Tại sao phải đổi mới toàn diện và đồng bộ

Bài viết của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về 30 năm đổi mới

VOV.VN - Chủ tịch nước: 30 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự phát triển của đất nước, mang tầm vóc, ý nghĩa cách mạng sâu sắc.

“Đảng phải giải quyết được yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chúng ta có thái độ nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật. Có sức mạnh tổng hợp thì dù khó khăn đến mấy cũng đưa đất nước vượt qua. Khi không có đồng thuận của nhân dân, không được nhân dân ủng hộ thì dù có thuận lợi cũng không thành”, ông Phong phân tích.

Nhìn tổng thể, 30 năm qua, sự nghiệp đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng cũng đánh giá những tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Đặc biệt, Dự thảo Báo cáo chính trị chỉ rõ "đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới".Đây là thời điểm để chúng ta đổi mới mạnh mẽ hơn trong tư duy; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nỗ lực cải cách hệ thống quản trị quốc gia một cách toàn diện và sâu sắc; chủ động hội nhập quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này có nghĩa, nếu một khâu không đồng bộ thì không phát triển.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Bản thân đổi mới toàn diện tạo ra được mối quan hệ thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển giữa các lĩnh vực. Dự thảo văn kiện kỳ này cũng nhấn mạnh thêm “đồng bộ”. “Đồng bộ” ở đây là "đồng bộ" giữa đường lối, giữa chủ trương của Đảng với hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước với những giải pháp thực hiện. Thứ hai, “đồng bộ” giữa các ngành kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội ở Trung ương phải phối hợp với nhau tiến hành đồng bộ. Hoạt động tập trung, thống nhất và có hiệu quả”.

Trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, nhắc lại dấu son Đại hội VI của Đảng và những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử” qua 30 năm đổi mới để càng vững tin và kiên định vào con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Điều quan trọng là xử lý đồng bộ những chủ trương của Đảng với hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước gắn với những giải pháp thực hiện. Nếu thực hiện toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới chắc chắc sẽ tạo bước chuyển mới căn bản, tạo động lực cho sự phát triển đất nước./.

Người dân trong và ngoài nước mong gì vào nhân sự Đại hội Đảng XII?

VOV.VN -Người dân kỳ vọng Đại hội Đảng XII sẽ chọn ra được một đội ngũ cán bộ chủ chốt mới, trẻ hóa, năng động và làm được những việc thiết thực mang lại lợi ích cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Nhận thức về đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Ngày phát hành: 15/03/2020 Lượt xem 14258


1. Các khái niệm cơ bản về "đổi mới chính trị", "đổi mới kinh tế" và quan niệm về "đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế"

Các khái niệm, quan niệm này là sản phẩm của thời kỳ đổi mới đất nước, mà trước hết được thể hiện trong các chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật của các Đảng và Nhà nước, từ đó dần lan tỏa, vận dụng, trở thành nhận thức chung của xã hội Việt Nam [góc độ của chuyên đề này, trước hết chú trọng đến các chủ trương, đường lối của Đảng].

"Đổi mới chính trị" là đổi mới tư duy về chính trị, khác với tư duy này trước đây [trước thời kỳ đổi mới] đã không còn phù hợp [lạc hậu, không sát thực…], bao gồm các chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật về những vấn đề chính trị cơ bản ở Việt Nam hiện nay là: xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc…

"Đổi mới về kinh tế" là đổi mới tư duy về kinh tế, khác với tư duy này trước đây [trước thời kỳ đổi mới] đã không còn phù hợp [lạc hậu, không sát thực…], bao gồm các chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật về những vấn đề kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức; phát triển đồng bộ nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam…

"Đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế": Chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực lớn và cơ bản nhất của một chế độ chính trị xã hội, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng sâu sắc.

Trước hết, mối quan hệ này là tập trung biểu hiện của mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế - xã hội nói chung. Trong đó, suy cho cùng, cơ sở hạ tầng, tức kinh tế giữ vai trò quyết định. Đồng thời, kiến trúc thượng tầng - chính trị cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng.

V.I.Lênin đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"[1]; "Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại"[2]. Sự khẳng định này có nghĩa, chính trị ra đời từ kinh tế, do kinh tế quyết định; chính trị là sự phản ánh, là tính thứ hai so với kinh tế. Chính trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, không được thoát ly những đặc trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội. Khi cơ sở kinh tế biến đổi, chính trị phải biến đổi theo để phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù hợp với kinh tế để tạo được môi trường tốt nhất cho kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan.

Đồng thời với việc thừa nhận tính thứ nhất của kinh tế, Lênin cũng cho rằng, "chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế"[3]. Khẳng định đó của Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trò tác động trở lại rất tích cực của chính trị đối với kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế thông qua sức mạnh của các thể chế của hệ thống chính trị, đặc biệt là của nhà nước được thể hiện ở chỗ nếu một nền chính trị đúng đắn, khoa học, phù hợp với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, và vì thế, nó sẽ góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Ngược lại, nếu chính trị sai lầm, không khoa học, không phù hợp với thực tiễn kinh tế thì nó sẽ là lực lượng kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy kinh tế vào khủng hoảng, và hậu quả đi kèm tất yếu là mất ổn định chính trị - xã hội.

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ giữa kinh tế với quyền lực chính trị. Nói cách khác, đó là mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với kinh tế hướng tới sự phát triển kinh tế, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế trực tiếp quyết định tới mục tiêu của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế. Hơn nữa, nó còn quan hệ tới việc định hướng cho sự phát triển kinh tế, bởi giải quyết quan hệ này trên quan điểm lý tưởng nào? Vì ai? Do đó, từ gócđộ quan hệ với kinh tế, vấn đề chính trị thực chất là vấn đề định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế.

