Tại sao chúng ta phải đoàn kết tôn giáo

QĐND - Tôn giáo và dân tộc có mối quan hệ khăng khít. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc thì phải đoàn kết được toàn dân, trong đó có vai trò rất quan trọng của đồng bào tôn giáo. Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ tạo tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu đại đoàn kết dân tộc. Trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, vấn đề này tiếp tục được khẳng định theo hướng phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo để thực hiện đoàn kết lương-giáo. Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng việc giải quyết vấn đề tôn giáo, củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ mới.

Đồng bào tôn giáo [chiếm khoảng 1/4 dân số nước ta] có vị trí hết sức quan trọng trong khối đại đoàn kết dân tộc. Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng, việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, phát triển, nhằm tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển lành mạnh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong Dự thảo, vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo được đề cập ở 4 nội dung, quan điểm cơ bản sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo.

Hai là, phát huy nhữnggiá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.

Ba là, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật.

Bốn là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.

Các nội dung trên cho thấy, trong Dự thảo lần này Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm từng được nêu trong các kỳ đại hội trước, đồng thời có sự kế thừa, phát triển, bổ sung một số điểm cho phù hợp với tình hình mới.

Vấn đề thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo. Điều này cho thấy, Đảng ta xác định tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo đã đề ra từ các kỳ đại hội trước, với tinh thần tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được đặt ra thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, trong Dự thảo lần này không còn cụm từ “phù hợp với quan điểm của Đảng”, như trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI, bởi lẽ chính sách, pháp luật nói chung và chính sách, pháp luật về tôn giáo nói riêng đã là sự thống nhất và triển khai theo quan điểm của Đảng.

Về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, Dự thảo khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, Đảng ta tiếp tục xác định và coi trọng đại đoàn kết dân tộc, coi đây là đường lối chiến lược của cách mạng và là động lực, nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Có như vậy thì chủ trương tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng mới thực sự đi vào thực tiễn, góp phần tập hợp, đoàn kết đông đảo đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Vấn đề thứ hai: Phát huy nhữnggiá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.

Tôn giáo, tín ngưỡng không đơn thuần chỉ là vấn đề đời sống tâm linh, tinh thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống. Trên tinh thần đó, Đảng ta coi tôn giáo là một thành tố của văn hóa, có những giá trị mà công cuộc xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Hơn nữa, mọi tôn giáo chân chính đều răn dạy tín đồ hướng tới cái chân-thiện-mỹ. Đó chính là điểm tương đồng, gặp gỡ giữa tôn giáo với công cuộc đổi mới vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong Nghị quyết Đại hội XI và Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII, vấn đề này đã được chú trọng và khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”. Mặt khác, để đoàn kết được tất cả các thành phần, giai cấp xã hội nói chung và đồng bào tôn giáo nói riêng vào khối đại đoàn kết dân tộc, Dự thảo lần này còn xác định rõ thêm những điểm tương đồng để làm “mẫu số chung” trong quá trình thực hiện mục tiêu đại đoàn kết dân tộc là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Như vậy, Đảng ta xác định, để đoàn kết được toàn dân tộc thì cầnchú trọng phát huy những điểm tương đồng, tìm những “mẫu số chung” để đoàn kết được tất cả đồng bào và chức sắc tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc.

Vấn đề thứ ba: Quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật.

Kế thừa và phát huy quan điểm của tinh thần Đại hội Đảng lần thứ X, XI, Đảng, Nhà nước ta không chỉ công nhận, bảo hộ, mà còn quan tâm, tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt tín ngưỡng theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo, theo đúng quy định của pháp luật. Điều này thể hiện tầm nhìn mới của Đảng đối với các tổ chức tôn giáo hợp pháp. Tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt chính là tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển. Khi tôn giáo được tạo điều kiện phát triển lành mạnh thì đời sống tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo sẽ được tôn trọng, đồng bào tôn giáo sẽ ngày càng có tiếng nói và vị trí quan trọng hơn trong xã hội, qua đó chúng ta càng lôi cuốn, đoàn kết được đông đảo đồng bào vào khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là cách giải quyết vấn đề tôn giáo trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc một cách rất khoa học, vừa bảo đảm tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa định hướng cho tôn giáo phát triển lành mạnh theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật, vừa đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc.

