thực lực, giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào, tóm lại, để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”. Chỉ thị phê phán những khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng không muốn hoà hoãn với Pháp dễ sinh ra vô tổ chức, vô chính phủ, dễ bị kẻ thù khiêu khích; khuynh hướng cho rằng hiệp định được ký kết là Pháp đã 'thất bại và sẽ phải thực hiện, dân tộc ta đa tránh được mọi khó khăn~ dễ sinh mất cảnh giác, không thấy bản chất phản động của kẻ thù. Chỉ thị nhấn mạnh việc đề phòng thực dân Pháp bội ước, nhân dân ta phải tiếp tục chuẩn bị kháng chiến lâu dài, nhưng phải kín đáo, giữ thái độ bình tĩnh, nhã nhặn với binh lính Pháp, vận động kéo lính Pháp theo ảnh hưởng của ta. Phải khéo léo đối phó với bọn Tưởng chực kéo dài thời gian đóng quân ở Đông Dương và chống lại mọi hành động phản tuyên truyền, phá hoại của bọn phản động thân Tưởng và bọn Việt gian thân Pháp.

Căn cứ vằo Chỉ thị “Tình hình và chủ trương” và Chỉ thị “Hoà để tiến”, đảng bộ và Mặt trận Việt Minh các địa phương tổ chức các cuộc họp để giải thích cho nhân dân về chủ trương hoà hoãn với Pháp, nội dung của hiệp định sơ bộ và những nhiệm vụ công tác trước mắt. Nhiều nơi xuất bản các tài liệu ngắn để giúp cán bộ làm công tác tuyên truyền. Qua giải thích, cán bộ và nhân dân ta nhận rõ được thắng lợi và lợi ích của việc ký kết hiệp định, đã chống lại những hoạt động chia rẽ, gây rối loạn của bọn Việt quốc, Việt cách, tích cực thực hiện các nhiệm vụ để đối phó với các hành động bội ước của bọn thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 14-3-1946, mười vạn nhân dân thủ đô họp mít tinh để tố cáo những hành động trái với hiệp định của Pháp, đòi Pháp đình chỉ những hành động xâm lược và mở ngay đàm phán chính thức ở Paris.

Tháng 4-1946, Hội nghị trù bị Việt - Pháp họp ở Đà Lạt không có kết quả vì thực dân Pháp vẫn giữ lập trường ngoan cố như muốn tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, lập lại chế độ Toàn quyền Đông Dương…

Ngày 30-5, năm vạn nhân dân thủ đô họp mít tinh tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn ta lên đường sang Pháp dự cuộc đàm phán chính thức. Khẩu hiệu chính của cuộc mít tinh là: “Việt Nam hoàn toàn tự chủ”, “Nam Bộ là đất Việt Nam”, “ủng hộ Hồ Chí Minh”, “ủng hộ Phái đoàn”, “Gửi lời chào nhân dân Pháp”.

Trước khi lên đường, ngày 31-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến đồng bào Nam Bộ, khẳng đỉnh: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.

Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”[10]

Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp và nói chuyện với các chính đảng, các đoàn thể chính trị ở Pháp, các tổ chức quốc tế như Tổng liên đoàn lao động thế giới, Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Liên đoàn phụ nĩí thế giới, các nhà chính trị, các nhà trí thức lớn, nhà báo, nhà văn để làm cho nhân dân Pháp và thế giới hiểu rõ mục đích chiến đấu của ta, lập trường đàm phán và chính sách hợp tác bình đẳng của nước ta với nước Pháp.

Những cuộc nói chuyện ấy làm cho dư luận tiến bộ Pháp hiểu rõ hơn tình hình nước ta, hoan nghênh lập trường đàm phán đúng đắn của ta, đánh tan sự bưng bít về tình hình Việt Nam và sự xuyên tạc lập trường của ta của bọn thực dân Pháp.

Ngày 2 7-6- 1946 và mấy ngày tiếp theo trên khắp nước ta, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã họp mít tinh, biểu tình, tổng bãi công, bất hợp tác, bãi khoá, bãi thị đê phản đối thực dân Pháp đem quân lấn chiếm Tây Nguyên và lập ra cái gọi là “Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Nam Kỳ”.

Trong thời gian này, thực hiện chủ trương của Đảng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc, công tác tuyên truyền vận động đã được đẩy mạnh để thu hút những người còn mặc cảm, chưa có quan hệ với Mặt trận Việt Minh, với các đoàn thể cứu quốc, như các nhân sĩ, trí thức, công thương gia, quan lại cũ, tham gia vào các tổ chức thích hợp. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập ngày 20-5-1946. Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập ngày 27-7- 1946 để tập hợp nhân sĩ trí thức, là thành viên của Hội Liên Việt. Cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội xuất bản tờTiến lên. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được thành lập ngày 20-7- 1946 là tổ chức Công đoàn của giai cấp công nhân, các tầng lớp lao động công nghiệp và viên chức Nhà nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập ngày 20- 10- 1946 để tập hợp rộng rãi phụ nữ yêu nước trong các giai cấp, các tầng lớp.

Trong khi hội nghị Phôngtennơblô đang họp, bọn thực dân Pháp tiếp tực chính sách xâm lược. Chúng âm mưu dùng bọn tay sai Việt quốc, nhân ngày 14-7-1946, ngày kỷ niệm Cách mạng Pháp, nổ súng vào cuộc diễu binh của Pháp sẽ diễn ra để vu cáo ta rồi đánh chiếm thủ đô Hà Nội. Ta đã kịp thời phát hiện và đập tan âm mưu này, phá tan sào huyệt của bọn Việt quốc ở Hà Nội và các nơi khác, trừng trị bọn đầu sỏ, vạch mặt sự câu kết của chúng với thực dân Pháp.

Do thực dân Pháp chưa từ bỏ đã tâm xâm lược nên hội nghị Phôngtennơblô tan vỡ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với chính phủ Pháp bản tạm ước 14-9-1946 quy định một số điều quan hệ tạm thời về văn hóa và kinh tế giữa hai nước, đình chỉ chiến sự ở miền Nam và tiếp tục cuộc đàm phán Việt- Pháp vào tháng 1-1947.

Để giải thích rõ tình hình và nhiệm vụ trước mắt sau khi hội nghị Phôngtennơblô bị tan vỡ, đồng chí Trường Chinh viết bài đăng trên báo Sự thật số 54 ra ngày 20-9-1946 “Tại sao cuộc đàm phán Việt - Pháp ở Phôngtennơblô bị bỏ dở”. Sau khi nêu rõ nguyên nhân thất bại của hội nghị, bài báo phân tích triển vọng của cuộc bang giao Việt - Pháp và chỉ ra những công việc trước mắt. Về mặt tuyên truyền, bài báo chỉ rõ “Trước hết phải giải thích rõ nguyên nhân thất bại của Hội nghị Phôngtennơblô để bóc trần âm mưu gian dối của phản động thực dân Pháp trước dư luận và kêu gọi nhân dân chống lại chúng, đả phá mọi thái độ hoài nghi; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Hồ Chủ tịch và phái đoàn chính phủ. Đả phá quan niệm của bọn dao động, bi quan hay cơ hội, khiêu khích, cho rằng chính sách ngoại giao của Hồ Chủ tịch và của chính phủ không đúng, Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 là sai, v.v… Phải làm cho nhân dân nhận rõ và nhớ rằng: Chính sách ngoại giao thắng hay bại phần lớn ở ta, ở sự đoàn kết phấn đấu của ta, chứ không phải ở “lòng tốt” hay ở “sự thành thật” của thực dân Pháp. Hô hào nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi trong Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, khép chặt hàng ngũ chung quanh Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn sàng đối phó với bất cứ một sự bất trắc nào”[11]. Đối với Nam Bộ, Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 có ý nghĩa chính trị và tinh thần lớn. Dựa vào pháp lý của hiệp định và nhân lúc thực dân Pháp phải điều một phần quan trọng lực lượng quân sự ra miền Bắc, đảng bộ Nam Bộ đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phát động nhân dân phá tề, trừ gian, chống địch càn quét, khủng bố, vi phạm hiệp định, vi phạm ngừng bắn. Khắp nơi nhân dân vùng dậy với khí thế mạnh mẽ phát triển chiến tranh du kích, nhiều vùng giải phóng và căn cứ du kích được mở rộng.

Ở Sài Gòn, dựa vào nội dung Hiệp định 6-3, Thành uỷ vận động giới trí thức gồm hơn 400 người ký vào bản tuyên ngôn lấy tên là “Tuyên ngôn của trí thức Sài Gòn- Chợ Lớn”, đòi tự do, độc lập cho đất nước Việt Nam thống nhất, đòi thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh. Các đồng chí lãnh đạo đã có quan hệ với “Nhóm văn hóa Mác xít” do những người Pháp dân chủ phản đối chiến tranh lập ra, trong nhóm có các đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đảng viên Đảng Xã hội, nhiều trí thức các ngành, cả sĩ quan quân đội Pháp. Nhóm này tuyên bố rõ lập trường của mình ttên báo Paris - Sài Gòn yêu cầu trao trả độc lập tự do hoàn toàn cho Việt Nam, đó là cơ may duy nhất của nước Pháp, gây chiến tranh Pháp không thể chiến thắng được Việt Minh mà lại mất những người đáng lẽ là bạn của dân tộc Pháp. Theo gợi ý của ta, nhóm xuất bản tờ báo tiếng PhápNhững ngày mai[Lendemains] để đấu tranh chống âm mưu xânl lược của bọn thực dân.

Ngay số l ra ngày 20- 10-1946, tờ báo này đã vạch trần âm mưu của Pháp chia cắt Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam, lập nước “Nam Kỳ tự do” do Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng. Bài báo mang đẩu đề lớn: “Bác sĩ Thinh cút đi”.

Cùng với việc chuẩn bị cho báoNhững ngày maixuất bản, ta còn vận động các nhà báo yêu nước ở Sài Gòn lập một mặt trận thống nhất hành động lấy tên là Báo chí thống nhất. Mặt trận này quy tụ được 8 tờ báo tiếng Việt và tiếng Pháp đang xuất bản:Kiến thiết, Tân Việt, Việt bút, Tin điện, Nam Kỳ, Justice [Công lý], Sud [miền Nam], Lendemains [Những ngày mai].

Sau khi có Tạm ước 14-9, Báo chí thống nhất công khai kêu gọi thi hành Tạm ước, đòi thả tù chính trị, phổ biến một số thơ ca và tài liệu kháng chiến. Ngày 20- 10- 1946 Báo chí thống nhất đăng ba bức điện văn gửi đến Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Pháp và Quốc hội Pháp, tỏ thái độ ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu cầu Chính phủ Pháp tôn trọng thoả hiệp đã ký và thi hành nghiêm chỉnh lệnh ngừng bắn để lập lại hoà bình. Những tờ báo nói trên được nhân dân hoan nghênh và tìm đọc, các tờ báo tiếng Việt được phát hành với số lượng lớn ở Sài Gòn và cả một số thị xã khác ở Nam Bộ.

Trò hề chính phủ bù nhìn “Nam Kỳ quốc” bị nhân dân phản đối. Cuối cùng, thấy mình bị thực dân Pháp lừa, nhục nhã, Nguyễn Văn Thinh tự tử [tháng 11- 1946].

Trên mặt trận văn hóa, Đảng ta đoàn kết chặt chẽ các văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá yêu nước trong Hội Văn hóa cứu quốc, khuyến khích sự sáng tạo phục vụ sản xuất và chiến đấu. Nhiều nhà văn đã đi theo các đoàn quân Nam tiến để sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến.

Ngày 24- 1- 1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất họp ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc chỉ rõ: Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.

Cuối năm 1946, thực dân phản động Pháp đẩy mạnh những hành động lấn chiếm, liên tiếp tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, gây ra các vụ khiêu khích ở miền Bắc.

Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng ngày 19- 10-1946 nhận định: “Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.

Đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu ra những phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của kháng chiến, vạch rõ ta sẽ kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, cuộc kháng chiến sẽ rất gay go, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi.

Ngày 20- 11- 1946, thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đồng thời đổ bộ hàng ngàn quân lên Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ nước ta.

Ngày 4- 12- 1946, đồng chí Trường - Chinh viết bài “Đánh và sẵn sàng đánh” đăng trên tờ Sự thật số 64. Bài báo nhận định: quân Pháp đã xâm phạm vào lãnh thổ của ta ở khắp Trung - Nam - Bắc. Chúng đã xâm phạm Hiệp định sơ bộ ngày 6-3- 1946 và Tạm ước 14-9- 1946. Cuộc kháng chiến của dân ta đã có ở ba kỳ. Bất cứ lúc nào, nó cũng có thể lan tới toàn quốc, và biến thành toàn diện. Thực dân Pháp hăm doạ ta, định bắt ta hàng phục, nhưng chúng lầm. Dân ta nín nhịn đã nhiều rồi. Giờ đây toàn dân đã sẵn sàng tử chiến, phá tan mưu mô xâm lược bất cứ lúc nào và ở đâu…

Ngày 17 và 18- 12- 1946, quân đội Pháp gây khiêu khích, tàn sát dân ta ở hai phố Yên Ninh, Hàng Bún, Hà Nội. Chúng gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, đòi chiếm sở công an và giữ trị an ở thủ đô. Thực tế, thực dân Pháp đã xé bỏ các hiệp định, Đảng và Chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến cả nước để bảo vệ Tổ quốc.

2. ĐỘNG VIÊN TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN, TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

Ngày 19- 12- 1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và nêu ra những phương hướng cơ bản của cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “…Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không ! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”[12]

Ngày 21- 12- 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước đồng minh, vạch trần đã tâm xâm lược của thực dân Pháp và hành động bội ước của chúng, nói rõ mục đích cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta.

Ngày 22- 12- 1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Chỉ thị vạch rõ mục đích của kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.

Những khẩu hiệu tuyên truyền chung là:

- Toàn dân đoàn kết, kháng chiến ìâu dài,

- Liên hiệp dân Pháp, đánh thực dân Pháp,

- Bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền!

- Đánh đổ chính quyền bù nhìn, củng cố Cộng hoà dân chủ! Việt Nam nhất định độc lập! Trung Nam Bắc nhất định thống nhất!

Đường lối kháng chiến của Đảng được đồng chí Trường Chinh giải thích và phát triển trong các bài đăng trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8- 1947 và in thành sách tháng 9- 1947 lấy tên là “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong tác phẩm này, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất cho đất nước. Nó tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cho nên nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính sách ruộng đất vẫn phải đi liền với nhiệm vụ chống đế quốc, nhưng vì nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nóng bỏng và cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độe lập dân tộc, chính sách ruộng đất phải được thực hiện từng bước để phân hóa hàng ngũ phong kiến và cô lập thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến này, nhân dân Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hoà bình thế giới. “Cho nên cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh tiến bộ, vì tự do, độc lập, dân chủ và hoà bình”. Tác phẩm phân tích một cách khoa học những chỗ mạnh và chỗ yếu của ta so với những chỗ mạnh và chỗ yếu của địch, chỗ mạnh của ta đều là gốc, chỗ mạnh của địch đều là ngọn”. Do đó, ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng yếu. Ta từ chỗ yếu hơn địch sẽ tiến tới cân sức và mạnh hơn địch. Vì vậy phải đánh lâu dài. Muốn đánh lâu dài phải tự lực cánh sinh, tự ta giúp ta rồi người mới giúp ta. Cho nên phương châm chiến lược là kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Sau khi phân tích cuộc kháng chiến lâu dài phải qua ba giai đoạn, tác phẩm giải thích rõ đường lối kháng chiến về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá.

Tác phẩm chỉ rõ: mọi hoạt động văn hóa lúc này phải nhằm vào khẩu hiệu “Yêu nước và căm thù giặc”. Nhiệm vụ của mặt trận văn hóa kháng chiến là bằng mọi hình thức động viên toàn dân tham gia chiến đấu, “làm cho nhân dân hiểu vì sao phải đánh, đánh để làm gì, làm thế nào để thắng, đánh nhất định khổ, nhưng nhất định thắng lợi”.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh là đường lối, hướng dẫn, động viên và tổ chức nhân dân ta đấu tranh trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp.

Những quan điểm về chiến tranh cách mạng trong các văn kiện ấy đã góp phần xây dựng lý luận về chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Đáp lại lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu với tinh thần bất khuất. Quân và dân thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã Hải Phòng, Huế, Nam Định, Đà Nẵng, Vinh đã tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, bảo vệ an toàn cho các cơ quan và nhân dân rút ra khỏi đô thị, vận chuyển một khối lượng lớn máy móc, vật tư ra vùng tự do để xây dựng hậu phương. Ở miền Nam, quân ta cũng mở nhiều trận đột kích vào Sài Gòn- Chợ Lớn, sân bay Tân Sơn Nhất, phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng sông Cửu Long, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Ở những vùng có chiến sự, nhân dân ta đã phá hoại đường sá, cầu cống, nhà cửa, triệt để thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”. Hàng triệu người đã hy sinh nhà cửa, tài sản, không chịu hợp tác với giặc, tản cư ra khỏi vùng địch chiếm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tản cư cũng là kháng chiến”. Nhân dân vùng tự do sẵn sàng đón tiếp, giúp đỡ đồng bào tản cư nơi ăn, chốn ở, việc làm. Trong những ngày đầu kháng chiến, công tác thông tin tuyên truyền đã được triển khai mạnh mẽ. Mạng lưới báo chí ở Trung ương đã khắc phục nhiều khó khăn để phục vụ kháng chiến. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Đài Tiếng nói Nam Bộ, hệ thống các báo của Đảng, đoàn thể, quân đội ở Trung ương vẫn bảo đảm được hoạt động trong khi di chuyển; các khu và thành phố cũng ra báo, các tỉnh đều có bản tin. Những khẩu hiệu phổ biến được viết lên ở khắp nơi là: “Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài”, “Mỗi phố là một mặt trận”, “Mỗi làng là một pháo đài”, “Cướp súng giặc bắn giặc”, “Mỗi viên đạn là một quân thù”, “Không đi lính cho Pháp”, “Không bán lương thực cho Pháp”, “Đánh giặc, trừ gian”, “Giữ bí mật quân sự là yêu nước”. Nhiều làng, xã, thị trấn có các bảng thông tin, chòi phát thanh để kịp thời phổ biến tin tức chiến đấu, sản xuất. Tài liệu “Mười điều tâm niệm” do Hồ Chủ tịch viết theo hình thức hỏi và trả lời để giải thích về đường lối kháng chiến đã được phổ biến rộng rãi trong các đoàn thể cứu quốc và Hội Liên Việt.