Trong xã hội có giai cấp, giai cấp, nhóm xã hội nào nắm được quyền lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với giai cấp, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm mình. Vì vậy, tác động của chính trị đến kinh tế thể hiện tập trung ở sự tác động của quyền lực chính trị [biểu hiện tập trung quyền lực nhà nước] đối với kinh tế. Về cơ bản, sự tác động đó thể hiện trên ba phương diện: cương lĩnh, đường lối chính trị với chính sách kinh tế; tổ chức, thiết chế chính trị với kinh tế; con người, chủ thể giải quyết mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế[4].

Từ mối quan hệ biện chứng khách quan như nêu trên giữa chính trị và kinh tế, mà trong chỉ đạo thực tiễn phát triển chính trị và kinh tế phải chú trọng đảm bảo tính hài hòa để làm cho cả chính trị và kinh tế đồng phát triển, góp phần và làm cơ sở vào sự phát triển nói chung. Vận dụng tinh thần này, trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, đổi mới chính trị phải đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế. Cụ thể là:

- Đổi mới chính trị hay đổi mới kinh tế phải được tiến hành ở cả các nội dung cơ bản của chúng. Tất nhiên, trong đó có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình khác nhau.

- Ở mỗi nội dung cơ bản, trong đó cũng chú trọng giải quyết hài hòa yếu tố chính trị và kinh tế. Ví dụ: phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cần giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường hoặc giữa tăng trưởng kinh tế với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân.

- Sự đồng bộ, phù hợp giữa chính trị và kinh tế lại mang tính tương đối, nó sẽ bị phá vỡ nếu không được điều chỉnh qua mỗi thời điểm lịch sử cụ thể.

- Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới được tập trung ở 9 mối quan hệ lớn mà Đại hội XII nêu ra là: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc sở hữu chủ nghĩa; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Thực tế ở nước ta hiện nay, có thể khái quát thành 4 quan hệ đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh ế cần quan tâm nhất sau đây:

- Đảng lãnh đạo đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế.

- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tăng cường quốc phòng, an ninh và giữ vững ổn định chính trị trong hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Quá trình nhận thức về đổi mới chính trị, đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế của Đảng ta

Một là, những năm đầu của thời kỳ đổi mới - chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Tại Đại hội VI [1986], trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế, từ đó khẳng định yêu cầu trước hết là phải đổi mới tư duy chính trị trong xác định đường lối đối nội và đối ngoại. "Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần thứ VI đề ra"[5].

Trong quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta xác định trước hết phải đổi mới kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng quản lý này phải bằng pháp luật: "Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhà nước lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật"[6]. Đổi mới chính sách giai cấp phải đồng thời với đổi mới được dân tộc: "Chính sách giai cấp [bao gồm chính sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý mối quan hệ với các lợi ích của các giai cấp" và chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội"[7]. Phải đổi mới, kiện toàn hệ thống chuyên chính vô sản, giữ vững ổn định chính trị - xã hội tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới. Như vậy, với việc đổi mới tư duy chính trị trong hoạch định đường lối, chính sách của Đại hội VI, Đảng ta đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới chính trị. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI [1989] nêu 6 nguyên tắc đổi mới, nhấn mạnh đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị.

Đến Đại hội VII [1991] Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm là: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Văn kiện Đại hội ghi rõ: "Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội"[8]. Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII xác định một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng nhằm tiếp tục bổ sung và phát triển đường lối đổi mới, chấn chỉnh những nhận thức lệch lạc trong đổi mới cả kinh tế và chính trị.

Đảng ta nhấn mạnh rằng: "Vì chính tư duy chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị"[9]. Vì thế trong bối cảnh đất nước còn đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, Đảng ta chủ trương phải tập trung đổi mới kinh tế trước. Vì theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, xét đến cùng, kinh tế là nhân tố quyết định. Có đổi mới, phát triển kinh tế mới tạo lập được các điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị - xã hội và tiến hành đổi mới chính trị thuận lợi. Bên cạnh đó phải đổi mới chính trị để mở đường thúc đẩy phát triển kinh tế, nếu không chính trị sẽ cản trở kinh tế.

Tóm lại, những năm đầu thời kỳ đổi mới, với mục tiêu lấy ổn định làm tiền đề đổi mới, Đảng ta xác định ưu tiên đổi mới kinh tế trước, trên cơ sở đó, từng bước đổi mới chính trị, mà chủ yếu là đổi mới hệ thống chính trị.

Hai là, bước vào đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Sau hai nhiệm kỳ đổi mới, đất nước đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, về mối quan hệ đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, Đảng ta có xác định mới trong Văn kiện Đại hội VIII [1996] là: "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị"[10].

Nếu xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.

Trong việc đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đi những bước thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi, với nhận thức đây là việc rất cần thiết nhưng đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắt, có khi không cứu vãn được.

Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ, hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận đa nguyên đa đảng.

Đến Đại hội IX [2001] Đảng ta tiếp tục có nước ta tư duy về chính trị xác định chiến lược phát triển kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; đưa nước ta trước một nước công nghiệp. Tương ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng thể hiện quyết tâm đổi mới hệ thống chính trị: "Cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn"… "Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân"[11]. Đổi mới đồng bộ chính sách giai cấp và chính sách kinh tế - xã hội. "Chính sách và pháp luật của Nhà nước là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Xây dựng đồng bộ các chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, phát huy mọi khả năng sáng tạo của nhân dân. Đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, đặc biệt là các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phân phối, tiêu dùng, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của công dân…"[12].

Đến Đại hội X [2006], sau 20 năm đổi mới, từ thực tiễn Đảng ta nhấn mạnh rằng, "Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp"[13]. Và tinh thần đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế được thể hiện rõ trong 5 bài học lớn mà Đảng ta rút ra là:

- Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.

- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.

- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.

- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [năm 1991], đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội[14].

Ba là, thời kỳ đất nước ra khỏi tình trạng mới kém phát triển, thực hiện Cương lĩnh 2011 đến nay.

Chỉ sau 15 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [1996-2011] có bước phát triển vượt bậc: Ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển để đứng vào đội ngũ những nước đang phát triển. Lúc này, Đại hội XI [2011] xác định 5 quan điểm phát triển, trong đó có quan điểm: "Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Tinh thần cụ thể của quan điểm này là: Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả quá trình đổi mới[15].