Vấn đề thứ tư: Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.

Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là dung túng cho những hành vi “tự do” vô giới hạn, khi quyền của người này, cộng đồng này lại hạn chế hoặc có khả năng triệt tiêu quyền của người khác, cộng đồng khác, mà quyền ấy chỉ trong giới hạn quy định của pháp luật đểbảo đảm quyền tự do nói chung của con người.

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đồng thời chống lợi dụng tín ngưỡng có quan hệ chặt chẽ với nhau; đặc biệt, trong bối cảnh tôn giáo có nhiều diễn biến phức tạp, như Dự thảo đã chỉ rõ: “Xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai… tiếp tục diễn ra gay gắt”. Vì thế, phải kiên quyết chống việc lợi dụng tôn giáo vào những mưu đồ xấu, mới đảm bảo được quyền tự do chân chính của đồng bào có đạo, và có bảo đảm được quyền đó mới làm cho đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo nhận rõ âm mưu, phòng, chống hiệu quả các thế lực lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng.

Từ Nghị quyết 24, Chỉ thị 37, Nghị quyết 25 cho đến Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI, Đảng ta luôn xác định phải cảnh giác, đấu tranh, chống các âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong Dự thảo lần này có hai điểm đáng lưu ý:

Một là, không chỉ “chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo như văn kiện Đại hội XI đã chỉ ra, mà còn phải “kiên quyết đấu tranh” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Khi đã chủ động phòng ngừa, thuyết phục, tuyên truyền sâu rộng, mà một số thế lực phản động vẫn cố tình lợi dụng, lôi kéo, kích động, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc…, thì chúng ta phải kiên quyết xử lý, bảo đảm cho tôn giáo phát triển lành mạnh, đúng quy định của pháp luật, góp phần ổn định chính trị, xã hội của đất nước.

Hai là, không chỉ phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đối với cả “những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”. Điểm mới bổ sung này rất phù hợp và cần thiết trong tình hình hiện nay, khi mà các tôn giáo và các hiện tượng tôn giáo mới phát triển khá rầm rộ, khó kiểm soát, trong đó, có những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mới đi ngược lại, hoặc vi phạm truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội và tình hình an ninh chính trị của đất nước. Những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đó có thể không, hoặc chưa bị kẻ xấu lợi dụng, nhưng đã trái với quy định của pháp luật, đạo đức, thuần phong mỹ tục..., gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, thậm chí ảnh hưởng tới tình hình an ninh chính trị của đất nước. Làm tốt công tác này góp phần rất quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước, tăng cường đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc.

Nhờ có những chủ trương, chính sách đúng đắn về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước, nên thời gian qua, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta đã được giải quyết một cách thỏa đáng; công tác tôn giáo đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Nhờ quán triệt và kế thừa, phát triển những quan điểm về tôn giáo, tín ngưỡng trong các Văn kiện trước đó của Đảng, nên những nội dung về tôn giáo, tín ngưỡng trong Dự thảo lần này càng cho thấy quan điểm thống nhất, xuyên suốt của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới để đoàn kết đông đảo đồng bào và chức sắc tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là cách giải quyết vấn đề tôn giáo trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc mà Đảng ta đã quán triệt và hoàn thiện dần từng bước trong quá trình đổi mới. Dự thảo lần này có thêm một bước tiến quan trọng trong nhận thức và hành động của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo, tín ngưỡng, góp phần quan trọng tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

TS NGUYỄN XUÂN TRUNG

Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Video liên quan

Chủ Đề