Từ ngày 03 đến 06-4-1947, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương để rút kinh nghiệm những tháng đầu kháng chiến và cụ thể hoá thêm đường lối kháng chiến trong tình hình trước mắt. Hội nghị nhận định: “Đời sống nhân dân khó khăn, nhưng ai nấy đều hăng hái tham gia ủng hộ kháng chiến, tinh thần vẫn vững và một lòng ủng hộ Chính phủ”.

Hội nghị nhấn mạnh vấn đề củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, mở rộng hơn nữa Hội Liên Việt, đẩy mạnh vận động nhân dân tham gia kháng chiến chống âm mưu chia rẽ dân tộc, tôn giáo, khắc phục khuynh hướng hẹp hòi, đề phòng hữu khuynh…

Về công tác tuyên truyền cổ động, cần “Gây một phong trào sôi nổi tham gia kháng chiến về mọi mặt làm cho ai nấy sẵn sàng hy sinh tất cả để “cứu nước, cứu nòi…”. Hội nghị đã đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả của các lực lượng và hình thức tuyên truyền cổ động, nâng cao chất lượng báoCứu Quốc, báoSự thậtvà Đài Phát thanh Trung ương. Về huấn luyện, “mặc dầu bận rộn kháng chiến cũng không được ngừng việc huấn luyện vì càng kháng chiến lâu dài càng cần nhiều cán bộ mới và nâng cao trình độ cán bộ cũ”. Các đảng bộ cần khuyến khích việc học tập trong Đảng; sửa chữa các khuyết điểm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bức thư ngày 01-3- 1947.

Thực hiện nghị quyết của Hội nghị, về mặt tư tưởng, Đảng đả mở cuộc vận động học tập và phê bình, tự phê bình theo thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các đồng chí Bắc Bộ và Trung Bộ. Trong bức thư trên Người đã biểu dương những ưu điểm của cán bộ, đảng viên như: nhẫn nại, chịu khó, tháo vát nhiều sáng kiến, căn dặn cẩn phải đem căn bản tốt đó để kiên quyết khắc phục các khuyết điểm. Các khuyết điểm đó là: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hoá. Bức thư đã phân tích các khuyết điểm, chỉ ra tác hại cụ thể của nó, động viên mọi người kiểm điểm lại mình để sửa chữa.

Cuộc vận động đã thu được kết quả tốt, giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và cải thiện mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng ở nhiều đảng bộ. Tháng 6- 1947, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở Trường Đảng đào tạo huấn luyện viên chính trị, ra nội san của Trung ương và giao trách nhiệm cho các đồng chí phụ trách các ngành, các địa phương viết bài cho báoSự thật. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị tờSinh hoạt nội bộ: tạp chí lý luận và chính trị của Trung ương Đảng được xuất bản tháng 8- 1947. Để đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng các đảng bộ cơ sở, các Ban Tuyên huấn Khu ủy, Tỉnh uỷ đã giúp cấp ủy tăng cường chỉ đạo việc mở lớp huấn luyện ngắn ngày cho đảng viên mới, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cơ sở và cán bộ huyện. Các lớp đào tạo huấn luyện viên chính trị do Trung ương mở đã tăng cường cán bộ cho Ban Tuyên huấn các Tỉnh uỷ, Khu ủy làm nhiệm vụ mở lớp và làm nòng cốt cho việc xây dựng hệ thống trường đảng sau này.

Tháng 10- 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh [với bút danh X.Y.Z] viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”[13]nhằm tiếp tục giáo dục cán bộ, đảng viên, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp kháng chiến. Đây là một văn kiện có tính lý luận và thực tiễn về quan điểm tư tưởng, đạo đức, tác phong của người cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền, cho đến nay vẫn có giá trị thực tiễn lớn.

Về công tác huấn luyện cán bộ, Người viết: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người nêu một số khuyết điểm của các cấp trong công tác huấn luyện cán bộ: không coi trọng huấn luyện nghề nghiệp; chưa tìm cách nâng cao trình độ văn hoá; dạy chính trị thì mênh mông, không thiết thực; dạy lý luận thì lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau, dạy theo cách học thuộc lòng. Những khuyết điểm đó Đảng nên sửa chữa ngay theo cách:

a- Huấn luyện nghề nghiệp: “làm việc gì học việc ấy”

b- Huấn luyện chính trị: "có hai thứ: thời sự và chính sách.

Cách huấn luyện thời sự là khuyên gắng và đốc thúc các cán bộ xem báo, thảo luận và giải thích những vấn đề quan trọng và định kỳ khai hội cán bộ, báo cáo thời sự…

Cách huấn luyện chính sách là đốc thúc các cán bộ nghiên cứu và thảo luận những Nghị quyết, những chương trình, những tuyên ngôn của Đảng và Chính phủ”.

c- Huấn luyện văn hoá: Với những cán bộ còn kém văn hoá, “trước hết phải dạy cho họ những thường thức lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội, chính trị, cách viết báo cáo, nghĩa vụ và quyền lợi người công dân”.

d- Huấn luyện lý luận: “trong bài học lý luận phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế”, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng với nhau”.

Các cơ quan “phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách công tác huấn luyện. Những người lãnh đạo phải tham gia việc dạy. Không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”.

Ngày 07-10- 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công đại quy mô lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, phá căn cứ kháng chiến, chiếm đóng biên giới, ngăn cách cách mạng ta với cách mạng Trung Quốc, chuẩn bị thành lập chính phủ bù nhìn. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”. Bản chỉ thị đề ra nhiệm vụ cho quân dân cả nước là “giáng cho địch thiệt hại nặng nề để không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này”. Về tuyên truyền cổ động, chủ yếu lúc này là làm cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ chung quanh Chính phủ, tích cực tham gia kháng chiến, phá kế hoạch tấn công của địch, chống những khuynh hướng bi quan, dao động, thoả hiệp cũng như những khuynh hướng sợ địch hay khinh địch, mất cảnh giác. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, quân dân ta đã giành thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc, phát triển chiến tranh du kích, phá tề, trừ gian ở vùng sau lưng địch. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, không những tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch mà còn đập tan chiến lược đánh mau, thắng mau của địch. Nó đã làm cho nhân dân càng phấn khởi, tin tưởng vào sức chiến đấu của quân dân ta có thể đánh bại những cuộc tấn công lớn có vũ khí hiện đại của địch.

Trong lời kêu gọi ngày 19- 12-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết những thắng lợi của ta và thất bại của địch trong một năm kháng chiến toàn quốc - Người nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ:

“… Tuy vậy, bọn thực dân phản động không cướp được, thì chúng sẽ phá, không thắng được thì chúng sẽ cắn mấy miếng cho đã nư. Chúng sẽ tấn công vùng này rồi đến vùng khác. Lực lượng của chúng cũng như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ.

Cho nên dân và quân ta phải luôn gắng sức cẩn thận chuẩn bị đề phòng, luôn luôn tấn công địch và phá hoại địch, tuyệt đối chớ tự kiêu, chớ khinh địch, dù lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái”[14]

3. ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC: DIỆT GIẶC ĐÓI, DIỆT GIẶC DỐT, DIỆT GIẶC NGOẠI XÂM, CHỐNG CHÍNH SÁCH “DÙNG NGƯỜI VIỆT ĐÁNH NGƯỜI VIỆT, LẤY CHIẾN TRANH NUÔI CHIẾN TRANH” CỦA ĐỊCH.

Ngày 15-01-1948, sau chiến thắng Việt Bắc, Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng để nhận định tình hình và bổ sung thêm các biện pháp đẩy mạnh cuộc kháng chiến, chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, lập chính phủ bù nhìn toàn quốc của thực dân Pháp. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27-3- 1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Trong bài “Thơ chúc Tết” Xuân Kỷ Sửu [1949], Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:

“Người người thi đua

Ngành ngành thi đua

Ngày ngày thi đua

Ta nhất định thắng

Địch nhất định thua”[15].

Công tác tuyên truyền cổ động trong thời gian này tập trung nêu cao ý nghĩa chiến thắng Việt Bắc, phổ biến lời kêu gọi ngày 19- 12 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống tư tưởng chủ quan, khinh địch, vạch âm mưu lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại của thực dân pháp, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực kháng chiến kiến quốc.

Tháng 7- 1948, nhân Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng các đại biểu. Trong thư, Người viết: "Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng… Chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, tôi thiết tưởng, các nhà văn hoá ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng.

… Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”[16]

Trong hội nghị này, đồng chí Trường Chinh đọc bản báo cáo“Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”nêu rõ lập trường văn hoá mácxít, tính chất và nhiệm vụ văn hoá dân tộc, dân chủ, phê phán và đấu tranh chống những khuynh hướng và quan điểm văn hoá thực dân, phong kiến, tư sản phản động. Bản báo cáo cũng xác định thái độ của những người làm công tác văn hoá là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với kháng chiến, không trung lập, bàng quan, không thoả hiệp với tư tưởng và văn hoá phản động; đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp lý luận và thực tiễn, có quan điểm quần chúng đúng đắn.

Đây là một công trình lý luận văn hóa mácxít có giá trị lớn, nội dung chính xác, phong phú, lời văn chặt chẽ, sinh động đầy tính chiến đấu. Đồng chí Trường Chinh lý giải nhiều vấn đề lý luận văn hóa quan trọng trong đó có vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền là một vấn đề thời sự đang có tranh luận trong giới văn nghệ sĩ. Đồng chí phê phán lập luận của một số người: cho rằng con người của họ… “chia làm hai, con người công dân có khuynh hướng rõ rệt và con người nghệ sĩ tuyệt đối tự do”. Đồng chí chỉ rõ văn hóa không thể trung lập, đứng trên chính trị.

Cuối tháng 7, Đại hội văn nghệ toàn quốc quyết định thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam nhằm tập hợp các lực lượng văn nghệ sĩ yêu nước góp phần vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Trực thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam còn có Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Đoàn Sân khấu Việt Nam, các chi hội văn nghệ khu III, khu IV, khu V, Nam Trung Bộ, Nam Bộ…

Tháng 3- 1948, Hội văn nghệ Việt Nam xuất bản Tạp chí Văn nghệ, tháng 6- 1949 Phòng văn nghệ quân đội cũng xuất bảnTạp chí văn nghệ quân đội.

Tháng 02- 1949, Hội nghị cán bộ văn hoá lần thứ nhất quyết định thành lập Ban Văn hoá Trung ương của Đảng do đồng chí Trần Huy Liệu làm Trưởng ban. Hội Văn hoá Việt Nam cũng được thành lập, tập hơp các nhà hoạt động văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục thành một Mặt trận văn hoá kháng chiến thống nhất.

Báo chí ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; song đội ngũ cán bộ làm báo còn quá ít. Tháng 5- 1949 Ban Bí thư chủ trương mở lớp học viết báo đầu tiên, với danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh mở, lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng. Không có điều kiện đến thăm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến lớp. Trong thư, Người thân mật góp ý kiến với “các bạn viết báo” về nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của báo chí ta và càn dặn muốn viết báo tốt thì cần:

1- “Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực.

2- Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước ngoài, và học kinh nghiệm của người.

3- Khi viết xong một bài tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cẩn thận. Tốt hơn nữa, là đưa nhờ một vài người ít văn hoá xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu.

4- Luôn luôn cố gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ”[17]

Sau khi được phát động, phong trào thi đua yêu nước đã có tác dụng động viên to lớn, phát huy tính tích cực và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta trên mọi mặt trận kháng chiến, kiến quốc, cả ở vùng tự do và vùng du kích, vùng địch tạm chiếm. Các phong trào tòng quân của thanh niên, quyên góp lặp 'lhũ gạo nuôi quân", đỡ đầu bộ đội, du kích diễn ra sôi nổi. Việc tăng gia sản xuất để tự cấp, tự túc đã khắc phục được nhiều khó khăn để bảo đảm các nhu cầu tối thiểu của kháng chiến và đời sống nhân dân. Phong trào xoá nạn mù chữ, bổ túc văn hoá, thực hiện đời sống mới, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cũng đạt nhiều kết quả. Các hủ tục, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan được giảm hẳn. Trong thời gian này chúng ta cũng đã đấu tranh thắng lợi với những khuynh hướng tư tưởng không đúng trong Mặt trận thống nhất như đòi quyền tự do dân chủ tư sản trong ngành tư pháp, tư tưởng phục Mỹ, sợ Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Để chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, thực hiện chủ trương “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”, khi địch mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng Bắc Bộ, các đảng bộ địa phương đã đưa hàng loạt cán bộ vào vùng địch tạm chiếm, tổ chức các đại đội độc lập, các đội vũ trang tuyên truyền để phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, diệt tề, trừ gian, phát triển chiến tranh du kích, xây dựng các vùng căn cứ sau lưng địch. ở các đô thị bị địch tạm chiếm, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân cũng bùng lên mạnh mẽ chống việc thành lập chính phủ bù nhìn kết hợp với các cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang vào các căn cứ, kho tàng của địch. ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân, bãi khoá của học sinh, bãi thị của tiểu thương. Tháng 4- 1949, các nhân sĩ trí thức ở Sài Gòn đã ra bản tuyên ngôn “chống giải pháp Bảo Đại” có 900 chữ ký. Hơn 3.000 tờ báo “Tổ quốc trên hết” của Thành hội Liên Việt thành phố được phát hành cùng với truyền đơn rải trắng đường phố, khẩu hiệu viết trên các tường nhà phản đối việc thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại.

Để đáp ứng yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, năm 1949 Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập trường Đảng miền Nam mang tên “Trường Trường Chinh”. Nhiệm vụ của Trường là trang bị những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng… cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt của khu ủy, tỉnh ủy, quân đội, đoàn thể. Từ 1949 đến 1954 Trường đảng miền Nam đã mở lớp đào tạo bồi dưỡng gần 2000 cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, trong đó nhiều đồng chí được tăng cường cho hệ thống Tuyên huấn và Trường đảng”[18].

Công tác vận động quần chúng có ý nghĩa rất quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Ngày 15- 10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật. Bài báo tuy ngắn gọn nhưng nội dung rất súc tích. Người phát triển những quan điểm về quan hệ giữa Đảng với nhân dân đã trình bày trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, nêu ra một cách sáng tỏ những quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận. Điểm xuất phát của công tác dân vận là ở chỗ: nước ta là một nước dân chủ do Đảng lãnh đạo “mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “công việc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm của dân”, “chính quyền, đoàn thể các cấp đều do dân tổ chức nên”. Người định nghĩa một cách đầy đủ về công tác dân vận “dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng của toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”. Tất cả mọi lực lượng trong hệ thống chính trị đều phải làm công tác dân vận, làm cho dân biết, dân hiểu, học hỏi nhân dân, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện, miệng nói tay làm.

Trong lúc cuộc kháng chiến của ta tiến triển thuận lợi thì cách mạng Trung Quốc giành được thắng lợi to lớn.

Ngày 01- 10- 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Đầu năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với ta. Nước ta bắt đầu nhận được sự viện trợ về vật chất của phe xã hội chủ nghĩa và trực tiếp liên hệ được với thế giới bên ngoài. Trước thất bại của Pháp, Mỹ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, thúc ép Pháp “trao trả độc lập” cho bù nhìn Bảo Đại, và đưa đoàn cố vấn quân sự Mỹ sang Việt Nam. Ngày 18-10- 1950, Trung ương Đảng ra chỉ thị về tuyên truyền thắng lợi ngoại giao của ta, đồng thời ngăn ngừa tâm lý chủ quan, ỷ lại; vạch âm mưu của Mỹ can thiệp vào chiến tranh Đông Dương.

Ngày 27-01- 1950, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, chủ trương tích cực đẩy mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới “hoàn thành nhiệm vụ chuyển sang tổng phản công”. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị, công tác tuyên truyền cổ động đã được triển khai mạnh mẽ, cổ vũ cho việc tổng động viên nhân tài, vật lực cho kháng chiến theo khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Hàng chục vạn thanh niên nô nức xung phong tòng quân. Ở vùng tự do, nhân dân ta đã hăng hái đóng góp lương thực, tiền bạc, vật tư cho kháng chiến. Hàng vạn nhân dân cùng với các chiến sĩ công binh tham gia các chiến dịch làm đường để phục vụ các cuộc chiến đấu lớn sắp tới ở Việt Bắc.

Ở vùng địch tạm chiếm, phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển có thời gian rất quyết liệt. Ngày 09-01-1950, hơn 3.000 học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình đòi trả tự do cho 5 học sinh bị băt. Cuộc biểu tình bị đàn áp dã man. Hàng chục vạn học sinh và nhân dân Sài Gòn đã đi đưa tang học sinh Trần Văn ơn bị địch bắn chết. Ngày 13-01- 1950, hầu hết học sinh, sinh viên Hà Nội bãi khoá để hưởng ứng cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Từ đó, ngày 9- 1 hằng năm trở thành Ngày học sinh, sinh viên Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, chống đế quốc xâm lược.

Ngày 19-3- 1950, khi Mỹ đưa hai tàu chiến đến Sài Gòn, hàng chục vạn nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn rầm rộ xuống đường biểu tình bất chấp sự đàn áp của địch, giương cao cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đế quốc Mỹ cút đi”. Kết quả là Mỹ phải rút hai tàu chiến ngay đêm ấy, bãi bỏ cuộc biểu dương lực lượng của chúng. Ngày 19-3-1950 vẻ vang trở thành Ngày toàn quốc chống Mỹ của nhân dân ta.