Đại hội đã ra Cương lĩnh, trong đó nêu rõ 8 đặc trưng mang tính toàn diện của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta hướng tới xây dựng[16], đồng thời chỉ rõ Mục tiêu tổng quát khi hết thời kỳ quá độ ở nước ta, theo cơ cấu của một hình thái kinh tế - xã hội, trong đó hài hòa giữa chính trị - kinh tế - xã hội: "…xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh"[17].

Đến Đại hội XII [2016], sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững. Đảng tiếp tục có nhận thức mới về phát triển phù hợp, đồng bộ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.

Ở Đại hội X, nêu 3 trụ cột phát triển được xác định là: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội thì Đại hội XII thêm: "đảm bảo quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên"[18] và bổ sung "phát triển kinh tế là trung tâm" thành "phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm"

Trong mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước của nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo: đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế và chính trị. Cụ thể là: "…tiếp tục thực hiện có hiệu quả các phương hướng, nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững. Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ…"[19].

PGS.TS Phan Thanh Khôi

Học viện Chính trị QG Hồ Chí Minh


[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, t.42, tr.349.

[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.147.

[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.349.

[4] Xem: GS.TS. Dương Xuân Ngọc [chủ biên]: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.36-37.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.125.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.117.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.96

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.54.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.54.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.71, 72.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.47

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.124.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.70

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.70-72.

[15] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.99.

[16] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.99.

[17] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.64.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.76.

Một số vấn đề về đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Ngày đăng: 28/02/2019 06:35
Mặc định Cỡ chữ
Đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay là vấn đề lớn cần tổng kết, tiếp tục nghiên cứu, và có cách thức phù hợp. Giải quyết hiệu quả mối quan hệ trên, chúng ta mới tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Ảnh minh họa - Nguồn: vov.vn

Nhìn lại 30 năm đổi mới [1986 - 2016], Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[1], đồng thời, Đại hội nghiêm khắc thừa nhận: “...còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục...”[2]; Trong các mối quan hệ lớn hiện nay, Đại hội XII chỉ rõ: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế”[3].

Rõ ràng, thời kỳ mới cấp bách đòi hỏi chúng ta ngẫm thời cuộc lớn, soát xét lại mình, mở rộng tầm nhìn, chuẩn bị hành trang, tiếp tục chủ động và kiên định đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ, không thể rụt rè, do dự hay chờ đợi, cầu toàn. Trong toàn bộ công việc hệ trọng đó, việc đổi mới chính trị, càng đòi hỏi chúng ta về tầm nhìn mới, trước sứ mệnh mới, với mục tiêu mới, bằng sự chuẩn bị toàn vẹn thực lực mới và hành động với phương lược hành động mới. Vì, thời cơ, lúc này, chính là lực lượng; vì sự phát triển của quốc gia - dân tộc là yêu cầu tối cao; và vì, thời đại không chờ đợi chúng ta.

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Vấn đề đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế thực chất là vấn đề nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị hay ngược lại, cả về nhận thức, cả về hành động. Vậy, phải nhận thức như thế nào về mối quan hệ, tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị?

Ngay trong khái niệm chính trị và đổi mới chính trị, trong nhận thức của chúng ta có một điểm dễ gây nhầm lẫn, đó là đổi mới chính trị hay đổi mới hệ thống chính trị? Khái niệm chính trị rộng hơn khái niệm hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị chỉ là hệ thống thiết chế tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, còn chính trị không chỉ là hệ thống thiết chế bộ máy, nó còn là các quan hệ chính trị, chính sách chính trị, mô hình chính trị. Khi nói đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, phản xạ tự nhiên trong tư duy của cán bộ lãnh đạo, quản lý và do đó chi phối cả tư duy xã hội là chỉ thường khoanh vùng vào hệ thống chính trị, còn các yếu tố khác, cấu phần khác của chính trị không được nhận thức và chú trọng đầy đủ. Trong đó có công nghệ chính trị giải quyết một điểm nóng, một cuộc xung đột, một tình huống bất ổn xảy ra cần đến một công nghệ chính trị, ta chưa có sự hiểu biết cần thiết về vấn đề này và sự thực hành còn yếu kém. Trong công nghệ chính trị đó, nó không chỉ giải quyết các bất ổn định, cao hơn còn là khủng hoảng. Chẳng hạn, công nghệ bầu cử được các nước phát triển rất chú trọng, còn chúng ta mới thừa nhận là trong bầu cử không rơi vào trạng thái nhất nguyên, tức là bầu cử có số dư, còn vấn đề tranh cử, ứng cử viên tiếp xúc với cử tri, vấn đề tiếp xúc đối thoại, phản biện để tạo ra một môi trường xã hội dân chủ, tạo ra một không gian để cử tri lựa chọn những đại biểu xứng đáng còn rất hạn chế. Do công nghệ chính trị yếu nên ta cũng chậm thực hành văn hóa chính trị, một vấn đề rất quan trọng nhưng ta chưa làm được bao nhiêu. Đến Đại hội XII, Đảng ta mới khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải đồng bộ, trước đó, trong các văn kiện của Đảng, vấn đề này chưa rõ. Rõ ràng là phạm trù chính trị tương quan với phạm trù kinh tế. Nếu lấy một bên là phạm trù hệ thống chính trị và một bên là phạm trù kinh tế thì không lô-gíc. Nội hàm và ngoại diên của phạm trù chính trị rộng hơn rất nhiều so với khái niệm hệ thống chính trị. Như vậy, ngay trong nhận thức đã không đồng bộ, vì thế cũng không phù hợp. Do đó, nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải đồng bộ là vấn đề rất quan trọng, chi phối nhận thức và xử lý các mối quan hệ khác.

Thứ nhất, đồng bộ nói ở đây không phải là vấn đề thời gian, hiểu thế là máy móc, cơ học.

Kinh tế cực kỳ quan trọng, kinh tế phải đi trước. Đại hội VI [1986] đánh dấu công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế, đặc biệt là đổi mới toàn diện nền kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI [năm 1989], đưa ra những nguyên tắc của đổi mới mà tinh thần của những nguyên tắc đó là: Đổi mới phải dựa trên tiền đề ổn định, dựa trên tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, có được lợi ích của đổi mới, nhân dân sẽ ủng hộ.

Đó mới là ổn định tích cực. Ổn định là tiền đề, là điều kiện, đổi mới là phương thức, là con đường và phát triển là mục đích. Đó là quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển.

Bất kể chế độ chính trị nào đều phải đổi mới nếu muốn tồn tại. Phát triển là mục tiêu, là điểm đến, là đích. Phát triển giờ đây là phát triển bền vững, phát triển gắn với hiện đại hóa, với hội nhập quốc tế với bảo vệ môi trường, tránh thảm họa toàn cầu.

Như vậy, tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở đây gắn chặt với vị thế, vị trí ưu tiên của từng lĩnh vực. Tuy là đổi mới đồng bộ, nhưng thực tiễn phát triển đòi hỏi phải đổi mới kinh tế làm tiền đề đổi mới chính trị thận trọng, từng bước một.

Vậy thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đồng bộ với nhau là bảo đảm sự hài hòa giữa kinh tế với chính trị làm sao kinh tế đóng vai trò thúc đẩy, tạo ra cơ sở vật chất cho chính trị và chính trị đóng vai trò dẫn đường cho kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển, sự tương tác hài hòa của chúng chính là đồng bộ.

Thứ hai, đồng bộ mang tính toàn diện.

Toàn diện trước hết là tư duy, cả đổi mới toàn diện tư duy kinh tế lẫn đổi mới toàn diện tư duy chính trị. Tiếp theo là đổi mới về thể chế. Từ năm 2016, chúng ta xác định trọng điểm, điểm nhấn đột phá giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là đổi mới chính trị trong khi vẫn tiếp tục phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, đổi mới kinh tế để tạo ra tiềm lực vật chất cho xã hội, giai đoạn này lấy trọng điểm là đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới thể chế chính trị. Thể chế ở đây là hệ thống luật pháp của Nhà nước và những hệ thống quy định luật lệ trong Đảng. Điều lệ Đảng phải được coi như bộ luật của Đảng. Nó quan trọng như Hiến pháp của Nhà nước, khi đó đảng viên vừa phải tuân theo Hiến pháp với tư cách là công dân, vừa tuân thủ Điều lệ Đảng với tư cách là đảng viên.

Thứ ba, đồng bộ về thiết chế, bộ máy.

Vấn đề này nan giải nhất, đụng đến cấu trúc lại hệ thống bộ máy chính trị. Nếu không được nhận thức và hành động đúng đắn, khoa học và quyết liệt, việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về việc tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ đơn thuần là sáp nhập về số học, cơ học. Vấn đề là, cấu trúc lại phải đi liền với chức năng mới, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thiết chế ngang dọc, cấu trúc bên trong của hệ thống chính trị với chức năng được phân định rõ ràng của từng bộ phận cấu thành hệ thống chính trị mới. Qua đó, khắc phục được tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, công chức hóa, bộ máy cồng kềnh hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả.

Thứ tư, tính đồng bộ thể hiện ở chính sách, cơ chế và chế tài.

Trong chính sách là cả một hệ thống lớn: chính sách kinh tế, chính sách chính trị, chính sách xã hội, chính sách văn hóa; chế tài không chỉ tồn tại ở đường lối chiến lược, chế tài biểu hiện như một chính sách: chính sách chính trị, chính sách công.

Đảng chỉ cần hệ thống những chuyên gia giỏi, không nên biến đảng viên thành công chức, lãnh đạo Đảng trở thành người quản lý hành chính, chỉ thị mệnh lệnh lãnh đạo theo kiểu hành chính. Từ lâu, V.I. Lê-nin đã chỉ ra: ra lệnh là dễ nhất nếu có chức có quyền, nhưng tệ hại nhất. Vì nó phạm vào dân chủ, làm thụ động con người, không trực tiếp kích thích được các nhân tố sáng tạo, trong khi chúng ta cần phát huy mọi năng lực sáng tạo của con người.

Thứ năm, tính đồng bộ bao hàm đồng bộ về điều kiện nhận thức đúng, giải pháp tốt.

Có cơ chế chính sách đúng, nhưng không đủ điều kiện thì khó có thể giải quyết tốt được mối quan hệ đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Điều kiện đó bao gồm cả điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần, nhất là điều kiện vật chất. Đã là điều kiện vật chất, phải tính đến phương thức phân bổ các nguồn lực tài chính. Từ đó, làm cho các giải pháp khả năng thành giải pháp hiện thực, làm cho tinh thần đổi mới, quyết sách chiến lược đổi mới đến hiện thực đổi mới.

Vấn đề đồng bộ có thể nhìn nhận từ khía cạnh xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Với truyền thống, ông cha ta biết bao nhiêu tinh hoa mà ta chưa ý thức hết, chưa khai thác hết. Hiện nay, rất cần làm sống lại những giá trị tinh hoa của truyền thống trong công thức “an dân trị quốc”, trong đó có vấn đề dùng người, tiến cử, lòng tự trọng, tự rút lui, vấn đề đạo làm quan,... Với hiện đại, đòi hỏi phải tiếp thu những cái hay cái tốt về lãnh đạo, cầm quyền, văn hóa chính trị của các nước, các chính đảng cả trong khu vực và trên thế giới để tìm kiếm sự đồng thuận khi hội nhập quốc tế sâu, rộng. Cùng với đó là tự mình làm phong phú, giàu có thêm cho mình bằng tinh hoa của nhân loại như Bác Hồ từng nói: Phương Tây có gì hay cũng học, phương Đông có gì hay cũng học, học cốt để làm phong phú mình chứ không sao chép bắt chước.