Trước tình hình thuận lợi trong nước và ngoài nước, trong nội bộ Đảng đã có tư tưởng chủ quan, nóng vội dẫn đến một số lệch lạc như: có nơi động viên nhân tài, vật lực quá mức ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân, tập trung bộ đội chủ lực quá sớm làm yếu phong trào du kích, đấu tranh trong các thành phố bị tạm chiếm không chú ý đầy đủ đến việc bảo vệ cơ sở. Mùa hè năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào, cán bộ Liên khu 4 phê bình sai lầm trong việc thực hiện chính sách động viên. Đồng chí Trường Chinh viết bài “Nhận định đúng, hành động đúng” và một số bài khác đăng trên Tạp chí Cộng sản phê phán tư tưởng nóng vội, chủ quan như muốn tổng phản công ngay khi quân giải phóng Trung Quốc tiến đến biên giới nước ta, phê phán tư tưởng bi quan khi ta gặp những khó khăn mới hoặc khi địch có những cố gắng mới, nêu ra những phương châm hành động đúng đắn về tổng động viên, về xây dựng lực lượng vũ trang và về công tác vùng sau lưng địch.

Trung ương Đảng ra chỉ thị cho đảng bộ Liên khu 4 và các Liên khu khác căn cứ vào thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tự kiểm điểm và tự phê bình trước quần chúng. Nhờ đó những lệch lạc đã được uốn nắn, sủa chữa bước đầu, ý thức kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh được quán triệt hơn.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng huấn luyện, tháng 5-1950 Ban Bí thư triệu tập Hội nghị huấn luyện toàn qụốc lần thứ nhất. Đến thăm và nói chuyện với hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba vấn đề lớn: Phải thiết thực, chu đáo trong công việc huấn luyện; phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học; khuyết điểm cần sửa chữa ngay trong việc huấn luyện. Người nói, lớp huấn luyện mở không ít nhưng các địa phương và các ngành vàn kêu thiếu cán bộ, “vì việc huấn luyện còn hữu danh vô thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực". Để việc huấn luyện được thiết thực, chu đáo thì người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiêu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, và phải học thêm mãi. Học lý luận là để áp dụng vào việc làm, hiểu lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Ngoài lý luạn phải dạy công tác, dạy văn hoá, dạy chuyên môn cho cán bộ. Người nêu ra 6 điểm về cách huấn luyện cần chú ý: Cốt thiết thực, chu đáo, hơn tham nhiều; huấn luyện từ dưới lên trên; gắn liền lý luận với công tác thực tế, phải nhằm đúng nhu cầu; chú trọng việc cải tạo tư tưởng; lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc, đồng thời phải học những nghị quyết, chỉ thị, luật, lệnh của doàn thể và Chính phủ, tổ chức trao đổi kinh nghiệm qua thực tế công tác của học viên. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tự động học tập. Học để sửa chữa tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao tin tưởng, học để hành. Người yêu cầu sửa chừa ngay khuyết điểm: lớp quá đông, chương trình không tốt; mở lớp lung tung, thiếu người giảng, chỉ tốn gạo mà học thì táp nham. Phải hợp lý hoá, nghĩa là: mở lớp nào cho ra lớp ấy, lựa chọn người dạy và người đến học cho cẩn thận.

Bài nói của Bác rất thiết thực, cụ thể, chỉ đạo các cấp, các ngành quán triệt phương châm coi trọng chất lượng trong công tác huấn luyện và nâng cao ý thức tự giác học tập của cán bộ, đảng viên.

Ngày 14-9- 1950, Trung ương có quyết định thành lập Ban Tuyên truyền và Ban Giáo dục Trung ương. Ban Tuyên truyền do đồng chí Trường Chinh phụ trách và đồng chí Tố Hữu làm Trưởng ban, Ban Giáo dục do đồng chí Hà Huy Giáp làm Trưởng ban.

Tháng 6- 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi sát mặt trận, gửi thư cho các chiến sĩ căn dặn phải dũng cảm, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt địch “chỉ cho đánh thắng, không cho đánh bại". Người ra trận địa, đi thăm bộ đội, dân công, thể hiện ý chí quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đã gây xúc động và cổ vũ mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ.

Chiến dịch Biên giới đã giành thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta với Pháp, từ đó quân ta liên tiếp giành quyền chủ động tiến công đẩy lùi đỉch vào thế bị động đối phó.

Lòng tin của nhân dân ta vào thắng lợi cuối cùng được củng cố và nâng cao. Tuy nhiên trong một số người lại nảy sinh tư tưởng chủ quan, nóng vội cho là có thể đánh nhanh, thắng nhanh.

Trong cán bộ lúc này có một số biểu hiện tư tưởng sai lầm quan liêu, ham cấp bậc, địa vị; Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bài báo đăng trên báo Sự thật “Phải chữa cái bệnh cấp bậc” [ngày 15-7- 1950] “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu” [ngày 2-9- 1950] nhắc nhở cán bộ gột sạch óc quan liêu, ngôi thứ quan cách mạng"[19], chỉ ra những biểu hiện, nguyên nhân và cách sửa chữa. Người viết: “Nếu không lo chừa, thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ hoàn toàn bị đào thải.

Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:

- Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết

- Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân

Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.

- Phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[20]

4. QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG, ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TỚI THẮNG LỢI QUYẾT ĐỊNH

Tình hình trong nước và thế giới đã có những chuyển biến quan trọng vào đầu năm 1950. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải họp Đại hội để hoàn chỉnh và bổ sung đường lối cách mạng, tổ chức lại Đảng cho phù hợp, đồng thời phải xác định những chính sách, biện pháp để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Đại hội lần thứ II của Đảng được tiến hành trong tháng 2- 1951.

Đồng chí Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị khái quát cuộc vận động cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trong 2l năm, nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này làTiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới[21]. Để hoàn thành sự nghiệp lãnh đạo cách mạng và đưa kháng chiến đến thắng lợi, Đảng phải ra hoạt động công khai và tổ chức lại cho thích hợp với tình hình mỗi nước ở Đông Dương

Báo cáo nêu cao thắng lợi của cách mạng tháng 8- 1945: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảngmới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[22].

Về nhiệm vụ cách mạng trước mắt, báo cáo viết: "Nhiệm vụ thứ nhất, nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó"[23].

Để đưa kháng chiến đến thấng lợi, về mặt công tác tư tưởng, báo cáo nhấn mạnh đến việc phát triển tinh thần yêu nước. " Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm làng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiêm khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. . .

Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[24].

Đồng chí Trường Chinh trình bày báo cáo "Bàn về cách mảng Việt Nam". Bản báo cáo xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược [thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ] và bè lũ bù nhìn bán nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xoá bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo cũng xác định nhiệm vụ chống phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ chống đế quốc, nhưng phải có kế hoạch làm từng bước để vừa bồi dưỡng và phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững được khối đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến.

Về triển vọng của cách mạng Việt Nam, báo cáo kháng định: "Vì giai cấp công nhân và Đang ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cho nên cách mạng đó không thể không tiến lên chủ nghĩa xã hội. . . Từ nay đến chủ nghĩa xã hội, nước ta phải trải qua một thời gian dài. Thời gian dài đó, tuỳ theo sự thay đổi về nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, tuỳ theo những biến hóa trong hàng ngũ kẻ thù và hàng ngũ bạn đồng minh của giai cấp công nhân mà chia ra nhiều giai đoạn. . . Vì nước ta bị xâm lược, chùa thoát hẳn được ách đế quốc; lại là một nước nông nghiệp và nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển. Muốn có độc lập, dân chủ và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chủ yếu trước mắt là phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thực hiện khẩu hiệu người cầy có ruộng"[25]

Báo cáo "Bàn về cách mạng Việt Nam" là một văn kiện lịeh sử quan trọng. Nó đã bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất khuất chống xâm lược, trong thời đại mới quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Đồng chí Tố Hữu trình bày báo cáo bổ sung về "Xây dựng văn nghệ nhân dân Việt Nam".

Sau khi nhận xét văn nghệ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và những bước đầu của văn nghệ Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, báo cáo xác định những nhiệm vụ cụ thể của việc xây dựng văn nghệ nhân dân:

- Đoàn kết rộng rãi những người công tác văn nghệ phụng sự kháng chiến kiến quốc, bảo vệ hòa bình thế giới. . . "sự đoàn kết phải đứng trên lập trường phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến, không thể đoàn kết một cách vô nguyên tắc theo đuôi những người văn nghệ lạc hậu".

- Đẩy mạnh sáng tác và biểu diễn, nâng cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Chống tư tưởng mất tự tin, tự ty muốn "thoát ly công tác văn nghệ gác bút. . . để cầm súng, cầm bừa" "không thể có triển vọng sáng tác bằng tài năng trẻ thì nên thôi sáng tác". Chống khuynh hướng "muốn làm to, cầu toàn trách bị" muốn xây dựng "tác phẩm to lớn” không thực tế, không hợp thời.

Bồi dưỡng hướng dẫn phong trào văn nghệ quần chúng, chống thái độ khinh rẻ khả năng sáng tạo nghệ thuật của quần chúng, không chú ý nâng đỡ, phát triển những tài năng mới". Chú ý đặc biệt văn nghệ miền núi, giữ gìn bản sắc của mỗi dân tộc, tránh khuynh hướng “Kinh hóa”.

- Tích cực đấu tranh chống văn nghệ phản động của Pháp, Mỹ. Chống lại những nọc độc văn nghệ của địch reo rắc "tâm lý cầu an, sợ chết, thích khoái lạc", "dùng văn nghệ mà mở mang ánh sáng tự do và lửa chiến đấu vào vùng địch tạm chiếm".

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ về văn nghệ - cán bộ chính trị đặc biệt là cán bộ tuyên truyền, giáo dục phải học lý luận văn nghệ để lãnh đạo phong trào văn học nghệ thuật, bồi dưỡng trình độ chính trị, lý luận cho những người làm công tác văn ngbệ.

Đại hội đã thảo luận và thông qua Chính cương, Điều lệ mới của Đảng, quyết định Đảng ra công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, quyết định xuất bản báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng thay thế cho tờ Sự thật.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội II, Hội nghị lần thứ nhất [tháng 3- 195 1], thứ hai [tháng 10- 195 l] và thứ ba [tháng 4- 1952] [khoá II] của Trung ương Đảng đã vạch ra nhũng chủ trương và biện pháp về đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch, về xây dựng nền kinh tế, tài chính trong kháng chiến, về xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng Đảng để bảo đảm các yêu cầu của cuộc kháng chiến. Mở đầu cho việc tuyên truyền quán triệt nghị quyết của Đại hội II, ngày 03-3- 195 l, Ban Chấp hành Trung ương đã tổ chức lễ ra mắt của Đảng trước Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Sau khi đồng chí Trường Chinh báo cáo về việc thành lập Đảng, về Chính cương và chính sách Mặt trận của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tóm tắt mục đích, nhiệm vụ, các chính sách lớn của Đảng. Người nhấn mạnh về tính chất của Đảng: "Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.. .

Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân.

Tuy vậy, Đảng Lao động Việt Nam cũng do nhiều người tổ chức lại mà thành. Mà người thì ai cũng có ít nhiều khuyết điểm. Vì vậy Đảng Lao động Việt Nam mong mỏi và hoan nghênh sự phê bình thật thà của các đảng phái và đoàn thể bạn, của các nhân sĩ và của toàn thể đồng bào để cho Đảng tiến bộ mãi. . . "[26]

Ngày 02-4- 195 l, Ban Bí thư ra chỉ thị về vấn đề Đảng ra công khai. Ngày 16-4-195l, Trung ương có quyết định thành lập Ban Tuyên huấn Trung ương do đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban.

Thi hành nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương và chỉ thị của Ban Bí thư, các cấp đảng bộ đã tổ chức việc nghiên cứu Chính cương, Điều lệ của Đảng, nghị quyết Đại hội và dựa vào bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Đại hội Mặt trận để làm công tác tuyên truyền cổ động trong nhân dân. Các đảng bộ ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích trong khắp cả nước đều tổ chức được các buổi lễ ra mắt, với đại biểu các đoàn thể, Mặt trận, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, yêu cầu phê bình chính sách, chủ trương, phê bình cán bộ, đảng viên. Những nơi tiến hành tốt đã thu được nhiều ý kiến đóng góp của cán bộ và nhân dân về công tác của địa phương, thiết thực giáo dục cho cán bộ, đảng viên về ý thức tiên phong gương mẫu, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, tăng thêm lòng tin tưởng của nhân dân đối với Đảng, đẩy mạnh công tác kháng chiến của địa phương.

Ngày 08-12-195l, Ban Bí thư ra chỉ thị về việc học tập và phổ biến lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp kỷ niệm 5 năm toàn quốc kháng chiến.

Đợt tuyên truyền giáo dục này đã được tiến hành rộng rãi cả ở vùng tự do và vùng sau lưng địch, làm cho cán bộ và nhân dân thấm nhuần hơn ý thức kháng chiến lâu dài, nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, lòng tin vào thắng lợi cuối cùng, quyết tâm thi đua hoàn thành các nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, công tác, chống các khuynh hướng bi quan, dao động sợ hy sinh gian khổ, nôn nóng, ỷ lại viện trợ bên ngoài.

Nhân dịp triển lãm hội họa năm 195 l, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thân ái hỏi thăm anh chị em hoạ sĩ và các văn nghệ sĩ nói chung. Trong thư, Người viết:

“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận.

Anh chị em là chiến sĩ trên mật trận ấy. . .

…..Chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ. . . phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. . .

…. Chiến sĩ nghệ thuật cẩn có lập trường vững, tư tưởng đúng. . .

Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. . . Muốn tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi, thì anh chị em nghệ thuật cần phải dùng phương pháp tự phê bình và phê bình.

Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị.

Đúng lắm. Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"[27].

Từ khi cuộc kháng chiến của ta chuyển sang thời kỳ mới yêu cầu của tiền tuyến cao hơn trước, địch lại mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng, chúng ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế tài chính. Đời sống nhân dân vùng tự do ở nhiều nơi cũng khó khăn hơn, có người đã tản cư lại chạy vào vùng tạm Chiếm. Để khắc phục những khó khăn ấy, Đảng và Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất và tiết kiệm, ban hành chính sách thuế mới để huy động sự đóng góp của nhân dân được ổn định và công bằng hơn. Các địa phương đã phát triển sản xuất nông nghiệp thành một phong trào quần chúng mạnh mẽ và rộng khắp ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích theo khẩu hiệu “ăn no, đánh thắng”, “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương" [Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh]. Không những nông dân thi đua sản xuất mà bộ đội, công nhân, viên chức đều tranh thủ trồng trọt, chăn nuôi để tự túc một phần. Công nhân thi đua sản xuất nông cụ và vũ khí, đạn dược.

Công tác tuyên truyền về thuế nông nghiệp, nguồn thu chính của Nhà nước được tiến hành sâu rộng để làm rõ nghĩa của chính sách thuế mới, tính chất công bằng của nó để vừa thu đủ thuế, vừa thực hiện đúng đường lối giai cấp trong chính sách thuế: huy động sự đóng góp nhiều hơn của địa chủ, phú nông, giảm nhẹ cho bần cố nông, khuyến khích người trực tiếp lao động. Qua công tác này, cán bộ cũng được giáo dục thêm về ý thức giai cấp, về đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn.

Từ năm 195l, thực hiện kế hoạch chiến tranh Tátsinhi, địch tàn phá hàng trăm làng mạc, dồn dân vào vùng kiểm soát, xây dựng phòng tuyến "boong ke”, lập "vành đai trắng”. Chúng đẩy mạnh việc càn quét, bình định, phát triển nguỵ quyền, ra sức bắt lính. Công tác tuyên truyền ở vùng sau lưng địch đã vạch rõ mục đích của kế hoạch Tátsinhi, thế yếu và bị động của nó, những chủ trương và phương châm đấu tranh trong vùng sau lưng địch, khắc phục thái độ chủ quan, mất cảnh giác, đấu tranh không đúng phương pháp để tổn thất cơ sở chính trị. Trong điều kiện đầy gian khổ khó khăn, cán bộ ta đã “bám đất, bám dân” dùng tuyên truyền miệng là chính kết hợp với việc lập các đội vũ trang tuyên truyền đi sâu vào vùng địch kiểm soát phát động quần chúng đấu tranh. Các tỉnh đều xuất bản các bản tin, tài liệu ngắn, truyền đơn để tố cáo tội ác của địch, đưa tin chiến thắng quân sự và các cuộc đấu tranh trong vùng địch kiểm soát, phổ biến kinh nghiệm và gương đấu tranh anh dũng của nhân dân. Hà Nội, Sài Gòn đều có báo bí mật, đồng thời lợi dụng khả năng hợp pháp để vận động trí thức tiến bộ xuất bản báo công khai hoặc phân công cán bộ viết báo công khai.

Tháng 11- 195l, địch mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình. Phối hợp với việc tấn công của quân chủ lực, các đảng bộ địa phương chỉ rõ thời cơ thuận lợi, phát động quần chúng nổi dậy phá vỡ hệ thống nguỵ quân, nguỵ quyền ở nhiều nơi, mở rộng khu du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong năm 1952, chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch trên toàn quốc, làm thất bại các cuộc càn quét của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng. Phong trào chống giặc bắt lính trở thành phong trào quần chúng. Nhân dân và các gia đình có con em đi lính được tuyên truyền vận động kéo lên đồn, bốt đòi chồng con về nhà làm ăn. Hàng vạn lính nguỵ, dân vệ đã bỏ ngũ hoặc ra hàng.

Phong trào thi đua yêu nước sau bốn năm phát động đã đạt nhiều kết quả. Từ 30-4-1952 đến 06-5-1952, Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu đã họp tại Việt Bắc. Có những anh hùng tiêu biểu như: La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên [quân đội, dân quân du kích], Ngô Gia Khảm [công nhân], Hoàng Hanh [nông dân] , Trần Đại Nghĩa [trí thúc] . Sau Đại hội, việc tuyên truyền cho các gương anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển hình sản xuất, chiến đấu giỏi bằng nhiều hìnb thức [sách, báo, phát thanh, nói chuyện, ca kích. . .] đã cổ vũ mạnh mẽ cán bộ và nhân dân đưa phong trào thi đua yêu nước lên một bước lới. Cán bộ cũng được rèn luyện thêm về tinh thần tiên phong, gương mẫu để xứng đáng là người lãnh đạo phong trào.

Trong các năm 195 l, 1952, thi hành nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ II và nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, để tăng cường chất lượng công tác tư tưởng, các Ban Tuyên huấn từ Trung ương tới các Liên khu và tỉnh đã được bổ sung và kiện toàn ở mức độ khac nhau. Ban Tuyên huấn Trung ương đã lập ra các Tiểu ban biên tập, Tiểu ban huấn học, Tiểu ban văn nghệ, Tiểu ban giáo dục. Theo hướng dẫn của Ban Tuyên huấn Trung ương, một số tỉnh ở vùng tự do đã bước đầu xây dựng chế độ báo cáo viên, làm thí điêm xây dựng "lưới tuyên truyền" ở cơ sở, chấn chỉnh việc giảng dạy trong các trường Đảng, quy định chế độ học tập cho cán bộ. Các Ban Tuyên huấn ở các tỉnh trong vùng sau lưng địch đã mở được nhiều lớp huấn luyện đào tạo bồi dưỡng cán bộ về công tác vùng sau lưng địch.

Về báo chí, đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng, tăng số lượng phát hành. Báo Nhân dân phát hành 20.000 bản/ngày; báo Cứu quốc: 25.000 - 30.000 bản/ngày.

Cùng với báo Nhân dân ở Trung ương còn có báo Nhân dân liên khu - là cơ quan của Ban Chấp hành đảng bộ khu 5, báo Nhân dân miền Nam là cơ quan của Trung ương cục miền Nam. Cùng với báo Cứu quốc ở Trung ương, còn có báo Cứu quốc khu III, Cứu quốc khu IV, Cứu quốc Thủ đô, Cứu quốc Nam Bộ… Tờ báo Vệ quốc quân và Quân du kích hợp nhất lại thành tờ Quân đội nhân dân xuất bản hàng tuần [10-1950]. Các tỉnh đều có bản tin, một số tỉnh có báo địa phương hoặc ra số báo đặc biệt trong các đợt tuyên truyền lớnn. Cùng với Đài Tiếng nói Việt Nam. Đài Tiếng nói Nam, Đài Tiếng nói Sài Gòn - Chợ lớn tự do cũng khắc phục nhiều khó khăn, chống lại sự phá hoại của địch, duy trì hoạt động có hiệu quả.

Về văn nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương đã tổ chức việc bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ, lập các đoàn công tác, các đội vân công đi sát quần chúng phục vụ việc tuyên truyền kháng chiến, mở rộng phong trào văn nghệ quần chúng, phát triển ngành điện ảnh, mở trường Mỹ thuật, cử người đi học các môn nghệ thuật ở nước ngoài. Ngành giáo dục phồ thông được tiếp tục tổ chức lại theo phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân và phục vụ sản xuất. Một số trường phổ thông lao động ở Trung ương và các tỉnh được thành lập để bồi dưỡng văn hoá cho các chiến sĩ thi đua, cán bộ công nông, binh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm việc cải tiến, nâng cao chất lượng các hoạt động tư tưởng. Ngoài các bài phát biểu đối với công tác huấn luyện, công tác báo chí, công tác văn nghệ, năm l950, với bút danh X.Y.Z. Bác viết bài "Người tuyên truyền và cách tuyên truyền". Với lối văn giản dị, dễ hiểu. Người viết: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Muốn thành công, phải biết cách tuyên truyền, có nội dung tốt còn phải biết cách nói giản đơn, rõ ràng, thiết thực, phải có lễ độ. Người tuyên truyền phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm. Dân sinh hoạt thế nào ta phải sinh hoạt như họ. Thấy dân làm việc gì cũng ra tay làm giúp. Thái độ phải mềm mỏng. Làm đúng như thế thì sẽ thành công to. Ngày 17-8- 1952 Bác phát biểu về "Cách viết", đặc biệt là viết ngắn.

Năm 1952, trong một cuộc họp với cán bộ ở khu căn cứ Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về vấn đề thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người đã giải thích lợi ích, ý nghĩa của việc thực hành tiết kiệm, những biểu hiện của bệnh quan liêu và nạn tham ô, lãng phí, coi việc chống lại nó cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. .

Người viết: " . . . Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm . . . phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta.

Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn tham ô. Mà có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu

…. Bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. . . Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quantrọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. . . Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ “giặc ở trong lòng". Nếu chiến sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. . ."[28]

Trong bài nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển toàn diện và sâu sắc những quan điểm về chống quan liêu, tham ô, lãng phí ở các bài viết trước về vấn đề này. Cho đến nay bài nói chuyện vẫn có ý nghĩa thực tiễn trong việc xây dựng đất nước.

Trong hai năm 1952, 1953 thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, cuộc vận động chỉnh huấn trong Đảng, trong quân đội, chính quyền, đoàn thể đã được tiến hành. Đây là cuộc vận động giáo dục rộng lớn nhằm chấn chỉnh Đảng, sửa chữa những khuyết điểm chính của cán bộ, đảng viên, nângcao trình độ tư tưởng, ý thức công tác của cán bộ, đảng viên, đồng thời chỉnh đốn tổ chức ở các chi bộ nông thôn. Cách làm chỉnh huấn là tiến hành một đợt học tập ngắn ngày kết hợp với phê bình, tự phê bình, làm từ Trung ương tới khu, tỉnh, huyện.

Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương Chủ tịch Hồ Chí Minh [11-5- 1952] chỉ rõ vì sao phải tiến hành chỉnh huấn: "Đảng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin, là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất. Có đường lối, chính sách đúng nhất. Có cơ sở khắp cả nước. Có những cán bộ, đảng viên tận tuỵ hy sinh vô cùng oanh liệt.

Nhưng vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng bạn và địch; bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hoá khá nặng, v.v. .

Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch kiểu mẫu Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm tròn nhiệm vụ của Đảng. . ."[29]. Người căn dặn các đồng chí học viên học tập tốt, thật thà tự phê bình và phê bình, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, vì “Cán bộ quyết định mọi việc” Công việc thành hay bại phân lớn là do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của cán bộ.

Các đợt chỉnh huấn được hầu hết cán bộ tham gia và được các cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ. Chỉnh huấn đã làm cho cán bộ thấu suốt hơn đường lối cách mạng, quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, quan điểm quần chúng, nâng cao ý chí quyết tâm chống đế quốc, phong kiến, chống những khuynh hướng bi quan, dao động, nóng vội, ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài, thiếu tin tưởng vào quần chúng, những biểu hiện mơ hồ, hữu khuynh trong việc thực hiện chính sách ruộng đất. Tuy nhiên, những kết quả trên có phần bị hạn chế do có một số khuyết điểm: chỉnh huấn chưa dựa trên cơ sở tổng kết công tác, cách làm còn máy móc, rập khuôn, phê bình thiếu khách quan thường phủ nhận ưu điểm, có trường hợp đả kích cá nhân, truy ép, chụp mũ gây không khí nặng nề sau chỉnh huấn và ảnh hưởng xấu tới việc chỉnh đốn tổ chức.

Tháng 7-1953, sau các thất bại ở Tây Bắc, Thượng Lào, được Mỹ tăng cường viện trợ, Chính phủ Pháp thông qua kế hoạch quân sự Nava. Pháp và Mỹ đều hy vọng kế hoạch này sẽ tạo ra thế mạnh về quân sự, chuyển bại thành thắng trong vòng 18 tháng. Tháng 9- 1953, Bộ chính trị có quyết định lịch sử về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 - 1954, giữ vững quyền chủ động đánh địch ở chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên chiến trường cả nước và toàn Đông Dương.

Tháng 11- 1953, ta tiến quân lên Tây Bắc và giải phóng Lai Châu, chuẩn bị tiến công Trung Lào và Tây Nguyên. Trước nguy cơ bị uy hiếp, địch nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm quân sự. Đồng thời địch phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc tiến công thắng lợi của ta ở Trung Lào, Thượng Lào, Tây Nguyên và đồng bằng Bắc Bộ. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ để tiêu diệt quân địch, đập tan kế hoạch Nava.

Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9- 1953, công tác tư tưởng đã được triển khai mạnh mẽ để làm rõ tình hình và chủ trương của Trung ương, phục vụ cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân. Hàng ngàn cán bộ được học tập và huy động ra phục vụ chiến trường hoặc vào công tác ở vùng sau lưng địch, hàng chục vạn dân công được động viên ra phục vụ tiền tuyến. Khi có quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, công tác tư tưởng đã tập trung làm rõ quyết tâm chiến lược của Trung ương, khắc phục tư tưởng hoài nghi, do dự, thiếu tin tưởng vào thắng lợi. Yêu cầu của cuộc chiến đấu càng to lớn, nặng nề hơn, công tác tuyên truyền động viên cho việc chuẩn bị chiến trường càng khẩn trương, sôi nổi. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng" đã biến thành hành động thực tế của hàng triệu nhân dân ta ở hậu phương cả vùng tự do và các vùng căn cứ du kích. Nhân dân đã nhiệt tình cống hiến sức người, sức của cho tiền tuyến. Các lực lượng thông tin, tuyên truyền, văn nghệ của Trung ương, địa phương đã bám theo các đơn vị chiến đấu, các đoàn thanh niên xung phong, đoàn dân công để tiến hành công tác. Việc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ trở thành một cao trào cách mạng hào hùng lập nên những kỳ tích mà kẻ địch không thể ngờ tới.

Trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với cuộc chiến đấu oanh liệt của bộ đội ngoài mặt trận, hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh đã anh dũng mở hàng ngàn kilômét đường, phá bom nổ chậm trên các tuyến giao thông. Hàng chục vạn dân công vượt qua đèo dốc, thác ghềnh, bom đạn, vận tải hàng vạn tấn lương thực, vật tư cho mặt trận chỉ bằng đôi vai hoặc các phương tiện thô sơ: xe đạp, thuyền bè.

Từ đầu năm 1953, thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất. Mục đích của chính sách cải cách ruộng đất là xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, địa chủ, phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, giải phóng sức sản xuất, cải thiện đời sống cho nông dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi làm thí điểm ở một số tỉnh Việt Bắc, tháng 1- 1953, Đảng vạch ra Cương lĩnh ruộng đất, xác định đường lối chung của Đảng ở nông thôn và phương châm cải cách ruộng đất. Tháng 12- 1953, Quốc hội ban hành Luật cải cách ruộng đất. Công tác tư tưởng đã làm rõ mục đích của chính sách ruộng đất, sự cần thiết phải tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến, làm rõ đường lối giai cấp của Đảng, khắc phục tư tưởng sợ vỡ đoàn kết, sợ địa chủ phá hoại, thái độ lo lắng hoang mang, thiếu tin vào chính sách mặt trận dân tộc của Đảng. Việc tuyên truyền phát động quần chúng thực hiện chính sách ở cơ sở do các đội công tác trực tiếp tiến hành dưới sự chỉ đạo của các đoàn uỷ. Việc tuyên truyền rộng rãi chính sách thông qua các hội nghị, các phương tiện thông tin đại chúng do các cấp uỷ địa phương chỉ đạo.

Công tác tuyên truyền phát động quần chúng đã giáo dục ý thức giai cấp cho nông dân lao động, nâng cao khí thế cách mạng của nông dân vùng tự do, có ảnh hưởng tới nông dân vùng sau lưng địch. Nó động viên cao độ tinh thần cách mạng của nông dân hăng hái sản xuất, hăng hái đóng góp, đi dân công phục vụ tiền tuyến. Nó cũng động viên các chiến sĩ quân đội con em nông dân ngoài mặt trận hăng hái giết giặc. Từ tháng 4- 1953 đến tháng 7-1954 ta tiến hành 5 đợt giảm tô và một đợt cải cách ruộng đất trong kháng chiến, tuy có một số khuyết điểm, nhưng đã góp phần đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến, và vào thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.

Ngày 13-3- 1954, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cuộc chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trong thời gian chiến dịch dài chưa từng có trong cuộc kháng chiến nên đã có nhiều khó khăn, gian khổ. Đảng đã tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ và chiến sĩ ngoài mặt trận, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tích cực tiến công, ý chí quyết thắng, quyết tâm chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, khắc phục tư tưởng tiêu cực ngại gian khổ hy sinh, uốn nắn tư tưởng chủ quan, khinh địch khi có thắng lợi. Các gương chiến đấu quật cường, hy sinh oanh liệt được biểu dương trong toàn quân, toàn dân.

Dự đoán các khả năng phát triển, để tăng cường công tác tuyên huấn trước những diễn biến mới của tình hình, ngày 29-3-1954 Ban Bí thư ra chỉ thị số 71-CT/TƯ về việc chỉnh đốn sự lãnh đạo công tác tuyên truyền của các cấp uỷ đảng. Bản chỉ thị nhận xét: Trong năm vừa qua, các cấp uỷ đảng chưa thực sự chú trọng lãnh đạo công tác tuyên huấn, biểu hiện cụ thể là tình trạng “khoán trắng" cho cán bộ chuyên môn; không chăm lo kiện toàn tổ chức, cán bộ các ban tuyên huấn điều động, thuyên chuyển nhiều cán bộ tuyên huấn, nhiều cấp uỷ không cử cấp uỷ viên thực sự chuyên trách công tác tuyên huấn. Ban Bí thư yêu cầu các cấp chấm dứt tình trạng đó, nhất là năm nay cuộc đấu tranh chính trị giữa ta và địch sẽ ngày một phức tạp, nhiệm vụ tuyên huấn trong cuộc đấu tranh ấy rất nặng nề. Nội dung chấn chmh gồm 5 điểm: cấp uỷ cử l cấp uỷ viên chuyên trách công tác tuyên huấn; các cuộc họp của cấp uỷ phải đề ra những nét lớn về công tác tuyên huấn; không tuỳ tiện điều động cán bộ tuyên huấn, nhất là trưởng, phó ban, cấp tỉnh và cấp khu khi thay đổi cán bộ phụ trách tuyên huấn phải hỏi ý kiến Ban Tuyên huấn Trung ương; khi cần thiết huy động cán bộ tuyên huấn đi tham gia việc gì thì chú ý sử dụng đúng khả năng chuyên môn của họ; cấp uỷ thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tuyên huấn, kiểm tra, phê bình công tác tuyên huấn.

Việc thực hiện Chỉ thị 7l của Ban Bí thư đã kịp thời tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ - trước hết là cấp khu, cấp tỉnh đối với công tác tuyên huấn, đáp ứng nhiệm vụ công tác tư tưởng trong chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, trong phát huy chiến thắng Điện Biên Phủ.

Ngày 07-5-1954, ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trận chiến đấu lớn nhất trong lịch sử kháng chiến đã thàng lợi hoàn toàn. Chiến thắng Điện Biên Phủ được liên tục thông báo, tường thuật, bình luận trên đài phát thanh, báo chí, cổ vũ mạnh mẽ các chiến trường cả nước. Một cao trào tiến công và nổi dậy đã diễn ra ở các tỉnh Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Liên khu 5. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công, băi khoá, bãi thị nổ ra ở các đô thị. Hàng vạn nhân dân ở Hà Nôi, Hải Phòng, Huế đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng con, đòi chấm dứt chiến tranh. Hơn 300 trí thức Sài Gòn ký tuyên ngôn đòi Pháp ngừng chiến tranh xâm lược. Nguỵ quyền nhiều nơi tê liệt, hàng vạn ngụy quân bỏ ngũ trở về với nhân dân.

Song song với cuộc đấu tranh quân sự là cuộc đấu tranh ngoại giao. Tháng 11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên Thuỵ Điển về việc Chính phủ Pháp muốn giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Việt Nam, nói rõ lập trường thương lượng hoà bình của ta: ". . . Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của Việt Nam"[30]. Tháng 12- 1953, Bộ Chính trị ra nghị quyết về chủ trương của Đảng trong đàm phán, thương lượng. Căn cứ vào nghị quyết này, Ban Bí thư Trung ương đã ra thông tri giải thích rõ nghị quyết trên. Thông tri chỉ rõ tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuất phát từ nguyện vọng hoà bình của nhân dân ta, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai rêu rao hoà bình chỉ là lừa bịp, tuyệt đối không nên có ảo tưởng hoà bình, hoà bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được. Bọn đế quốc "chỉ chịu thương lượng khi nào chúng bị ta tiêu diệt thật nhiều sinh lực và tự nhận thấy không thương lượng hoà bình không được".

Công tác tư tưởng đã dựa vào thông tri của Ban Bí thư giải thích cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thấy rõ muốn có hoà bình và độc lập thật sự thì phải ra sức chiến đấu giành nhiều thắng lợi hơn, làm tan rã tinh thần quân đội Pháp và bù nhìn, đòi Pháp phải thương lượng với Chính phủ ta, khắc phục tư tưởng mệt mỏi, ngại gian khổ, hy sinh, ảo tưởng hoà bình sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Trong thời gian này, chúng ta cũng đã đẩy mạnh việc tuyên truyền cho đường lối đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, Campuchia, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới. Chúng ta đã tổ chức "Tháng đoàn kết hữu nghị Việt - Trung - Xô" có kết quả ở các vùng tự do và căn cứ du kích, cổ vũ nhân dân ta thêm phấn khởi, tin tưởng đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Tháng 5-1954, với bút danh CB, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Tuyên truyền" đăng trên Báo Nhân dân ngày 25-5-1954 về vấn đề chống lại "Chiến tranh bằng tuyên truyền của địch". Người viết. . . "nhiều cán bộ ta xem khinh việc tuyên truyền của địch. . .

Nghĩ như vậy là lầm to, là chủ quan, khinh địch rất nguy hiểm.. .

Giọt nước rỏ lâu đá cũng mềm...

Chúng ta phải đánh thắng địch về tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đánh thắng địch về mặt quân sự"[31]

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953- 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo thế mạnh cho phái đoàn ta ở Hội nghị Giơnevơ. Trong suốt quá trình hội nghị, ta đã tiến hành tuyên truyền lập trưởng chính nghĩa và những đề nghị cụ thể của ta để lập lại hoà bình ở Đông Dương, vạch rõ thái độ ngoan cố của Mỹ, Pháp, cổ vũ nhân dân ta đẩy mạnh kháng chiến giành nhiều thắng lợi hơn, cổ vũ nhân dân Pháp và nhân dân thế giới đấu tranh ủng hộ lập trường của ta đấu tranh đòi lập lại hoà bình.

Ngày 20-7- 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương, thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Nhân dân ta bước sang một thời kỳ lịch sử mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

*

* *

Sau hơn 3.000 ngày tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ [23-9- 1945 - 20-7- 1954], nhân dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi của kháng chiến là do nhiều nguyên nhân tạo nên, nhưng nhân tố có tính quyết định là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đẳn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo, chỉ đạo ấy có mục đích chính nghĩa, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo đã phát huy được sức mạnh của cả dân tộc, kết hợp được sức mạnh dân tộc và quốc tế để giành chiến thắng.

Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng đường lối và biến đường lối ấy thành phong trào kháng chiến của cả dân tộc, cả nước với tinh thần quyết chiến quyết thắng vì độc lập tự do.

Bước vào chiến tranh, ngay từ khi cuộc kháng chiến cục bộ nổ ra ở miền Nam, Đảng đã bắt đầu tiến hành việc tổng hợp kinh nghiệm lịch sử các cuộc kháng chiến của dân tộc, của nước ngoài, kinh nghiệm đấu tranh giành chính quyền, kinh nghiệm kháng chiến ở miền Nam. Đồng chí Trường Chinh viết: “Dựa vào sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc, một cuộc tổng hợp những kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm nước ngoài đang được thực hiện. . .[32]

Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi " đã khái quát kinh nghiệm lịch sử, trình bày chiến lược vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa đánh vừa xây dựng chế độ mới, phát triển những quan điểm đã được tổng kết trong chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương, dự đoán khả năng phát triển, khẳng định kháng chiến nhất định thắng lợi. Trong quá trình kháng chiến, Đảng đã xem xét đánh giá tình hình từng thời gian, vận dụng lý luận để tổng kết kinh nghiệm, từng bước nắm vững quy luật chiến tranh cách mạng, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối. Chính trong quá trình vừa làm, vừa học, phê bình, tự phê bình mà đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh được cụ thể hoá trong các thời kỳ phát triển.

Để biến đường lối ấy thành phong trào kháng chiến, công tác tư tưởng đã kiên trì, bền bỉ làm cho cán bộ và nhân dân ngày càng thông suốt đường lối, phát huy cao độ lòng yêu nước, khí phách kiên cường của dân tộc "quyết không chịa mất nước", "quyết không làm nô lệ". Mọi người đều hiểu được mục đích kháng chiến là cứu nước, cứu nhà nên toàn dân phải đánh giặc, đánh giặc phải lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Công tác tư tưởng đã thường xuyên tố cáo những tội ác dã man của địch để nâng cao lòng căm thù, ý chí quyết tâm kháng chiến, không ngại hy sinh gian khổ, vạch những thủ đoạn xảo quyệt của địch để đề cao cảnh giác. Đã kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần đoàn kết quốc tế, làm cho mọi người phân biệt được bọn thực dân xâm lược pháp với nhân dân lao động Pháp.

Công tác tư tưởng đã phê phán, đẩy lùi những khuynh hướng lệch lạc, phổ biến là bi quan, ngại đánh lâu dài, ngại hy sinh gian khổ, chủ quan khinh địch, thiếu cảnh giác, nôn nóng muốn đánh nhanh, thắng nhanh, ỷ lại viện trợ bên ngoài.

Để nâng cao tính tiên phong gương mẫu của đảng viên, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, Đảng đã rất coi trọng việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, tác phong cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chỉ đạo chặt chẽ các đợt giáo dục quan trọng như học tập thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp phê bình, tự phê bình năm 1947, học tập Chính cương, Điều lệ Đảng năm 195l, chỉnh huấn 1952 - 1953. Trong hoàn cảnh kháng chiến, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn được chú ý tiến hành thường xuyên.

Công tác tuyên truyền cổ động đã đi vào từng nhà, từng người, gắn việc tuyên truyền đường lối kháng chiến với cổ động kịp thời, sắc bén cho việc hoàn thành những nhiệm vụ kháng chiến từng thời kỳ. Nó đã thường xuyên biểu dương những điển hình tiên tiến, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy những điều tốt đẹp nhất trong con người và cộng đồng Việt Nam: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm, kiên cường, trí thông minh, tài năng sáng tạo, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết trong đấu tranh, v.v. . Mọi hoạt động văn học, nghệ thuật, giáo dục đều hướng vào phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Trong hoàn cảnh khó khăn, ngoài các báo chí ở Trung ương, các khu, tỉnh, thành phố đều xuất bản được báo hoặc bản tin phát hành tới các đơn vị cơ sở. Công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ quần chúng nhất là ca hát được phát triển rộng rãi làm cho cuộc kháng chiến tuy gian khổ nhưng không khí thôn xóm vẫn vui tươi lành mạnh.

Ở vùng sau lưng địch, ta đã lợi dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tiến hành công tác tuyên truyền như vận động các nhân sĩ, trí thức tiêu biểu ra tuyên bố có lợi cho kháng chiến, cử người viết bài trên các báo công khai. Khuyết điểm chính trong công tác tư tưởng thời kỳ này là có thời gian chưa quán triệt quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh thể hiện trong việc tuyên truyền nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công năm 1949, áp dụng máy móc, rập khuôn kinh nghiệm của nước ngoài trong việc chỉnh huấn cán bộ và trong công tác tuyên truyền phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất. . .

Nhìn chung trong kháng chiến, chỉ trừ một số rất ít kẻ phản động, người lầm đường, toàn thể dân tộc ta đã tham gia đánh giặc bằng nhiều hình thức. Đó là do sự lãnh đạo đúng đắn nhiều mặt của Đảng, trong đó có kết quả của công tác tư tưởng sâu rộng, sắc bén, có hiệu quả lớn. .

[1]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr4

[2]Hồ Chí Minh:Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.27

[3]Sđd, tr. 114

[4]Sđd, tr. 31

[5]Sđd, tr. 36-37

[6]Sđd, tr. 33

[7]Sđd, tr. 145

[8]Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương:Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1978, tr 42

[9]Theo Võ Nguyên Giáp:Những chặng đường lịch sử,Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr.374

[10]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.246

[11]Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương:Văn kiện Đảng 1945-1954,Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, xuất bản, Hà Nội, 1978, tr252

[12]Hồ Chí Minh:Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.480

[13]Xem: Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.229 -306

[14]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.314

[15]Sđd, tr. 557

[16]Sđd, tr. 464

[17]Sđd, tr. 626

[18]Xem:50 năm trường Đảng miền Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999

[19]Sđd, t.6, tr.68

[20]Sđd, t.6, tr.90

[21]Sđd, st.170-171

[22]Sđd, t.6, tr.159

[23]Sđd, t.6, tr.175

[24]Sđd, t.6, tr.171-172

[25]Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng: Văn kiện đại hội II, 1965, tr.110…[T.G]

[26]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, 1995, t.6, tr.184-185

[27]Sđd, tr. 368-369.

[28]Sđd, t.6, tr. 488, 489, 490, 495.

[29]Sđd, t.6, tr.479 - 480

[30]Sđd, 1996, t.7, tr. 168

[31]Sđd, t.7, tr. 284

[32]Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1948, tr. 7.

Theo Sơ thảo Lược sử Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Đăng lúc: 09/03/2021 [GMT+7]
100%

CHƯƠNG V

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Với chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ [7- 5- 1954] miền Bắc hoàn toàn giải phóng bước vào xây dựng CNXH. Nhưng ở miền Nam đế quốc Mỹ đã nhảy vào đặt ách cai trị bằng chủ nghĩa thực dân mới nhằm uy hiếp CamPuChia và

khống chế Lào.

Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: Dân tộc Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong suốt 9 năm kháng chiến [1945 - 1954], Thanh Hoá là vùng hậu phương vững chắc chi viện cao nhất,nhiều nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Sau hoà bình lập lại dưới sự lãnh đạo của Đàng bộ tỉnh các tầng lớp nhân dân trong tỉnh phấn khởi tự hào và khẩn trương triền khai thực hiện Nghị quyết 6 và 7 của Trung ương Đảng về việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chù, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế văn hoá, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà.

Song vào thời kỳ này cũng như các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Thanh phải đối mặt với những khó khăn phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân miền Bắc, trong đóThanh Hoá là một trọng điểm.

Tại miền Tây Thanh Hoá, địch đã cho máy bay lén lút tiếp tế vũ khí, lương thực, thực phẩm và quân trang cho bọn gián điệp, thổ phỉ ở vùng Tam Chung, Quang Chiểu [Quan Hoá], tăng cường tuyên truyền xuyên tạc với các luận điệu : “ Đầu năm hoà bình, cuối năm chiến tranh”, “ chế độmiền Bắc sưu cao, thuế nặng", “bên Lào hàng hoá rẻ và dễ mua” nhằm làm giảm niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Chính phủ, hạ thấp ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bằng biện pháp kíchđộng, lung lạc, hăm doạ, cưỡng ép, chúng đã đưa một số đồng bào các dân tộc di cư sang Lào, phá hoại sự đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc Việt - Lào.

Ở một số vùng có dân cư theo đạo Thiên chúa, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp nhằm tạo cơ sở phá hoại lâu dài. Dựa vào Điểu 14D của Hiệp định Giơnevơ, bọn phản động đã tung ra luận điệu “miền Bắc sẽ chết đói”, “miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”. Bằng những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp và sự cưỡng ép tàn bạo của địch, hàng ngàn giáodân đã lìa bỏ quê hương di cư vào Nam. Ởhuyện Nga Sơn, Tĩnh Gia, bọn phản động lợi dụng tôn giáo tập hợp bọn côn đồ chống đối, vu cáochính quyền cách mạng. Ở các huyện Quảng Xương, Nông Cống, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, bọn phản động đã len lỏi vào nhà thờ vào các khu vực tập trung dân theo đạo Thiên chúa để tuyên truyền, kích động và tổ chức di cư....

Cùng với khó khăn phức tạp do địch gây ra là những khó khăn về sự nghèo nàn lạc hậu vốn có của nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc lại bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề. Tuyến đê sông Mã, Sông Chu bị vỡ, mất mùa xẩy ra liên tiếp, năm 1954 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh, các loại dịch bệnh đồng thời phát sinh.

Đứng trước tình hình khó khăn đó, Đảng bộ Thanh Hoá vẫn bình tĩnh sáng suốt, kịp thời đề ra chủ trương biện pháp đúng đắn, tổ chức lãnh đạo toàn dân khắc phục khó khăn, trở ngại đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên cùng cách mạng cả nước.

Là một huyện trọng điểm của tinh, sau ngày giải phóng Thọ Xuân cũng phải đối mặt trực tiếp vài những khó khăn phức tạp do địch và thiên tai gây ra.

Tại các nhà thờ và khu vực tập trung dân cư theo đạo Thiên chúa, bọn phản động đội lốt tôn giáo đã ráo riết hoạt động, tung tin bịa đặt, tuyên truyền kích động tập hợp dân chuẩn bị di cư.

Tháng 9 - 1954, mưa lớn kéo dài nước từ thượng nguổn đổ về dữ dội, mực nước sông Chu dâng cao, một số đoạn đê ở Liên Phô [xã Thọ Nguyên] bị vỡ gây ra ngập úng hàng ngàn ha lúa sắp đến ngày thu hoạch. Đặc biệt ở các xã Thọ Thế, Thọ Tân, Thọ Dân, Thọ Cường, Xuân Thịnh, Xuân Lộc... có vùng nhân dân phải lên mái nhà ngồi, nước rút chậm, mùa màng hầu như mất trắng, bệnh tật phát sinh, nạn đói diễn biến gay gắt.

Bên tả đoạn đê Căng Hạ [Thọ Trường] vừa bị vỡ, vừa bị nước sông Cầu Chày dâng cao, các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Minh [cũ], Thọ Trường [cũ] đều bị ngập lụt. Cả huyện gần hàng ngàn ha lúa màu bị ngập úng.

Cuối năm 1954 đầu năm 1955 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn huyện, hàng trăm người bị đói lả, rải rác ở các làng đã có người bị chết đói, dịch bệnh diễn ra. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn huyện bình tĩnh sáng suốt phát huy truyền thống cách mạng giải quyết khó khăn đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

I- HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH VÀ THIÊN TAI KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ [1954-1960]

Chống âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch cưỡng ép đổng bào giáo dân di cư vào Nam, sang Lào. Ngay sau khi nhận được chỉ thị của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Thọ Xuân đã có những biện pháp chỉ đạo sát thực kịp thời, tăng cường một số đồng chí huyện uỷ viên và cán bô Dân vận về vùng giáo ởxứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú], tứ xứ Hữu Lê [Thọ Xương], xứ đạo Bích Phương, Ngọc Lạp [Xuân Sơn] cùng với bộ phận bám sát nắm tình hình từng gia đình, ngõ xóm, vận động quần chúng không mắc mưu địch.Với tinh thần: Chúa có ở khắp mọi nơi, mọi nhà, chỉ cần kính chúa yêu nước, đồng bào hãy yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Huyện Đoàn Thọ Xuân chịu trách nhiệm trước Đảng bộ tổ chức thanh thiếu niên cắm trại, liên hoan văn nghệ, lấy lại không khí đầm ấm phấn khởi đến từng gia đình.Đảng bộ còn mở các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở nhằm triển khai chỉthị của Liên khu uỷ IV, của Tỉnh ủy Thanh Hoá vận động giáo dân đấu tranh đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của dịch và tranh thủ các linh mục thuyết phục đồng bào ở lại quê hương, cử cán bộ cơ sở bám làng, bám dân giải thích giác ngộcho mọi người hiểu và thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ, vạch trần âm mưu, hành động phản cách mạng của địch.

Nhờ làm tốt chính sách tuyên truyền vận động nên đã kịp thời làm cho những người có ý định di cư quay trở lại quê nhà. Một số giáo dân do được giác ngộ đã viết đơn thư gửi Uỷ ban Quốc tế tố cáo bọn phản động tay sai đế quốc, vi phạm Hiệp định Giơnevơ, cưỡng ép họ và gia đình di cư vào Nam, làm cho nhiều gia đình ly tán khốn khổ, họ kiến nghị Ủy ban Quốc tế giám sát can thiệp để gia đình được đoàn tụ.

Khi nhận được đơn, thưTổ chức Quốc tế giám sát thi hành Hiệp định Giơnevơ ở Việt Nam đã đến vùng giáo xã Quảng Phú [Thọ Xuân] kiểm tra sự thật. Tại đây đồng bào đã vạch trần sự bịa đặt xuyên tạc của bọn phản động vu khống chính quyền địa phương ngăn cản việc tự do chọn nơi cư trú của giáo dân theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, làm thất bại âm mưu nham hiểm của địch.

Tại xã Xuân Bái [Thọ Xuân], khi Tổ chức Quốc tế vào chùa Bái Thượng gặp sư Tráng, nhà sư đã tố cáo việc ném bom, bắn phá vào chùa của thực dânPháp cho đến nay vẫn còn gây tâm lý hoang mang lo lắng trong giáo dân.

Qua đợt kiểm tra tra của Tổ chức Quốc tế tại các vùng giáo dân [Thọ Xuân] đã làm cho tình hình chính trị trở lại ổn định. Đông đảo giáo dân tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Cùng với ngăn chặn sự quấy phá của các tổ chức phản động, Đảng bộ, Chính quyền chỉ đạo nhân dân tiến hành các biện pháp chống đói.

Huyện chủ trương bước đầu động viên từng xã, từng làng giúp đỡ tương trợ nhau nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách. Các vùng gặp khó khăn ít giúp các vùng khó khăn nặng hàng tấn gạo, ngô, khoai, sắn và hàng trăm ngàn đồng.

Do nạn đói kéo dài, số người đói ngày càng tăng. Đứng trước tình hình cấp bách đó, Huyện uỷ chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” do đồng chí Trịnh Ngọc Bích, Chủ tịch UBHC huyện làm Trưởng ban. Ban vận động đã cùng kết hợp cán bộ chủ chốt của các xã kiểm tra thực tế tình hình ờ từng làng, báo cáo với Ban chỉ đạo cứu đói cấp tỉnh bàn biện pháp hỗ trợ, Huyện uỷ - UBHC phát động phong trào toàn dân đoàn kết tương trợ cứu đói tại chỗ, phòng chống dịch bệnh, tích cực trồng rau xanh ngắn ngày. Thau giếng, khôi phục nguồn nước sinh hoạt, dọn vệ sinh ở từng giađình, thôn xóm, làng xã. Huyện đã huy động hàng ngàn lượt người đem theo trâu, bò và các loại giống đến các vùng bị đói để giúp nhân dân phục hồi sản xuất.

Ban chỉ đạo cứu đói huyện đã báo cáo kịp thời, Tỉnh đã trợ cấp nhân dân bị đói 800 tấn gạo [chia làm 3 đợi].

Nhờ sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo huyện và nhân dân, giữa năm 1955 nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân trở lại bình thường và được ổn định dần.

Ngay sau khi hoà bình vừa lập lại, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban hành chính tỉnh lập kế hoạch sửa chữa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sôngChu để trình Chính phủ. Được Chính phủ phê duyệt, Tỉnh uỷ quyết định mở công trường tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu và ra quyết định thành lập Ban chỉ đạodo đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh quyết định huy động 22 ngàn dân công ở các huyện, một trung đoàn bộ đội, 700 thợ kỹ thuật và công nhân cùng hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, các loại nguyên vật liệu cần thiêt phục vụ công trường.

Để cung cấp đá, tỉnh thành lập 2 công trường khai thác đá ở Mục Sơn và Hang Ma. Thành lập đội xe thồ và huy động dân công vận chuyển nguyên liệu, lương thực, thực phẩm. Các huyện miền núi cung cấp gỗ, luồng.... Với tinh thần chuẩn bị khẩn trương, ngày 1 - 9-1954 việc khởi công tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu được tiến hành. Việc tu sửa đập Bái Thượng được chia ra nhiều công đoạn. Vào thời điểm này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên cổ vũ mọi người trên công trường. Bác viết: “Các cô, các chú phải làm mau, làm tốt và đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chúc các cô, các chú lập nhiểu thành tích”

Cùng với Đảng bộ Thanh Hoá và nhân dân trong tỉnh. Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã vận động nhân dân địa phương đóng góp sức người, sức của cho công trường sửa chữa đập Bái Thượng. Huyện đã huy động hơn 5.000 lượt dân công tham gia công trường. Nhân dân các xã Xuân Bái, Thọ Xương, Thọ Thanh, Xuân Dương đã trực tiếp ủng hộ công nhân công trường nhiều tấn thịt lợn, gà, cá, rau, cùng vật liệu làm lán trại, bố trí nơi ăn ở cho cán bộ, công nhân xây dựng đập. Thời gian hàn khẩu đê quai sanh cả công trường tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhiều tấm gương điển hình xuất hiện. Chị Mai Thị Hược thôn Xá Lê [Xuân Minh] đã vác tảng đá 70 kg đầu tiên đặt lên đập quai sanh được bầu là Chiến sỹ thi đua.

Sau 3 tháng khẩn trương thi công, ngày 19 - 12-1954 nước từ hộ thông nông giang sông Chu [Thọ Xuân] đã bắt đầu chảy về các cánh đồng, phục vụ sản xuấtvụ chiêm xuân năm 1955. Trung tuần tháng 3 - 1955 toàn bộ hộ thống nông giang sông Chu đã được khôi phục, 50.000 ha ruộng đất của 6 huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Triệu Sơn, Nông Cống, Quảng Xương được tưới nước cả 2 vụ.

Cùng với việc vận động nhân dân tham gia sữa chữa đập Bái Thượng, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các huyện, nâng cấp, tu bổ hệ thống đê điều đẩy mạnh công tác thuỷ lợi và tích cực khai hoang phục hoá mở rộng diện tích canh tác.Tỉnh chủ trương miễn thuế cho tất cả các loại ruộng đất khai hoang phục hoá để phát triển sản xuất và quy định các huyện nhỏ như Vĩnh Lộc, Hậu Lộc phải đạt 250 mẫu ruộng đất canh tác, các huyện lớn như Thọ Xuân, Nông Cống phải đạt 1.000 mẫu. Phong trào khai hoang phục hoá diễn ra sôi động, rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Bộ đội dân quân được huy động vào việc tháo gỡ bom mìn, đảm bảo an toàn chonhân dân sản xuất. Trong 2 năm 1955 - 1956 toàn huyện đã khai hoang 1.000 ha ruộng đất để trồng cây rau màu và câylương thực. Nhờ đó, nông nghiệp phát triển thêm một bước, khó khăn về lương thực giảm dần.

Sau chiến tranh, việc khôi phục và phát triển giao thông vận tải phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá là yêu cầu cần thiết. Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Ty Giao thông và các huyện trong tỉnh sửa chữa và mở rộng đường sá, cầu cống, mở rộng giao lưu giữa các miền trong tỉnh và với các tỉnh bạn, theo phương châm: phát huy sử dụng năng lực sẵn có của địa phương, tranh thủ sự chỉ đạo kỹ thuật và cấp vốn của Trung ương, vừa kiến thiết khôi phục, vừa bảo dưỡng thường xuyên.

Nhân dân Thọ Xuân đã tích cực tham gia tu sửa nâng cấp các tuyến đường huyện, xã và mở đường: Mục Sơn - Vạn Mai, Bái Thượng - Cửa Đạt, huy động dân công tham gia mở đường 217 A.

Hàng trăm công nhân là lực lượng lao động của huyện đã tham gia sản xuất công nghiệp và thủcông nghiệp ở Nhà máy giấyLam Son, ở các cơ sở sản xuất đồ gỗ, đan lát. Góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

Cùng với việc khôi phục phát triển kinh tế, các mặt văn hoá, giáo dục, y tế và các hoạt động xã hội được cấp uỷ quan tâm chỉ đạo.

Ngay sau khi hoà bình lập lại, Thọ Xuân đã sắp xếp lại hệ thống trường lớp, hoàn thành việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân lao động.

Theo chủ trương của Bộ Giáo dục, huyện Thọ Xuân bỏ chương trình giáo dục 9 năm, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm .

Năm 1955 các trường học ở Thọ Xuân có thêm học kỳ 3, các trường cấp 2 ở một số nơi dồn về huyên lỵ Thọ Xuân thành lập trường cấp II Thọ Xuân.

Thực hiện Chỉ thị số 57 của Tỉnh uỷ về tăng cường công tác y tế, huyện củng cố, phát triển mở rộng các bệnh xá huyện, trạm xá xã, các tổ đông y, hộ sản, các tổ y tế lưu động phòng trừ các bệnh sốt rét, đau mắt hột và một số bệnh xã hội khác.

Toàn huyên tích cực hưởng ứng phong trào “Sạch làng, tốt ruộng, sạch bản, tốt nưong” do Ty Y tế phát động.

Phong trào văn hoá, văn nghê, thể thao được đông đảo nhân dân tham gia nhiệt tình, phàn ánh khí thế sôi nổi của toàn dân trong sản xuất và xây dựng, góp phần vạch trần tội ác của Mỹ ngụyở miền Nam.

Ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ [7 - 5-1954] thực hiên đường lối nhân đạo của Đảng, Thọ Xuân được tỉnh giao nhiệm vụ quản lý nuôi giữ 5.000 tù binh Pháp, một tiểu đoàn ngụy quân, 3 đại đội Tây trắng, lập thành các trại ở Thịnh Mỹ [Thọ Diên], Quần Kênh [Xuân Giang], làng Hón [Thọ Hải]... Cơ quan Huyên đội đã cùng lực lượng quản giáo tuyên truyền giáo dục giác ngộ nhiều tù binh, giúp họ nhận rõ lỗi lầm cải tạo thành người tốt.

Sau khi tiến hành trao trả tù binh Pháp, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá tiếp tục tổ chức đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam tập kết tại Sầm Sơn.

Huyện Thọ Xuân đã cùng với các huyện Quảng Xương, Nga Sơn, Đông Sơn, Hoàng Hoá, Nông Công, Thiệu Hoá, Yên Định cung cấp hàng ngàn con trâu, bò, lợn, hàng vạn gà vịt, hàng chục ngàn bộ quần ấo, màn, chăn, áo âm đảm bảo cho đồng bào, chiến sĩ, cán bộ miổn Nam có điều kiện sinh hoạt bình thường.

Tiếp tục hoàn thành triệt để nhiệm vụ dân chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng “, Thọ Xuân thực hiện Luật cải cách ruộng đất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban bố ngày 4 - 12-1953.

Cải cách ruộng đất ở Thọ Xuân được tiến hành 2 đợt. Đợt đầu [đợt thí điểm] được tiến hành ở 7 xã: Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc [3 xã vùng tả ngạn, 4 xã vùng hữu ngạn sông Chu]. Dưới sự chỉ đạo của Đoàn uỷ cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất phụ trách các xã, đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân, tiến hành ôn nghèo kể khổ, xây dựng rễ chuỗi phátđộng nông dân vạch mặt bọn địa chủ cường hào gian ác. Với phương châm dựa hẳn vào bần - cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến tịch thu. trưng thu, trưng mua ruộng đất tài sản chia cho nông dân lao động... Đợt đầu đã quy 350 địa chủ, tịch thu 12.000 mẫu ruộng, 3.000 trâu bò, 55.000 công cụ sản xuất và nhiều tài sản khác chia cho bần, cố, trung nông [đợt đầu cải cách ruộng đấtở Thọ Xuân nằm trong đợt 3 toàn tỉnh].

Đợt 2 cải cách ruộng đất được tiến hành ở các xã còn lại trên địa bàn toàn huyện [đợt này nằm trong cải cách ruộng đất đợt 4 toàn tỉnh]. Hai đợt cải cách ruộng đất, Thọ Xuân đã xoá bỏ triệt đểquan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất, đem lại quyền lợi cho nông dân lao động, mở đường cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Nhưng cải cách ruộng đất kết hợp chỉnh đốn tổ chức đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Doquy định 5% tổng số hộ nông dân là địa chủ nênhàng loạt gia đình không đủ tiêu chuẩn cũng bịquy lên địa chủ. Nhiều gia đình cán bộ, đảng viên có công với cách mạng cũng bị quy lên địa chủ cường hào gian ác. Nhiều cán bộ chủ chốt trong huyện bị tình nghi là phản động, nhiều người bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt tù đầy... Tình hình đó đã ảnh hưởng đến khối đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân. Quân thù lợi dụng vào những sai lầm đó tuyên truyền xuyên tạc ảnh hưởng uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng...

Trước tình hình nghiêm trọng đó Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát hiện sai lầm, đề ra chính sách sửa sai, Đảng bộ và quần chúng được tổ chức học tập Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch - thực hiện cuộc vận động sửa saitrong cải cách ruộng đất.Công việc tuy phức tạp nhưng được sự chỉ đạo chặt chẽ Tỉnh uỷ, Đảng bộThọ Xuân đã tiến hành sửa sai đạt kết quả tốt. Toàn huyện có 1.338 gia đình quy lên địa chủ, trong sửa sai còn lại 597 địa chủ. Hơn 60% giađình bị quy sai được trảlại ruộng đất, tài sản. Cánbộ, đảng viên bị quy sai được trả lại chức vụ vàĐảng tịch, khối đoàn kết toàn dân được củng cố, an ninh chính trị xã hội ổn định.

Sau khi hoàn thành công tác cải cách ruộng đất, khắc phục được một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các Đảng bộ cơ sở tiến hành chỉnh đốn tổ chức Đảng.

Đối với Đảng bộ Thọ Xuân, Tỉnh uỷ triệu tập đại biểu của các cơ sở Đảng về Hậu Hiền [xã Thiệu Tâm] để chỉnh huấn chính trị, kiện toàn tổ chức, Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 đồng chí và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Lê Văn Lữ được bầu làm Bí thư Huyện uỷ, đồng chí Nguyên Thị Nhẫn làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.

Hội nghị xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm của huyện là: Phát huy thắng lợi của cải cách ruộng đất, động viên nông dân làm chủ ruộng đồng, hăng hái tăng gia lao động sản xuất, phục hóa tăng vụ, mở rộng diện tích phát triển kinh tế, phát động toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ và tham gia các lớp học bổ túc văn hoá trong toàn huyện. Phátđộng phong tràobồi đắp đê sông Chu, phòng chống lụt bão và mở các chi giang, tiểu câu, mương máng, đưa nước về đồng...

Tiếp đến tháng 10 năm 1956, hội nghị Huyện ủy mở rộng được tổ chức tại xã Thọ Ngọc [thuộc Triệu Sơn hiên nay], đồng chí Trịnh Ngọc Điệt Phó Bí thư Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo. Hội nghị xácđịnh nhiệm vụ chính của thời kỳ này là: Thực hiên Nghị quyết 10 của Trung ương Đảng và Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc vận động sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Động viên chính trị tư tưởng, minh oan cho những cán bộ bị quy sai thành phần, hoàn trả lại tài sản, bố trí lại chức danh lãnh đạo, nhanh chóng ổn định lại tình hình, ổn định tổ chức, đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế,hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh công tác tu bổ đê điều phòng chống lụt bão, làmthuỷ lợi, chống hạn, mở rộng diện tích cấy lúa, nông dân vào các tổ đổi công, củng cố xây dựng cơ sở giáo dục, y tế , văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 17 đồng chí chính thức và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được bầu làm Bí thư Huyên uỷ. Đồng chí Phạm Tường, Phó Bí thư làm Chủ tịch UBHC huyện.

Sau hội nghị, Huyện đã phát động chiến dịch “Toàn dân ra quân đắp đê”. Hàng ngày có từ 3.500 đến 5.000 người, đợt cao điểm có tới 10.000 lao động trên công trường. Ngoài lực lượng thanh niên, dân công, còn có các cụ trên 60 tuổi cũng xung phong tham gia đắp đê, nhiều phụ nữ trực tiếp gánh đất đắp đê, hoặc phục vụ công trường. Các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Lai, Xuân Khánh, Xuân Thành, Hạnh Phúc, Thọ Hải... đã ủng hộ hàng ngàn tấn gạo, thịt cho dân công. Các lực lượng quân đội [Sư đoàn 330] đóng trên địa bàn huyện cũng tích cực tham gia đắp đê.

Sau hơn một năm, tuyến đê sông Chu với chiều dài 20 km được bồi trúcvà nâng cao, hai bờ tả ngạn [từ Thọ Lập đến xã Thọ Trường], hữu ngạn [từ Thọ Diên xuống đến Xuân Khánh] thành đê to, vững chắc được kè hàng triệu mét khối đất đá, những nơi xung yếu hay sạt lở được xử lý triệt để. Nhờ làm tốt công tác đắp đê, hàng chục trận lụt lớn xảy ra, tính mạng, tài sản, mùa màng của nhân dân vẫn được bảo vệ an toàn.

Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Thọ Xuân đã xây dựng hàng trăm tổ đổicông. Những năm hoà bình lập lại việc xây dựng tổ đổi công đã trở thành phong trào rộng khắp trong toàn huyện. Nông dân đã đoàn kết sản xuất, áp dụng kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất cây trồng, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất. Những năm 1957 - 1958, phong trào xây dựng tổ đổi công lan rộng; toàn huyện đã xây dựng được 1.987 tổ đổi công, chiếm 80% tổng số hộ gia đình nông dân tham gia. Tổ đổi công Trịnh Xuân Bái, xã Xuân Thành có nhiều thành tích thâm canh, tăng vụ nâng caonăng suất, sản lượng lúa và hoa màu. Ông Trịnh Xuân Bái được tham dự Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 1958.

Trên cơ sở nền móng các tổ đổi công, một số nơi chuyển lên xây dựng hợp tác nông nghiêp. Năm 1958 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] ở Thọ Xuân được xây dựng để rút kinh nghiệm nhân rộng ra các điểm khác. Đây là HTX nông nghiệp đầu tiên ở Thọ Xuân.

Đi đôi với việc thành lập HTX nông nghiệp, HTX mua bán, tín dụng cũng được xác lập ở một số cơ sở.

Năm 1957 do yêu cầu của phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, HTX mua bán huyện được hình thành ở ba khu vực trung tâm: thị trấn Thọ Xuân, Tứ Trụ, Neo do hàng ngàn hộ nông dân đóng góp cổ phần.

Sự nghiệp giáo dục cũng được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1958 giáo viên cấp I tập trung về tỉnh, giáo viên cấp II, III tập trung vềHà Nội học tập chủ trương xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Quyết tâm của Huyện uỷ, UBHC huyện là đẩy manh công tác xoá mù, mở rộng Bình dân học vụ trong toàn huyện. Nhiều xã trong huyện đã làm tốt. Xã Xuân Thành, Xuân Minh, Xuân Bái được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động về thành tích chống mù chữ. Toàn huyện có 108 cán bộ xã, 2.480 giáo viên được tặng Huy hiệu chiến sỹ Bình dân học vụ.

Để nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tỉnh tăng cường cho huyện Thọ Xuân 70 giáo viên chuyên trách Bổ túc văn hoá. Ban đầu tập trung mở lớp ở các xã Xuân Thành, Thọ Nguyên, Bắc Lương, Xuân Lai, Xuân Minh, Xuân Vinh. Đến năm 1958 huyện mở trường Văn hoá tập trung tại xã Nam Giang, sau này chuyển vềHạnh Phúc. Trường đã đào tạo hàng trăm cán bộ chủ chốt cho huyện và xã.

Tháng 5 - 1958 Đại hội đại biểuĐảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ V được tổ chức tại đình làng Thôn A, xã Xuân Quang, đồng chí Ngô Đức, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã biểu dương những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện giành được, tâp trung bàn định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ trong nhiêm kỳ là: cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thợ thủ công, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẻ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên HTX nông nghiệp bậc thấp, tiến lên HTX nông nghiệp bậc cao, hợp tác hoá phải gắn liền với cơ giới hoá và thủy lợi hoá.

Đối với thương nghiệp, Đảng bộ đề ra chủ trương thành lập các HTX mua bán và HTX tín dụng, thành lập các HTX tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho thợ thủ công.

Đại hội xác định nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chính trị là : Đảng bộ phải tập trung xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cánbộ,đảng viên vững mạnh, Đại hội đãbầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá V, gồm 19 đồng chí, đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Hồ Sĩ Nhân làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBHC huyện.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp ở Thọ Xuân trở thành phong trào rộng lớn đều khắp. Từng xã tiến hành tổ chức cho nông dân học tập Điều lệ Hợp tác xã và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hợp tác hoá nông nghiệp.

Huyện thành lập Ban chỉ đạo để tuyên truyền giáo dục hướng dẫn nông dân gia nhập HTX, chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] làm điểm chỉ đạo chính và 4 điểm phụ: Đông Phương Hồng [Thọ Hải], Đại Long [Xuân Quang], Hồng Kỳ [Xuân Thọ], Thu Đông [Xuân Thịnh].

Qua hai đợt phát động, đợt 1 từ cuối năm 1958 đến đầu năm 1959 ở 6 xã đã có 621 hộ nông dântự nguyện nộp đơn vào HTX. Đợt 2 vào cuối năm 1959 ở 12 xã có 4.281 hộ nông dân vào HTX.

Để thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hộì chủ nghĩa, từ ngày 5 đến ngày 15 - 4 -1959 Tỉnh uỷ tiến hành tổ chức Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ : tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, người buôn bán nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu Đảngbộ tỉnh, tháng 12 năm1959, Đại hội đại biểu Đảngbộ huyện lần thứ VI được khai mạc tại thôn Cộng
Hoà xã Thọ Ngọc [Triệu Sơn], đồng chí Lê ThếSơn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đề ra nhiệm vụ trọng tâm của huyện là: Tĩếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, phấn đấu đến năm 1960 - 1961 có từ 90% số hộ nông dân tự nguyên gia nhập HTX nông nghiệp.

Đại hội được nghe một số háo cáo điển hình vê xây dựng HTX của HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc], Thắng Lợi [Xuân Thành], Bát Căng [Thọ Nguyôn], Đại Long [Xuân Quang], HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] có phong trào sản xuất giỏi và các mặt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của quần chúng phát triển khá tốt, được nhiều đơn vị trong huyện và các huyện bạn đến tham quan học tập. Hợp tác xã Cộng Hoà đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đề cập vấn đề đẩy mạnh phát triển sản xuất, phục hóa tăng vụ, chú trọng công tác thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, cải tiến công cụ sản xuất, phát động nhân dân đóng góp cổ phần xây dựng hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế, văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao...

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 Ủy viên chính thức và 2 Ủyviên dự khuyết.Đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch huyện.

Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng hộ huyện lần thứ VI, năm 1960 phong trào thi đua, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đã diễn ra sôi nổi trên địa bàn huyện.

Phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp phát triển rộng khắp ở 36 xã. 100% gia đình cán bộ, đảng viên tự nguyện làm đơn gia nhập HTX.

Trong cải tạo công thương nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các ngành tập trung ở 3 khu vực: thị trấn Thọ Xuân, phố Đầm [Xuân Thiên], Bái Thượng [Xuân Bái] đưa gần 2.000 lao động tiểu thương nghèo vào HTX và thành lập 5 HTX thủ công nghiệp: HTX Tương Lai làm thảm xuất khẩu, HTX Nông cụ, HTX may Trường Xuân, HTX Đông Xuân làm mành xuất khẩu, HTX Minh Tiến [sau chia thành 2 HTX là Minh Thành và Quyết Thắng].

Năm 1960, 3 cơ sở Nông - Bắc - Dược được nhập thành HTX mua bán huyện. Với tổng số cán bộ, nhân viên là 280 người, đảm nhiệm việc thu mua nông - lâm sản - thực phẩm - rau đậu của nông dân ở các vùng và bán phân phối các mặt hàng thương nghiệp phục vụ sản xuất, tiêu dùng.

Sự nghiệp giáo dục ở Thọ Xuân trong những năm 1959 - 1960 phát triển mạnh. Toàn huyện đã thanh toán xong nạn mù chữ. Phong trào thi đua dạy tốt - học tốt, xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa, phong trào học tập và làm theo Bắc Lý diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là trường Phổ thông cấp II Bắc Lương có phong trào làm đồ dùng phục vụ tốt cho việc dạy và học, giáo viên có nhiều giờ dạy tốt, học sinh có phong trào "Hàng cây em nuôi" và "Đường làng em sạch ", trường Thọ Nguyên với phong trào" Đội học tốt làm tốt ", trường Xuân Thành nhiều năm liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, trường cấp I Thọ Hải điển hình về vở sạch, chữ đẹp, về lao động thể dục - vệ sinh, thường xuyên nề nếp.

Thời kỳ này Phòng Giáo dục huyện Thọ Xuân được thành lập, có sự tổ chức quản lý chuyên ngành giáo dục phát triển lên những đỉnh cao mới.

Năm học 1960 - 1961 hầu hết các xã mở lớp học Bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, có hàng ngàn học viên được theo học. Trong đó đa số là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên.

Cùng với học văn hóa , Đảng bộ chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ, đảng viên và quần chúng. Nâng cao nhận thức về Cách mạng xã hội chủ nghĩa, và xây dựng quyết tâm chống Mỹ cứu nước.

Đảng bộ đã tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, triển khai thực hiện triệt để các cuộc vận động lớn của tỉnh như: “Ba xây - Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp khoa học thủy lợi ".

Bằng sự Đàng sự nỗ lực phấn đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã thực hiện thắng lợi kế hoạch 3 năm lần thứ nhất và lần thứ hai [1955 - 1957, 1958 - 1960] hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Với thành tích đạt được, Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân vững bước chuyển sang thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

II- ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THI ĐUA THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT [1961 - 1965]

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 05 đến 10 - 9 - 1960, định ra đường lối Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đôi với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Muốn đạt được mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá, về khoa học kỹ thuật, biến nước ta thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến.

Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V [từ ngày 25-2 đến 5-3-1961]. Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch 3 năm [1958 - 1960], đề ra chủ trương biện pháp thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965] và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã khẳng định: Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân trong tỉnh đã căn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra nhiều khả năng mới, các ngành kinh tế, văn hoá bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh và có chiều hướng ngày càng tiến bộ, khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, chính quyền các cấp ngày càng được tăng cường, Đảng bộ được rèn luyện là yếu tố quyết định mọi thắng lợi.

Từ thực tế cách mạng trong tỉnh, Đại hội đã quán triệt sâu sắc đường lối Cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra. Chuyển hướng mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ mạnh về chính trị - tư tưởng - tổ chức.

- Củng cố khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh giữa 2 con đường, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trên cả 3 vùng, chú trọng khu vực miền núi, nâng cao tổng sản lượng lương thực, thực phẩm, tạo điều kiện để phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo đủ hàng tiêu dùng cho nhân dân. Đồng thời tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, vãn hoá, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

- Ra sức củng cố quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V đã được triển khai kịp thời rộng khắp. Toàn tỉnh dấy lên phong trào thi đua sôi nổi mạnh mẽ nhằm thực hiện 3 cuộc cách mạng “Cách mạng về quan hệ sản xuất, Cách mạng khoa học kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng văn hoᔠtrong đó Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Ngày19-5-1961 Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết phát động phong trào “Thi đua đuổi kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” nhằm thúc đẩy các HTX trong tỉnh tiến nhanh - mạnh trên mọi lĩnh vực.

Hưởng ứng phong trào thi đua sôi nổi của nhân dân trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyên Thọ Xuân đã cố gắng vượt bậc trong việc thực hiên hợp tác hoá nông nghiệp.

Cuối năm 1961, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức HTX bậc thấp ở Thọ Xuân đã căn bản hoàn thành, toàn huyện xây dựng được 293 HTX với 98,2% số hộ vào HTX. Đầu năm 1962 có 98,69% số hộ vào HTX, 96% đất đai đưa vào làm ăn tập thể, xây dựng 116 HTX từ bậc thấp lên bậc cao [tức là HTX liên xóm liên thôn]. Thực hiên công hữu hoá toàn diện trâu, bò, ruộng đất. Nhiều HTX đã công hữu vườn cây, ao cá, vườn chè, đồi luồng...

Việc xây dựng HTX bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ sản xuất và quan hê xã hội mới ở nông thôn. Tạo ra bướcchuyển biến tiến bộ trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Tại hội nghị sơ kết phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại Phong do UBHC tỉnh tổ chức ngày 16-10-1961, HTX Xuân Lai đã được công nhận là “ Lá cờ đầu” về cải tiến nông cụ, chứng tỏ sự trưởng thành và tiến bộ của nhân dân huyện nhà.

Cùng với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, nông dân Thọ Xuân hưởng ứng chủ trương của Đảng, hăng hái tham gia mua cổ phần gia nhập HTX mua bán và HTX vay mượn tín dụng đạt 90%.

Năm 1961, nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt trong sản xuất nông nghiệp nên cả 3 vụ lúa [màu] đều được mùa, bình quân mức thu nhập lương thực của nông dân toàn huyện đạt trên 300 kg/đầu người, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện, diện hộ thiếu đói được thu hẹp, đời sống văn hoá, tinh thần đang dần được nâng cao. Quan hệ sảnxuất [mới] cơ bản được xác lập. Chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân.

Đặc biệt: Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Đảng bộ nhân dân Thọ xuân đã tạo ra sự biến đổi căn bản trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, thể dục thể thao.

Toàn huyện đã xây dựng mở rộng hệ thống trường lớp [mỗi xã xây dựng 1 trường cấp I, trường cấp II, toàn huyện xây dựng mở rộng trường cấp III] đảm bảo cho con em đồng bào các dân tộc học tập. Phong trào thi đua xây dựng trường lớp và giảng dạy học tập đạt chất lượng cao được tỉnh đánh giá là một trong những huyện dẫn đầu. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá trong huyện được đầu tư xây dựng mới, được trang bị thuốc men và phương tiện chữa bệnh chăm lo sức khoẻ cho toàn xã hội. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng và chất lượng cao: toàn huyện xây dựng 6 đội bóng chân giày, 23 đội bóng chân đất, 18 đội bóng chuyền. Các đội bóng chân giày Thọ Xuân đã từng thi đấu với các đội bóng của tỉnh trình độ chiến kỹ thuật không thua kém.

Các môn điền kinh: chạy, bơi lội đã từng đoạt giải cao trong các kỳ hội thao do tỉnh tổ chức. Sự nghiệp văn hoá - xã hội phát triển đã góp phần đưa thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN.

Trong không khí phấn khởi của nhân dân huyện nhà, tháng 12-1962 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VII đã diễn ra. Đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đề ra nhiệm vụ trọng tâm những năm tiếp theo là: xây dựng củng cố tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, thành lập các Đảng uỷ xã và mở các lớp đối tượngkết nạp đảng viên 6/1 nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên...

Về nông nghiệp, Đại hội chỉ rõ: Củng cố HTX, phát triển toàn diện, vững chắc, chú trọng cải tiến quản lý HTX đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tích cực thâm canh tăng vụ nâng cao năng suất và tổng sản lượng lúa và cây trồng. Tổ chức làm ruộng thí điểm [cấy thẳng hàng], đưa giống lúa có năng suất cao [như Mộc Tuyền, Quyết Thắng, Quyết Tiến, Nam Ninh] vào gieo trồng... Đẩy mạnh phong trào thi đua làm phân bùn ao, phân bắc, phân xanh, bèo hoa dâu. Thực hiện “sạch làng tốt ruộng”. Tổ chức phong trào làm thuỷ lợi, đào đắp kênh mương tưới tiêu khoa học, chủ động chống úng chống hạn. Cải tiến công cụ sản xuất [cày cải tiến, cày 51, bừa trục, bừa cỏ Nghệ An, xe cải tiến]. Phát triển chăn nuôi bảo vệ đàn gia súc, đảm bảo sức kéo và sinh sản. Thành lập xưởng Công nông [nông cụ] có mộc, rèn, cơ khí, sản xuất công cụ cầm tay, xe cải tiến phục vụ sản xuất cho nông dân... Tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, văn hoá xã hội của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Về an ninh - quốc phòng: Nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố an ninh quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 19 đồng chí [có 2 đồng chí là Ủy viên dự khuyết], 9 đồng chí là uỷ viênThường vụ. Đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Đồng chí Lê Văn Lữ, Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBND huyện. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đã có tác dụng to lớn, thúc đẩy các phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 7 - 1963, Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ VI tiếp tục chỉ đạo toàn dân thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 11-1963, Thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghi quyết về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”.

Triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ các cấp, Huyện ủy Thọ Xuân đã tổ chức chỉ đạo nhân dân toàn huyện tiến hành các phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự...

Từ đầu năm 1962 Huyện uỷ đã chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] làm đơn vị chỉ đạo điểm về cải tiến quản lý HTX nông nghiệp. Quá trình tiến hành HTX Thắng Lợi đã thực hiện cải tiến quản lý sản xuất, quản lý tài vụ, xác định đúng mức khoán, thực hiện phân phối sản phẩm theo lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công cụ sản xuất, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, tưới tiêu chủ động khoa học, đẩy mạnh làm phân bón, nâng cao trình độ thâm canh tăng năng suất cây trồng và giải phóng đôi vai [bằng các xe cải tiến]. Do cải tiến quản lý, HTX Thắng Lợi đã trở thành đơn vị dẫn đầu toàn huyện và được Huyện uỷ đúc kếtkinh nghiệm chỉ đạo phong trào cải tiến quản lý HTX nông nghiệp trên địa hàn toàn huyện.

Giữa lúc phong trào thi đua sôi nổi đang diễn ra trên mọi lĩnh vực, tháng 6-1962 Đảng bộ và nhân dân huvện Thọ Xuân vinh dự được đón đồng chí Lê Duẩn về thăm. Đồng chí đến thăm đồng ruộng, làng xóm HTX Thắng Lợi [Xuân Thành], biểu dương thành tích trong lao động sản xuất và thực hiện cải tiến quản lý HTX. Đồng chí mong rằng Thọ Xuân sẽ có nhiều điểm sáng như Thắng Lợi [Xuân Thành] và phấn đấu đưa năng suất lúa, hoa màu cao hơn nữa...

Đáp ứng niềm mong muốn của đồng chí Lê Duẩn, những năm 1962 - 1965 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] đã phấn đấu đi lên toàn diện trở thành đơn vị Anh hùng Lao động.

Từ sau trận lụt lớn năm 1954 đến đầu năm 1960, Thọ Xuân đào đắp hàng triệu mét khối đất đá, tu sửa nâng cấp hoàn thiện các tuyến đê sông Chu, sông Cầu Chày và sông Hoàng. Nhân dân các địa phương, chuẩn bị đất dự trữ, phương tiện, lực lượngphòng chống lụt bão. Nhờ vậy, trận lụt lớn năm 1962 các tuyến đê không hề bị sụt lở, mùa màng, tài sản, tính mạng của nhân dân trong huyện được an toàn.

Cùng với đắp đê, phòng chống thiên tai, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân không ngừng tiến công mạnh mẽ trên mặt trận thuỷ lợi. Nhiều công trình thuỷ lợi trọng điểm được tập trung xây dựng, tu bổ, hàng trăm con mương tiểu câu được đào đắp đưa nước vào đồng ruộng. Trạm bơm Xuân Vinh xây dựng hoàn thành đã tưới nước cho các xã Thọ Trường, Xuân Vinh, Xuân Tân, Xuân Lập, Xuân Lai, Xuân Minh. Đào đắp hệ thống kênh mương [mới] dẫn nước tưới cho các xã Thọ Tân, Thọ Dân, Xuân Lộc, Xuân Thịnh. Xây dựng hệ thống thuỷ nông Cầu Nha phục vụ nước tưới cho các xã vùng tả ngạn [sông Chu]. Đào đắp hệ thống mương tiêu thuỷ chống úng, đào kênh Trường Giang ra đồng Ba Chạ. Đắp tiểu câu dẫn nước tưới cho vùng Thọ Xương. Xẻ tiểu câu đưa nước tưới cho vùng giáo Bích Phương, Ngọc Lạp.

Chỉ tính trong năm 1962, toàn huyện đã động viên 1.5 triệu ngày công, hoàn thành đào đắp 2 triệu mét khối đất đá trên các công trường nông giang, chi giang 6, đê sông Chu, sông Mực...

Do làm tốt công tác thuỷ lợi, Thọ Xuân đã chuyển được 1.000 ha đất hoa màu sang sản xuất lúa [2 vụ], chủ động tưới tiêu cho cây trồng.

Năm 1963 Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba về công tác thuỷ lợi.

Năm 1964 - 1965 Thọ Xuân tiếp tục huy động lực lượng lớn [với hàng ngàn lượt dân công, vật tư kỹ thuật, lực lượng cơ giới] tập trung vào đắp thêm 2 km đê bao quanh thị trấn Thọ Xuân phòng tránh lũ. Xây lắp cống ba cửa, cùng cống tiêu thuỷ, rút nước ngập úng từ cánh đồng Ba Chạ. Tuy phải hy sinh cục bộ một phần diện tích đất đai của xã Xuân Trường, Thọ Hải, thị trấn Thọ Xuân nhưng đã có tác dụng cứu úng cho hàng ngàn ha đồng ruộng của vùng Triệu Sơn

Nhờ làm tốt công tác đắp đê phòng chống lũ lut, xây dựng mở mang công trình thuỷ lợi, Tho Xuân đã giải quyết tốt việc chống úng, chống hạn, góp phần vào việc cải tạo đồng ruộng, nâng cao trình độ thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, bảo vệ an toàn mùa màng, tài sản, tính mạnh nhân dân. Góp phần đẩy lùi đói nghèo, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hôi.

Để tiếp tục chỉ đạo nhân dân toàn huyện phấn đấu hoàn thành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII được tiến hành trong 3 ngày: từ ngày 21 đến ngày 23-3-1963. Đồng chí Nguyễn Trong Vĩnh, Bí thư Tinh Uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã đánh giá các mặt thành công và hạn chế trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, trong xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị, đời sống xã hội... Công bố việc Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tăng trưởng, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển tiểu thủ công nghiệp, chuyển một số HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao, bồi dưỡng đội ngũ bộ phận sản xuất, cán bộ HTX, củng cố phong trào hợp tác sử dụng, thực hiện 3 khoán: Khoán cho nhóm, công việc, công ty điểm. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công việc thương mại, tài chính, ngân hàng.Nâng cao trình độ, dân trí, sức khỏe, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh, thể dục thể thao. Nâng cao giác ngộ chính trị cho bộ phận và nhân dân, mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng lực lượng vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến.

Tăng cường giáo dục và nâng cao chất lượng, chú ý phát triển trẻ, xây dựng chi bộ Đảng ở nông thôn phát triển toàn diện và vững chắc.Nâng cấp đời sống nhân dân nhằm mục đích hoàn thành lợi ích của Đảng và Nhà nước trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội bầu Ban chấp hành đảng bộ gồm 21 ủy viên chính thức, 2 Ủy viên dự khuyết, 9 Ủy viên thường vụ, đồng chí Nghiêm Quý Ngãi được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Văn Lữ làm Phó Bí thư Chủ tịch huyện.

Trong những năm 1963 - 1964, cuộc vận động cải tiến công việc quản lý HTX,cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất [Nông nghiệp 8, Nông nghiệp 5, Khe nam lùn], thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng dịch vụ, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng. HTX Đông Phương Hồng là một trong những đơn vị có trình độ thâm canh tăng năng suất lúa đã được bác học Lương Đình Của chọn làm điểm chỉ đạo sản xuất các loại lúa mới để nhân rộng trên địa bàn nhiều tỉnh.

Nhờ áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỳ thuật vào sản xuất, Thọ Xuân đã thành hình điển hình của tỉnh trong phong trào thi đua 5 tấn vàHTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Đông Phương Hồng [Thọ Hải] ngọn cờ tiêu biểu về thâm canh tăng năng suất lúa. Năm 1964 đạt 6,6 - 6,8 tấn thóc/ha.

Tại Thọ Xuân, trong 3 ngày [từ 15 đến 17-6-1964] Tỉnh ủy, UBHC tỉnh mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm thâm canh, tăng năng suất của HTX Đông Phương Hồng.Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương và các đại biểu tỉnh bạn, các nhà khoa học đã tham gia Hội nghị.

Tổng hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh khen ngợi Đông Phương Hồng có một chi bộ mạnh, với 24 đảng viên, tỷ lệ nữ khá [8 đồng chí] đội ngũ cán bộ hái nhiệt tình, có tinh thần cách mạng tiến công.Đồng ruộng của Đông Phương Hồng có hệ thống kênh mương máng hoàn chỉnh, chủ động tưới tiêu khoa học, bờ vùng, bờ thửa thẳng hàng vững chắc trông đẹp mắt.Từ kinh nghiệm thực tế sinh động sáng tạo này, mong rằng Đông Phương Hồng sẽ còn tiến mạnh hơn nữa ...

Từ sau hội nghị tổng kết tại Thọ Xuân, phong trào nhanh chóng và vượt qua Đông Phương Hồng đã trở thành phong trào thi đua sâu rộng trong toàn tỉnh.

Năm 1963 - 1965 thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về "Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi", năm 1962 Đảng bộ đã phát động nhân dân ở một số xã đi khai hoang xây dựng quê hương mới ở vùng trung du của huyện.

Ở Thọ Xuân có 54 xã với 293 HTX nông nghiệp, ruộng đất bình quân trên dưới 2 sào/khẩu. Một số xã dân số đông, đất sản xuất nông nghiệp ít nhưXuân Yên, Phú Yên, Tây Hồ, Xuân Thành, Xuân Khánh, Hạnh Phúc bình quân chỉ trên dưới 1 sào/khẩu.Vì thế nhiều vùng dân cư phải chợ búa ngược xuôi.Trong khi ở vùng trung du dân cư thưa thớt, đất đai màu mỡ, diện tích bỏ hoang nhiều.Vì thế tổ chức cho nhân dân một số xã mật độ dân số cao xây dựng vùng kinh tế mới là việc làm cần thiết để thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ.Với phương châm: Vừa tiến hành thực hiện vừa mở rộng diện tích sản xuất, bố trí lại dân cư, phân bổ lao động phù hợp giữa các vùng kinh tế trong huyện, vừa xây dựng quê hương mới, phát triển kinh tế - văn hóa vùng trung du của huyện và đi xây dựng kinh tế mới ở các huyện miền núi Thanh Hóa. The Thực hiện tốt chủ trương trên, Đảng bộ chỉ đạo các cấp, các tổ chức ngành cho nhân dân học tập, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc "khai hoang xây dựng phát triển vùng kinh tế mới"

Buớc đầu đưa ra thanh niên đi khai phá, sau đó đưa các hộ gia đình đến làm nhà cửa, tiếp tục khai phá đất đai tổ chức sản xuất.Thực hiện chính sách khuyến khích giúp đỡ đồng bào đi khai hoang, đồng thời phát động nhân dân ở địa phương đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn buổi đầu.

Đồng chí Chủ tịch xã Tây Hồ đã cùng gia đình và 20 hộ vào Đồng Cáo xã Thọ Bình khai hoang xây dựng HTX mới. Đồng chí Chủ tịch xã Xuân Yên cùng gia đình và 19 hộ gia đình ở làng Mác, làng Quảng [Thọ Bình] khai hoang thành lập HTX. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Phú Yên cùng gia đình và 25 hộ gia đình đến Đồng Chó xā Xuân Cẩm, Xuân Dương khai hoang thành lập làng mới. Đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy xã Xuân Thành cùng gia đình và 25 hộđến xã Ngọc Phụng khai hoang thành lập HTX [nay thuộc huyện Ngọc Lặc]. Đồng chí chủ nhiệm HTX Hồng Kỳ xã Xuân Bái tình nguyện đem 32 hộ sang Thường Xuân khaihoang thành lập HTX Tân Lập [trong đó có 8 hộ thương nghiệp ở Bái Thượng]. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Thọ Diên cùng 22 hộ đivề 2 xã Cao Thịnh và Thái Sơn [Ngọc Lặc] khai hoang phát triển kinh tế. Xã Thọ Nguyên đã tích cực vận động được 68 hộ = 237 nhân khẩu đi định cư khai hoang tại Thường Xuân và Ngọc Lặc.

Từ năm 1962 đến năm 1964, 18 xã đông dân cư như Xuân Yên, Phú Yên, Xuân Thiên, Xuân Khánh, Hạnh Phúc, Tây Hổ, Xuân Lai, Thọ Trường, Thọ Nguyên ... đã vận động gần 500 hộ, gồm 1.680 khẩu đi xây dựng quê hương mới tại các xã Phùng Giáo, Kiên Thọ [Ngọc Lặc], Khe Hạ, Xuân Cao, Xuân Cẩm [Thường Xuân], Thọ Bình, Thọ Sơn [Triệu Sơn], Xuân Thắng, Xuân Phú [Thọ Xuân]. Đã khai hoang đưa vào sản xuất 560 ha đất, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế khá tốt. Riêng xã Thọ Nguyên đã vận động 68 hộ gồm 237 khẩu đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới.

Các gia đình đi khai hoang xây dựng quê hươngmới tích cực phấn đấu được chính quyền và nhân dân địa phương giúp đỡ tận tình, nhờ đó đời sống kinh tế,văn hóa dần dần phát triển, nhiều khu vực khai hoang lập làng mới trở thành vùng kinh tế trù phú.Nhiều HTX khai hoang trở thành mô hình tốt về tổ chức sản xuất.

Năm 1961-1962 ngành Thương mại phát triển mạnh, Huyện chủ trương phân chia thành các cửa hàng ăn uống, thực phẩm, bách hóa và mua bán tập thể. Mở thêm một số quầy, cụm thu mua nông sản, thực phẩm làm đại lý cho Mậu dịch quốc doanh.

Năm 1963, nhân dân trong huyện đã bán cho Nhà nước trên 800 tấn nông sản các loại, cung cấp nguyên liệu cho một số nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện, xuất khẩu một số mặt hàng. Khai thác trên 9.000 mét khối gỗ và hơn 1,5 triệu cây luồng, nứa cung cấp cho các công ty trong huyện ...

Huyện chỉ đạo ngành Tài chính, Thương nghiệpthực hiện cuộc vận động “Ba xây, Ba chống”. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức cần kiệm, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động sản xuất và công tác. Kiên quyết định chống tham ô và lãng phí, quan liêu. Nâng cao quan điểm phục vụ. Khắc phục xu hướng kinh doanh đơn thuần, thiếu tính hợp tác xã hội chủ nghĩa.

Huyện chủ trương đào tạo tổ chức bố trí từ 25 đến 30% lao động trong các HTX nông nghiệp làm các ngành nghề tiểu thủ, hướng tới xây dựng các HTX tiểu thủ công nghiệp vào đầu năm 1970. Nhằm giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội.

Năm 1962 ngành Giáo dục Thọ Xuân được vinh dự đón Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên. Bộ trưởng đã đi thăm một số trường tiêu biểu: Thọ Hải, Thọ Nguyên, Thọ Lâm, Phú Yên, Xuân Minh, Xuân Hoà, Bắc Lương, và khen ngợi sự nghiệpgiáo dụcở Thọ Xuân đã xây dựng được nhiều trường tiên tiến, làm cho sự nghiệp giáo dục trở thành sự nghiệp chung của Đảng bộ, nhân dân toàn huyện. Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã đầu tư xây dựng mở rộng lớp hệ thống trường lớp, mua sắm trang thiết bị học tập đảm bảo cho thanh thiếu niên trong huyện có điều kiện học tập phát triển tài năng.Số lượng học sinh năm sau cao hơn năm trước.

Tính đến năm 1962, toàn huyện có 9.617 học sinh vỡ lòng, có 20.022 học sinh cấp I với 56 trường 482 lớp, có 2.011 học sinh cấp II với 7 trường 62 lớp, có 597 học sinh cấp III với 12 lớp. Bổ túc văn hóa cấp I có 5.371 học viên, cấp II có 1.709 học viên, cấp III có 180 học viên. Năm 1962, huyện thành lập thêm 3 trường phổ thông chức năng ở Xuân Lập, Thọ Hải, Xuân Thịnh. Học viên được học văn hóa hết cấp II, vừa học văn hóa, vừa thực hiện kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.

Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế, văn hóa, thể dục thể thao được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức các hoạt động.

Hệ thống bệnh viện huyện, tạm xá xã cung cấp đầy đủ thuốc men và phương tiện chữa bệnh. Đội ngũ thầy thuốc được tăng cường về số lượng và được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn; khả năng chữa bệnh. Trạm xá xã trồng 45 loại thuốc nam chữa bệnh thông thường và kết hợp đông - tây y trong chuẩn đoán và điều trị bệnh tật.

Huyện chỉ đạo xây dựng, cùng cố và đầu tư kinh phí hoạt động cho các đội văn nghệ, bóng đá, bóng chuyền. Nhờ đó phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng phát triển mạnh, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân tích cực xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên què hương thân yêu của mình.

Kiên quyết đập tan âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, dưới sự chỉ đạo của Huyện Ủy, quân và dânThọ Xuân đã kết hợp công an đập tan tổ chức phản động do Lường Mạnh Huân cầm đầu.

Lường Mạnh Huân quê xã Hoàng Lưu, huyện Hoằng Hóa.Trong kháng chiến chống Pháp, y tham gia tổ chức phản động "Liên tôn diệt cộng", cải cách ruộng đất bị quy thành phần địa chủ phản động, bị kết án 5 năm. Y đã trốn ra Hà Nội, lên Sơn La chui vào cơ quan Nhà nước, sau đó trở về Hoằng Hóa tiếp tục con đường chống phá cách mạng. Y đã liên hệ với phản động tổ chức cái gọi là “Đảng Cách mạng quốc gia Việt Nam” xây dựng chân rết tổ chức ở các huyện: Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Lang Chánh, Yên Định, Hoằng hóa, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc ...

Tại Thọ Xuân: Năm 1959, Huân đến xứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú] liên hệ với một số phần từ phản động gây dựng cơ sở. Sau đó sang khu Hữu Lễ liên lạc Lý Xuân xây dựng cơ sở ở khu vực đồng bào Mường thuộc các xã giáp ranh 2 huyện Thọ Xuân - Ngọc Lặc. Sau đó mở rộng các lớp nói trên.

Đến tháng 4 - 1962 tổ chức phản hồi Lường Mạnh Huân đã xây dựng được 1l chi bộ, gồm 157 cấp viên, sau đó phát triển lên 347 đảng viên và mở rộng hoạt động ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Riêng Thọ Xuân và Ngọc Lặc tay chân của họ đã được bầu vào Ban chấp hành của huyện.

Chủ trương của chúng thời kỳ đầu không hoạt động vũ trang mà chỉ xây dựng tổ chức và tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, tìm cách mua chuộc, cưỡng ép, tha hoá cán bộ ... Chúng cấu kết Mỹ - ngụy ở Sài Gòn thông qua con đường liên hệ với quán sứ của Diệm ở Viên Chăn [Lào] xin vũ khí, phương tiện chiến tranh và người chỉ đạo.

Được nhân dân địa chỉ theo dõi phát hiện và trình báo,Ty Công an tỉnh đã điều tranắm bắ âm mưu thủ đoạn và hoạt động của chúng. Ngày 26-3-1962 quyết định thành lập chuyên án T 236 ", cử đồng chí Tống Xuân Nhuận, Phó ty trực tiếp chỉ đạo thực hiện chuyên án.

Ngày 25-4-1962 Thường vụ Tỉnh Ủy chỉ thị Ty Công an phá án với chiến thuật nhanh chóng. Lường Mạnh Huân và Nguyễn Tiến Sinh, Nguyễn Vân Chức dã bị bắt tại cầu Thiều [trên đất Nông Cống, nay thuộc Triệu Sơn], cùng 109 tên đầu sỏ khác.

Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án, tuyên phạt Lường Mạnh Huân tử hình, 25 tên tòng phạm nguy hiểm lĩnh án tù giam từ 3 đến 20 năm. Năm 1963 Tòa án tối cao phê duyệt y án tử hình Lường Mạnh Huân và tổ chức thi hành án tại Sân vận động Bái Thượng [Thọ Xuân].

Giữa lúc nhân dân cả nước đang hăng hái thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961-1965], vào tháng 3-1964, Tổng thống Mỹ L. Giôn Xơm đã phê chuẩn kế hoạch ném bom miền Bắc [thông qua 94 mục tiêu, trong đó Thanh Hóa là một trọng điểm đánh phá lớn] hòng phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, ngăn chặn việc tiếp tế cho cách mạng miền Nam, nhằm cứu nguy cho chiến lược chiến tranh đặc biệt đang có nguy cơ bị sụp đổ.

Trước tình hình đó, ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt và cất tiếng gọi "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt".

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6-5-1964, Ban Thư ký Tỉnh ủy ra chi thị cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành độngkhiêu khích phá hoại của giặc Mỹ và ngăn chặn kịp thới hành động chống phá của bọn phản động.

Cũng như Đảng bộ và nhân dân các huyện, thị trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân kịp thời chuyển hướng từ thời bình sang thời chiến, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường côngtác quốc phòng, sẵn sàng đối phó với tình hình địch mở rộng quy mô trên toàn miền Bắc.

Huyện chỉ đạo hướng dẫn tổ chức nhân dân ở mỗi gia đình, ngõ xóm, làng xã, trong toàn huyện đào hào trú ẩn, tích cực bảo mật phòng gian. Cùng với các ban, ngành chuyên môn lập phương án bảo vệ vùng trọng điểm như: Đập Bái Thượng, Nhà máy Điện Bàn Thạch, các kho hàng, lương thực, sân bay Sao Vàng, mở đường giao thông chiến lược, đẩy mạnh công tác củng cố, huấn luyện, trang bị cho lực lượng dân quân, tiến hành đăng ký quân dự bị ...

Nhận rõ vai trò quan trọng của lực lượng quân đội đóng trên địa bàn, Đảng bộ huyện đã tích cực, động viên nhân dân đóng góp công sức, cùng với bộ đội đào đắp công sự, ụ pháo ra đa, làm lán trại, đào hầm hào đóng góp vật liệu [luồng, gỗ, tranh, tre, nứa, lá]. Nhân dân ở các xã Xuân Phú, Xuân Thắng, Thọ Lâm, Xuân Hưng, Xuân Bái, Xuân Hoà, Thọ Hải ... đã ủng hộ bộ đội số lượng vật liệu lớn. Các chi đoàn, xã đoàn, các đội thiếu niên đã tổ chức kết nghĩa với các đơn vị bộ, xây dựng tình cảm "Quân dân thắm thiết".

Sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến, ngay trong năm 1964, huyện đã tổ chức tiểu đoàn gồm 300 chiến sĩ tình nguyện đi tiền phương, trang bị lương thực, thực phẩm 10 ngày và long trọng làm lễ xuất quân bàn giao cho tỉnh tại 2 xã Xuân Phú, Xuân Thành.

Với tinh thần "Tất cả vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai". Nhiều hợp tác đã phát động phong trào thi đua "5 tấn thắng Mỹ" điển hình là HTX Thắng Lợi, HTX Đông Phương Hồng ... Nhiều “Cánh đồng 5 tấn” xuất hiện trên địa bàn huyện.

Huyện chỉ đạo toàn dân làm đường giao thông liên hương, liên xã, tích cực làm nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến với tinh thần"Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", thi đua sản xuất xây dựng quê hương, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội được Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đặc biệt quan tâm. Hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 330 và một số đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn đã được Đảng bộ, nhân dân huyện nhà cung cấp lương thực, thực phẩm, cho mượn nhà, mượn đất để xây dựng doanh trại đóng quân và tập luyện.Cán bộ, chiến sĩ ốm đau, các mẹ, các chị thăm nuôi giúp đỡ.Thanh niên các địa phương kết nghĩa với từng đơn vị, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và huấn luyện quân sự. Bằng tình cảm dân quân cá nước, Sư đoàn đã được xây dựng cho con em xã Tây Hồ trường cấp I và cấp II gồm hàng chục phòng học. Sư đoàn đã tham gia xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Bàn Thạch, đắp đê, chống úng, chống hạn.Sư đoàn đã tham gia xây dựng các Lâm trường Sông Âm, Lam Sơn, Thống Nhất ... Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 330 đã để lại hình tượng cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong trái tim nhân dân Thọ Xuân. Tình cảm cao quý của Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân tiếp thêm sức mạnh cho Sư đoàn chiến đấu và chiến thắng.

Việc thực hiện chính sách đối với các gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được cụ thể chi tiết hóa. Giải quyết việc làm cho các chiến sĩ còn sức khỏe, phân công chăm nuôi thương binh nặng, giúp đỡ tạo điều kiện cho con em thương binh, liệt sĩ học tập, thăm hỏi giúp đỡ các gia đình neo đơn khó khăn ...Thanh thiếu niên tổ chức các phong trào đền ơn đáp nghĩa các gia đình chính sách, phụ nữ chăm lo cho thương binh, các gia đình liệt sĩ, HTX thực hiện chính sách điều hoà lương thực, giúp đỡ cày cấy, xây dựng nhà cửa, chăm sóc lúc ốm đau ... Việc thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đã tạo ra động lực cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ công tác chiến đấu trên các chiến trường lập công xuất sắc

Xây dựng Đảng bộvà hệ thống vững mạnh, nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi cho việc tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trong những năm 1961 - 1965 Đảng bộ tập trung vào nhiệm vụ tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Đồng thời tích cực bồi dưỡng kết nạp đảng viên, đặc biệt là đảng viên nữ trẻ khỏe, có năng lực trình độ, đào tạo đội ngũ nữ sẵn sàng thay thế nam giới ... xây dựng hệ thống tổ chức mạnh từ Đảng bộ xã đến chi bộ HTX.

Hội đồng nhân dân, UBHC và đoàn thể quần chúng: Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ... đã thực hiện tốt chức năng, tổ chức đoàn kết chỉ đạo toàn dân xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc Các nội chính ngành: Tòa án, Công an, Kiểm sát không ngừng củng cố về tổ chức và nghiệp vụ, tích cực đi về cơ sở [HTX] để tuyên truyền, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố HTX, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ quyền lợi tinh thần, vật chất cho nhân dân.

10 năm hòa bình xây dựng quê hương, bằng sự phấn đấu nỗ lực, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã kiên cường dũng cảm và sáng tạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, tạo ra thực lực to lớn góp phần cùng quân dân cả tỉnh, cả nước đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của giặc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Video liên quan

Chủ Đề