Tiếp tục giải quyết thấu đáo, hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Thứ nhất, về kinh tế: Trên cơ sở tiếp tục đổi mới toàn diện về kinh tế để có một cơ sở đúng đắn cho việc hoạch định chính sách, đường lối kinh tế phát triển, cần tập trung mấy điểm sau đây:

- Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

Muốn vậy, về mặt tư duy kinh tế cần xác định: chủ đạo không có nghĩa là độc quyền, không có nghĩa là ưu đãi tuyệt đối cho kinh tế nhà nước, mà chủ đạo trên cơ sở có thực lực, tự phát triển để có thực lực, để đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thương trường. Chủ đạo bằng thực lực, sức mạnh của chính mình chứ không phải bao cấp, ưu đãi, ỉ lại độc quyền vị thế để chèn ép các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước phải đủ sức cạnh tranh một cách văn hóa, lành mạnh trên thương trường với tất cả các thành phần kinh tế khác, theo hành lang pháp lý.

- Tổ chức, sắp xếp lại kinh tế hợp tác, trong đó vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng kinh tế dịch vụ, hợp tác sản xuất lớn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Cơ chế, chính sách của Nhà nước tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.

- Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

- Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì, kinh tế tư nhân đem lại lợi ích to lớn cho xã hội, trong khi chỉ cần Nhà nước thừa nhận, tạo hành lang pháp lý cho nó hoạt động. Kinh tế tư nhân ở đây không ai khác đó là người dân làm kinh tế - dân doanh. Đến lúc chúng ta cần bỏ tư duy xem tư nhân là phi xã hội chủ nghĩa; khắc phục nhanh và mạnh mẽ mâu thuẫn lô-gíc trong tư duy, đó là, một mặt, đề cao vai trò làm chủ của dân; mặt khác, lại dị ứng với thành phần kinh tế tư nhân. Khắc phục được lỗi lô-gíc này mới có thể thay đổi được thái độ đối với kinh tế tư nhân, từ đó tạo mọi điều kiện trong hành lang luật pháp, chính sách để kinh tế tư nhân phát triển đa dạng, phong phú.

Gắn liền với đó là, thực hiện liên kết kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân để tăng nguồn lực đầu tư tập trung trọng điểm, đồng thời khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải, chia cắt, lãng phí. Kinh tế tư nhân liên kết với kinh tế nhà nước sẽ tạo thành thế và lực của nền kinh tế để giải quyết các vấn đề về việc làm, đời sống, an sinh, phúc lợi xã hội,... mở ra điều kiện và tạo động lực để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ hai, về chính trị: đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế cần tập trung vào mấy trọng điểm sau:

Hiện nay, chúng ta đổi mới tương đối rõ nét và toàn diện về kinh tế, nhưng đổi mới chính trị còn chậm, thậm chí có khi còn do dự, lúng túng chưa thực sự thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế.

- Đổi mới toàn diện chính trị ở nước ta hiện nay, trước hết là “Tiếp tục nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận về Đảng cầm quyền”. Đây là vấn đề quan trọng nhất về chính trị hiện nay ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm quyền. Cầm quyền trong điều kiện thể chế pháp quyền, hệ thống chính trị nhất nguyên đòi hỏi Đảng làm rõ hơn nữa những vấn đề: Tư duy về Đảng cầm quyền; quan niệm về cầm quyền trong mối quan hệ với lãnh đạo, quản lý quản trị xã hội; nội dung cầm quyền; phương thức cầm quyền; thể chế cầm quyền; mô hình cầm quyền; điều kiện để cầm quyền; dự báo những nguy cơ có thể xảy ra đối với Đảng cầm quyền và chủ động tìm kiếm những giải pháp đẩy lùi nguy cơ, tranh thủ và tận dụng thời cơ phát triển đất nước.

- Giám sát và kiểm soát quyền lực cần được bắt đầu từ trong Đảng và đi liền với nó là dân chủ trong Đảng. Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Dân chủ trong Đảng tốt, xã hội sẽ dân chủ.

- Kiểm soát quyền lực: tạo ra một thói quen, một nhu cầu biết lắng nghe ý kiến của dân từ cơ sở, tiếng nói của người dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ, quan chức, công chức bắt đầu từ cơ sở. Cùng với đó, tìm cách khắc phục bệnh hình thức trong việc tiếp dân. Tỉnh nào cũng có văn phòng đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, có cả bộ máy, kinh phí định kỳ tiếp dân. Nếu làm tốt tất cả những quy trình trên, nền chính trị của chúng ta mới thực sự là chính trị hành động, chính trị có hiệu quả và đổi mới chính trị khi ấy mới đem lại lợi ích cho nhân dân. Vì vậy, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề về thực hành dân chủ, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền và kiểm soát quyền lực. Tháo gỡ được những vấn đề này sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển chứ không cản trở, thậm chí không làm tổn hại đến kinh tế và như thế nhân dân được lợi từ đổi mới chính trị.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đây là quan hệ giữa 3 chủ thể với chức năng nhiệm vụ khác nhau, với thẩm quyền, trách nhiệm khác nhau. Đảng có trọng trách lãnh đạo, dẫn dắt xã hội; Nhà nước có trọng trách về thể chế hóa, biến quan điểm đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách để thực hiện; nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực. Nó là quan hệ giữa các chủ thể chính trị pháp lý được thể chế hóa, được hiến định. Vì vậy, trước hết, chúng ta phải nhận thức, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân.

Một thời gian rất dài, nói về xây dựng Đảng ta chỉ nói 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng tiếp tục triển khai quyết liệt hơn, cụ thể hơn, rõ ràng hơn trong nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với 27 biểu hiện cụ thể để cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng tự soi chiếu, rèn luyện phấn đấu phòng, chống và khắc phục. Đây là bước tiến rất quan trọng về tính hợp pháp, hợp lý và tính chính đáng của Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, đến lúc phải nhấn mạnh xây dựng Đảng về văn hóa chứ không chỉ dừng lại ở đạo đức, mặc dù đạo đức là cái cốt lõi của xã hội, nhưng trong văn hóa còn có khoa học, nghệ thuật. Trong văn kiện Đại hội XII cũng đã tiếp cận đến vấn đề văn hóa khi chỉ ra: “Xây dựng văn hóa vào trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”[4].

Như vậy, một khía cạnh nữa để đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế chính là vấn đề xây dựng Đảng về văn hóa. Nhất là văn hóa của người lãnh đạo quản lý, văn hóa của người đứng đầu, văn hóa của cấp ủy các cấp và không có cái văn hóa nào quan trọng hơn là văn hóa ứng xử với dân, văn hóa chịu trách nhiệm trước dân, cả xin lỗi, từ chức và tự xấu hổ.

Vấn đề chính trị và đổi mới chính trị không chỉ là đổi mới tư duy chính trị, xây dựng tầm nhìn chính trị, bản lĩnh chính trị,... còn là sự hành xử chính trị thực tiễn: bao quát thời cuộc, chiêm nghiệm sự vận động toàn cầu của các quốc gia, kiến tạo thể chế chính trị khách quan, khoa học, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, xây dựng thực lực chính trị, chế định những quyết sách chính trị, nâng cao văn hóa chính trị, con người chính trị, xác định và phát huy hệ động lực tổng hợp đổi mới chính trị của đất nước. Tiếp cận theo hướng này, từ nhận thức, tư duy đến hành động sẽ giải quyết tốt được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, sẽ có một nền chính trị đoàn kết và thanh khiết theo tư tưởng Hồ Chí Minh - một chính trị mở đường, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững./.

PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

--------------------------------------------

[1], [2], [3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 65, 68
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 128

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Sáng 26/1/2021, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai mạc trọng thể tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Thủ đô Hà Nội.

Các đại biểu dự phiên khai mạc Đại hội. Ảnh: TTXVN

Đại hội có chủ đề: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa."

Tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng; Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng; Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình; Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh; Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch; Bộ trưởng Công an Tô Lâm; Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ; Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân; Phó Trưởng bộ phận Thường trực chuyên trách Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII Hoàng Trung Hải và đồng chí Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn.

Tới dự phiên khai mạc có các đồng chí: Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; nguyên Chủ tịch nước: Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Văn An, Nguyễn Sinh Hùng.

Các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đại biểu dự phiên khai mạc Đại hội. Ảnh: TTXVN

Các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ và các đồng chí nguyên Ủy viên Trung ương Đảng các khóa, các đồng chí Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII, các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo và đại diện thế hệ trẻ.

Các vị Đại sứ, Đại biện các nước, Trưởng đại diện các tổ chức quốc tế tại Hà Nội đã dự phiên khai mạc Đại hội.

Tham dự Đại hội có 1.587 đại biểu, đại diện cho hơn 5,1 triệu đảng viên trong cả nước.

Đông đảo phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước và nước ngoài tới đưa tin về Đại hội.

Các đại biểu quốc tế dự Đại hội. Ảnh: TTXVN

Đại hội XIII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011], Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 [kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước]; xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 [kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng] và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045 [kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam].

Đồng thời, Đại hội kiểm điểm sâu sắc, toàn diện công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ mới; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng, đặc biệt là bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII gồm những đồng chí thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ, đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang, được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong những năm tới.

Tại phiên khai mạc Đại hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Tiểu ban Văn kiện trình bày Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, tập trung vào một số vấn đề chung, cơ bản, có tính chất khái quát, làm rõ những nội dung chủ yếu và các điểm nhấn quan trọng để Đại hội xem xét, thảo luận, cho ý kiến quyết định.

Kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các văn kiện trình Đại hội. Ảnh: TTXVN

Về quá trình chuẩn bị các văn kiện, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho biết, trong hơn 2 năm qua, các Tiểu ban đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu, các bộ, ban, ngành ở Trung ương và các cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức gần 60 cuộc hội nghị, hội thảo, toạ đàm, thành lập 50 đoàn đi khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia; tổ chức tọa đàm với một số tổ chức quốc tế, 2 đoàn đi khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài. Các cơ quan nghiên cứu lý luận, khoa học đã gửi khoảng 80 báo cáo tư vấn, kiến nghị cho các Tiểu ban. Các Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để thảo luận, thông qua Đề cương và các dự thảo văn kiện. Bộ Chính trị đã họp nhiều lần để cho ý kiến hoàn thiện Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương tại các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14 và 15.

Các dự thảo Báo cáo đã được chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần và được gửi xin ý kiến rộng rãi của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều tổ chức, cơ quan, đoàn thể... Bộ Chính trị đã quyết định cho công bố công khai toàn văn các dự thảo Báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để lắng nghe ý kiến rộng rãi của nhân dân. Đã có hàng triệu lượt ý kiến đóng góp vào dự thảo các văn kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương; các ý kiến đóng góp được tổng hợp lại thành 1.410 trang.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định, việc chuẩn bị dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII lần này đã được tiến hành rất công phu, chu đáo, bài bản, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện rõ sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng Dân", hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các ý kiến, đề xuất tâm huyết, trách nhiệm, kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với Đảng, nhân dân và đất nước, mong muốn Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; dân tộc ta ngày càng cường thịnh, trường tồn.

Dấu ấn nổi bật, tạo động lực mới, khí thế mới

Đại hội nghe đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các văn kiện trình Đại hội. Ảnh: TTXVN

Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, năm năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xẩy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao [khoảng 5,9%]. Nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập trung giải quyết và đạt những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết quả quan trọng. Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, được tiến hành toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nhiều vấn đề phức tạp được đặt ra và thực hiện từ những năm trước, nhưng hiệu quả còn thấp, trong nhiệm kỳ này đã có chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.

Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Việt Nam đã coi trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh, chủ động xử lý thành công các tình huống, không để bị động, bất ngờ. An ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời đóng góp tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và khu vực, được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.

Các đại biểu dự phiên khai mạc Đại hội. Ảnh: TTXVN

Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, Việt Nam đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi "mục tiêu kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch COVID-19 thành công; vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới. Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng trong việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, nhất là trong những lĩnh vực quan trọng, then chốt; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ và các cấp chính quyền; sự đổi mới phù hợp, đúng đắn về nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị; sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Những bài học kinh nghiệm quý báu

Đại hội nghe đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các văn kiện trình Đại hội. Ảnh: TTXVN

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu một số bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn công cuộc đổi mới, nhất là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiên định, vững vàng và tự tin khi bước vào nhiệm kỳ khóa XIII.

Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực; có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.

Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hóa, của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.

Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hoà bình, ổn định an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới

Đại biểu dự phiên khai mạc Đại hội. Ảnh: TTXVN

Về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội Đảng và những năm tiếp theo, Tổng Bí thư nhấn mạnh tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới.

Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.

Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.

Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định, với một đảng cách mạng chân chính, trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín lãnh đạo như Đảng ta, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, chúng ta sẽ có một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên, lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Mục tiêu phát triển tổng quát trong nhiệm kỳ 2021 - 2025 và những năm tiếp theo là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nêu các định hướng các định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, Tổng Bí thư nhấn mạnh, nhiệm kỳ Đại hội XIII là một dấu mốc, một bước chuyển hết sức quan trọng, làm tiền đề cho các nhiệm kỳ tiếp theo để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc, sự thống nhất của "ý Đảng, lòng Dân", chúng ta quyết tâm thực hiện thật tốt hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp mà các văn kiện trình Đại hội XIII đã đề ra để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới với 6 trọng tâm.

Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Hai là, đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao.; xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập.

Ba là, khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Năm là, Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Sáu là, quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.

Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Các đại biểu dự phiên khai mạc Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Ảnh: TTXVN

Với phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trong đề nghị Đại hội cần thảo luận kỹ lưỡng để đạt được sự thống nhất cao và biểu quyết thông qua các văn kiện của Đại hội, bảo đảm cho sự thành công của Đại hội, tạo cơ sở cho việc quán triệt, triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết Đại hội, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh, thực tiễn sinh động, phong phú, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc qua 35 năm đổi mới, nhất là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, tinh thần đoàn kết và sự thống nhất của toàn hệ thống chính trị, sự tin tưởng và ủng hộ của nhân dân là cơ sở vững chắc để Đảng ta đưa ra những thông điệp mạnh mẽ, những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng với hướng đi đúng đắn, hợp quy luật; ý Đảng hợp với lòng dân; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng vươn lên mãnh liệt và ý chí, quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những kỳ tích phát triển mới, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc.

Tiếp đó, đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương khóa XII Trần Quốc Vượng trình bày báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

Buổi chiều, Đại hội làm việc tại Đoàn để thảo luận các Văn kiện Đại hội.

TTXVN/Báo Tin tức
Toàn văn Diễn văn khai mạc của Thủ tướng tại Đại hội XIII của Đảng

Sáng 26/1, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc trọng thể tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ở Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.587 đại biểu chính thức.Thay mặt Đoàn Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đọc Diễn văn khai mạc Đại hội.

Chia sẻ:
Từ khóa:

Bài 5: Điểm mới trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị

[ĐCSVN] – Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã thông qua nội dung “xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”, là sự cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục bổ sung những nhận thức mới quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt nhấn mạnh tới việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII

Vì sao phải xây dựng Hệ thống chính trị

Khái niệm “Hệ thống chính trị” bắt đầu được sử dụng từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI [tháng 3-1989], để thay cho khái niệm “Hệ thống chuyên chính vô sản”. Đây là một bước tiến trong nhận thức mới của Đảng về vai trò, vị trí, tính chất của hệ thống quyền lực trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [CNXH] ở Việt Nam. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu cơ, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị ở nước ta vận hành theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên thực tế, hệ thống chính trị nước ta nắm giữ toàn bộ hệ thống các quyền lực xã hội từ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác trong xã hội.

Công cuộc đổi mới luôn là một đòi hỏi khách quan của đảng cầm quyền lãnh đạo phải không ngừng thích nghi, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới, mà ở đây là Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội. Điều đó cho thấy lịch sử phát triển của Đảng ta luôn gắn với công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng để ngang tầm với nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Để làm được điều đó hệ thống chính trị bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc tập hợp các đoàn thể... đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích xây dựng, phát triển đất nước, tiến lên CNXH, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu đầu tiên là cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Hệ thống chính trị là thống nhất trong một chỉnh thể vì mục tiêu chung với vai trò Đảng Cộng sản là hạt nhân quan trọng vừa là thành viên vừa là lãnh đạo hệ thống chính trị, Nhà nước và xã hội. Trong hệ thống chính trị Nhà nước, chính quyền, các tổ chức đoàn thể Nhân dân, xã hội đều có tổ chức Đảng từ tổ đảng, cấp ủy, chi bộ …sự lãnh đạo của Đảng còn thể hiện đặc biệt ở công tác cán bộ, thông qua việc Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình ứng cử vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước và cả hệ thống chính trị.

Muốn tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị cần phải đổi mới đồng bộ, Đảng phải thực thi vai trò lãnh đạo toàn diện, đặc biệt ở việc tổ chức thực thi đường lối. Đây có thể nói là khâu quyết định. Hệ thống chính trị cần được lãnh đạo toàn diện cả về mặt thể chế, tổ chức, phương thức hoạt động và kiểm soát quyền lực.

Mối quan hệ giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải gắn liền với xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh còn thể hiện ở chỗ Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu lực hiệu quả, liêm chính vì dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc giám sát và thực thi đường lối, chủ trương của Đảng trong cuộc sống. Các thành viên thực hiện tốt được điều đó sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, góp phần vào việc vận hành tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.

Đảng thực hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của mình thông qua Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, do vậy xây dựng Nhà nước vững mạnh, liêm chính, hiệu lực hiệu quả có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhà nước chính là nơi thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, tổ chức thực hiện các quyết sách lãnh đạo của Đảng thành chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Cũng như vậy, Đảng và Nhà nước chỉ vững mạnh, hoàn thành được nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy hết vai trò, trách nhiệm, thực hiện giám sát thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; đồng thời chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh còn là tiền đề quan trọng giúp cho Đảng có được mối quan hệ mật thiết với nhân dân, gần dân hơn khơi dậy phát huy tiềm năng sáng tạo, khuyến khích, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước. Thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, qua đó phát huy cao độ quyền làm chủ của Nhân dân, Nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII được Đại hội XIII đánh giá như sau: Trong nhiệm kỳ này đã đạt được kết quả toàn diện, trong đó nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùisự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị, đổi mới công tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng chạy chức,chạy quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. “Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay, Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới”, Nghị quyết Đại hội XIII nêu rõ.

Qua đây có thể khẳng định trong nhiệm kỳ 2016 -2021, công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị của chúng ta đã có nhiều chuyển biến quan trọng, đạt được nhiều kết quả cơ bản và to lớn. Tổ chức bộ máy đã có những chuyển biến theo hướng đáp ứng với những đòi hỏi đặt ra của thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Một số cơ quan, tổ chức mới được thiết lập, một số cơ quan, tổ chức không còn phù hợp đã được giải thể hoặc sáp nhập vào các cơ quan, tổ chức thích hợp. Nhiều cơ quan, tổ chức cũng có những thay đổi về bộ máy, nhân sự theo hướng ngày càng hợp lý hóa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đã thay đổi. Một số cơ quan nhà nước, nhất là Quốc hội, đã được tăng cường các điều kiện, nguồn lực, ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò và trách nhiệm trong quản lý, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Các quy định, chế độ, hành lang pháp lý cho hoạt động của hệ thống chính trị được bổ sung, phát triển. Tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, giảm cấp trung gian, giảm nhiều đầu mối bên trong, nhất là giảm số lượng tổ chức và lãnh đạo, quản lý cấp phòng khối chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp và trong các cục, vụ ở cơ quan Trung ương; tích cực rà soát, sắp xếp giảm số lượng ban chỉ đạo, ban quản lý dự án v.v..

Những kết quả quan trọng trong công tác tổ chức, sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực.

Tuy nhiên bên cạnh đó còn những hạn chế được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ ra: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra. Tinh giản biên chế chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa chuyển biến rõ rệt; tham nhũng, lãng phí vẫn còn diễn biến phức tạp. Công tác dân vận có mặt còn hạn chế, việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là đối với địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nơi chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới.

Điểm mới của Nghị quyết Trung ương 4 khoá XIII

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII

Để khắc phục những khuyết điểm hạn chế trên theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Cái mới của Nghị quyết Trung ương 4 khoá XIII lần này đã mở rộng phạm vi, không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống chính trị đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực... Đồng thời, bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “tiêu cực” sát hợp tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ hoạ theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: Sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân.

“Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Hội nghị Trung ương 4 khẳng định, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể, thực hiện không nghiêm. Chưa phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò của nhân dân trong việc giám sát, phản biện, góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hình thức khác.

Đổi mới hệ thống chính trị là một điều kiện hàng đầu bảo đảm cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là điều kiện để xây dựng, hoàn thiện và thực thi hệ thống thể chế nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, khai thác và phát huy những tiềm năng, lợi thế, tận dụng các nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Về định hướng nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới, Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII nêu rõ: tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp; đồng thời bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.

Theo đó, phải chú trọng nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ vụ lợi, “lợi ích nhóm”. Rà soát, hoàn thiện, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; công tác cán bộ, công tác kiểm tra; công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí, của công luận. Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh: “Muốn Nghị quyết và Kết luận này đi vào cuộc sống, tạo ra chuyển biến rõ rệt thì cả Hệ thống chính trị phải vào cuộc. Từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước Nhân dân, đất nước, trước Đảng để tự giác, gương mẫu thực hiện”.

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh tinh thần nêu gương: “sự gương mẫu của từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, từng đồng chí đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải tự giác, gương mẫu thực hiện nghị quyết, nói đi đôi với làm, chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm rất cao, sự nỗ lực rất lớn”. Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm, có hiệu quả hơn nữa Quy định về những điều đảng viên không được làm mới bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện; khắc phục bằng được những hạn chế, bất cập, thiếu sót trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.

Theo Tổng Bí thư: Quy định mới về những điều đảng viên không được làm; coi đây là căn cứ, cơ sở quan trọng để xem xét, xử lý các vi phạm của cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ có tác động tích cực, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc; ngăn chặn, đẩy lùi, kiên quyết đấu tranh, xử lý thật nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong toàn Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Theo đó tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Tiếp tục nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; quan tâm đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là tổ chức công đoàn đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới.

Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và Hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Sơ kết, tổng kết những mô hình thí điểm và nhân rộng những mô hình mới có hiệu quả. Đẩy mạnh sắp xếp theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập và xã hội hóa các dịch vụ công ở những nơi có đủ điều kiện. Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng về tổ chức bộ máy biên chế của hệ thống chính trị. Đánh giá, hoàn thiện mô hình tổ chức đảng theo ngành, lĩnh vực và những nơi có đặc điểm riêng.

Đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và nghiên cứu triển khai thực hiện ở cấp tỉnh phù hợp với quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính các cấp, đồng thời sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị ở Trung ương theo lộ trình.

Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế lựa chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Làm tốt công tác tư tưởng; giải quyết kịp thời chế độ, chính sách đối với các trường hợp do ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế.

Nhấn mạnh nội dung này, tại buổi tiếp xúc cử tri ở quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng [TP Hà Nội] trước kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XV, sáng 9/10, một lần nữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị: "cử tri và nhân dân tiếp tục theo dõi, giám sát, góp ý kiến kịp thời xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, cùng chung sức, đồng lòng giữ gìn cơ đồ cha ông để lại".

Như vậy, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là yêu cầu khách quan, quan trọng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Đảng và Hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng.

Bài 1: Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục

Bài 2: “Đột phá” trong công tác xây dựng Đảng

Bài 3: Đặc biệt chú trọng ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái...biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"

Bài 4: Khắc phục bất cập về Quy định những điều đảng viên không được làm

Văn Minh, Hiền Hòa, Thương Huyền, Trung Anh

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề