Tôn giáo có ảnh hưởng như thế nào đến kinh tế xã hội ở Nam á

Mục lục

Định nghĩaSửa đổi

Bản đồ Nam Á của Liên Hợp Quốc.[15] Tuy nhiên, Liên Hợp Quốc không xác nhận định nghĩa nào hoặc ranh giới của khu vực.

Tổng diện tích của Nam Á và phạm vi địa lý của khu vực vẫn chưa rõ ràng vì định hướng chính sách đối ngoại của các quốc gia trong khu vực khá bất đồng.[16] Ngoài phần trung tâm của Nam Á, vốn từng là bộ phận của Đế quốc Anh, thì còn nhiều khác biệt về vấn đề các quốc gia khác thuộc Nam Á.[17][18][19][20]

Các định nghĩa hiện đại về Nam Á bao gồm các quốc gia Afghanistan, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Nepal, Bhutan và Maldives.[21][22][23][24][25][26] Myanmar được một số học giả xếp vào Nam Á, song những người khác lại đưa quốc gia này vào trong phạm vi của Đông Nam Á.[18][27] Một số người không tính đến Afghanistan,[18] những người khác đặt vấn đề về việc nên nhìn nhận Afghanistan là bộ phận của Nam Á hay Trung Đông.[28][29]

Lãnh thổ hiện nay của Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan thuộc về Đế quốc Anh trước năm 1947, và họ tạo thành phần trung tâm của Nam Á, bên cạnh Afghanistan[21][22][23][24][25][26] vốn là một lãnh thổ được Anh bảo hộ cho đến năm 1919, sau khi người Afghanistan thất bại trước người Anh trong Chiến tranh Anh-Afghanistan lần thứ hai. Các quốc gia vùng núi là Nepal và Bhutan, và các đảo quốc Sri Lanka và Maldives cũng thường được xếp vào Nam Á. Myanmar [trước gọi là Miến Điện] cũng thường được đưa vào Nam Á, và theo một số định nghĩa lệch lạc khác nhau thì Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh và Khu tự trị Tây Tạng cũng được xếp vào Nam Á.[16][30][31][32][33][34][35][36][37]

Khái niệm phổ biến về Nam Á phần lớn được kế thừa từ ranh giới hành chính của Ấn Độ thuộc Anh,[38] cùng một số ngoại lệ. Thuộc địa Aden, Somaliland thuộc Anh và Singapore mặc dù có thời gian thuộc quyền quản lý của Ấn Độ thuộc Anh song không được đề xuất thuộc về Nam Á.[39] Về mặt cai quản, Miến Điện thuộc về Ấn Độ thuộc Anh trước năm 1937, song hiện được nhìn nhận là bộ phận của Đông Nam Á và là một thành viên của ASEAN. 562 thân vương quốc được chính quyền Ấn Độ thuộc Anh bảo hộ nhưng không cai quản trực tiếp, họ trở thành bộ phận của Nam Á khi gia nhập Ấn Độ hoặc Pakistan.[40][41][42] Về mặt địa chính trị, Nam Á hình thành toàn bộ lãnh thổ của Đại Ấn Độ,[27][43]

Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực [SAARC] hoạt động từ năm 1985 với bảy thành viên là Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka, đến năm 2007 thì Afghanistan trở thành thành viên thứ tám.[44][45] Trung Quốc và Myanmar cũng đã nộp đơn xin quyền thành viên đầu đủ trong SAARC.[46][47]. The World Factbook dựa trên cơ sở địa chính trị, dân cư và kinh tế đã định nghĩa rằng Nam Á gồm có Afghanistan, Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka.[48] Hiệp định Thương mại Tự do Nam Á kết nạp Afghanistan vào năm 2011, và Ngân hàng Thế giới nhóm toàn bộ các quốc gia này vào Nam Á,[49][50] giống như Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc [UNICEF].[51][52]

Sắp xếp phân vùng của Cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc nhóm toàn bộ các quốc gia SAARC cùng Iran thuộc về Nam Á[53] chỉ áp dụng cho mục đích thống kê.[54] Mạng lưới thông tin dân số [POPIN] xếp Afghanistan, Ấn Độ, Bangladesh, Myanmar, Nepal, Pakistan và Sri Lanka thuộc Nam Á. Maldives theo quan điểm của họ được xếp vào thành viên của mạng lưới phân vùng Thái Bình Dương POPIN.[55] Chỉ số Hirschman–Herfindahl của Ủy ban Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc về châu Á và Thái Bình Dương xếp bảy thành viên ban đầu SAARC vào khu vực Nam Á.[56]

Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh được liên kết với khu vực trong một ấn phẩm của Jane's vì nguyên nhân an ninh.[57] Khu vực cũng có thể bao gồm lãnh thổ tranh chấp Aksai Chin, nó từng là bộ phận của thân vương quốc Jammu và Kashmir, song nay được quản lý dưới quyền khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc.[58]

Việc đưa Myanmar vào khu vực Nam Á không nhận được sự nhất trí, do nhiều người nhận định quốc gia này thuộc về Đông Nam Á và có những người khác cho rằng đây là quốc gia Nam Á.[18][27] Afghanistan có ý nghĩa quan trọng đối với Đế quốc Anh, đặc biệt là sau Chiến tranh Anh-Afghanistan lần thứ hai vào năm 1878–1880. Afghanistan duy trì là một lãnh thổ bảo hộ được Anh bảo hộ cho đến năm 1919, khi một hiệp định với Vladimir Lenin có điều khoản trao độc lập cho Afghanistan. Sau phân chia Ấn Độ, Afghanistan thường được xếp vào Nam Á, song một số người cho rằng quốc gia này thuộc về Tây Nam Á.[16] Trong Chiến tranh của Liên Xô tại Afghanistan [1979–1989], chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ nhìn nhận Pakistan và Afghanistan thuộc Tây Nam Á, trong khi những nguồn khác xếp họ vào Nam Á.[7] Không có nhất trí tổng thể trong giới học giả về các quốc gia thuộc Nam Á.[18]

Trong quá khứ, việc thiếu một định nghĩa nhất quán về Nam Á dẫn đến việc không chỉ thiếu nghiên cứu hàn lâm, mà còn khiến thiếu quan tâm về các nghiên cứu như vậy.[59] Sự mập mờ tồn tại cũng do thiếu một ranh giới rõ ràng về địa lý, địa chính trị, văn hoá-xã hội, kinh tế và lịch sử giữa Nam Á và các bộ phận khác thuộc châu Á, đặc biệt là với Trung Đông và Tây Nam Á.[60] Nhận dạng một bản sắc Nam Á cũng ít quan trọng theo một khảo sát khắp Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Pakistan và Sri Lanka.[61] Tuy nhiên, các định nghĩa hiện nay về Nam Á rất thống nhất trong việc xếp Afghanistan, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Nepal, Bhutan và Maldives là các quốc gia cấu thành.[21][22][23][24][25][26]

Tiểu lục địa Ấn ĐộSửa đổi

Theo từ điển tiếng Anh Oxford, thuật ngữ "tiểu lục địa" nghĩa là "phân vùng của một lục địa vốn có một bản sắc địa lý, chính trị hoặc văn hoá riêng biệt" và cũng là một "đại lục lớn hay nhỏ hơn một chút so với một lục địa".[62][63] Các sử gia Catherine Asher và Cynthia Talbot cho rằng thuật ngữ "tiểu lục địa Ấn Độ" mô tả một đại lục vật chất tự nhiên tại Nam Á, tương đối cô lập khỏi phần còn lại của đại lục Á-Âu.[64] Tiểu lục địa Ấn Độ cũng là một thuật ngữ địa lý để chỉ đại lục trôi giạt về phía đông bắc từ siêu lục địa Gondwana cổ đại, va chạm với mảng Á-Âu gần 55 triệu năm trước, vào cuối Thế Paleocen. Khu vực địa chất này xét theo phạm vi lớn gồm có Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka.[65]

Việc sử dụng thuật ngữ tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu từ thời Đế quốc Anh, và đã là một thuật ngữ đặc biệt thông dụng trong các quốc gia kế thừa nó.[66] Khu vực cũng được định danh là "Ấn Độ" [trong bối cảnh cổ đại và tiền hiện đại], "Đại Ấn Độ", hoặc là Nam Á.[27][43]

Theo nhà nhân loại học John R. Lukacs, "Tiểu lục địa Ấn Độ chiếm phần lớn đại lục của Nam Á",[67] trong khi giáo sư khoa học chính trị Tatu Vanhanen cho rằng "bảy quốc gia Nam Á về mặt địa lý tạo thành một khu vực kết tụ quanh tiểu lục địa Ấn Độ".[68] Theo Chris Brewster, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Nepal và Bhutan tạo thành tiểu lục địa Ấn Độ; còn khi đưa Afghanistan và Maldives vào thì thường được gọi là Nam Á.[69] Biên giới địa chính trị của tiểu lục địa Ấn Độ, theo quan điểm của Dhavendra Kumar, bao gồm "Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Nepal, Bhutan và các đảo nhỏ khác trên Ấn Độ Dương".[70] Maldives là quốc gia gồm một quần đảo nhỏ ở phía tây nam bán đảo Ấn Độ, và được nhìn nhận là thuộc tiểu lục địa Ấn Độ.[71]

Thuật ngữ "tiểu lục địa Ấn Độ" và "Nam Á" đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau.[30][66] Thuật ngữ Nam Á đặc biệt phổ biến khi các học giả hoặc quan chức tìm cách phân biệt khu vực này với Đông Á.[72] Theo các sử gia Sugata Bose và Ayesha Jalal, tiểu lục địa Ấn Độ được gọi là Nam Á "theo cách nói gần đây và trung lập hơn."[73] Quan điểm "trung lập" này là chỉ đến mối quan tâm của Pakistan và Bangladesh, đặc biệt là với các xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan, do "Ấn Độ" trong tên gọi có thể xúc phạm một số tình cảm chính trị.[27]

Không tồn tại định nghĩa được toàn cầu chấp thuận về các quốc gia thuộc Nam Á hoặc tiểu lục địa Ấn Độ.[18][19][20] Afghanistan không được cho là một phần của tiểu lục địa Ấn Độ, song quốc gia này thường được xếp vào Nam Á.[20] Tương tự, Myanmar được một số học giả xếp vào Nam Á song không được cho là thuộc tiểu lục địa Ấn Độ.[27]

Lịch sửSửa đổi

Thời kỳ cổ đạiSửa đổi

Lịch sử của vùng lõi Nam Á bắt đầu cùng với bằng chứng về hoạt động mang tính con người của Homo sapiens từ 75.000 năm trước, hoặc là với các loài thuộc họ Người trước đó như Homo erectus từ khoảng 500.000 năm trước.[74] Văn minh lưu vực sông Ấn được truyền bá và hưng thịnh tại phần tây bắc của Nam Á từ khoảng năm 3300 đến năm 1300 TCN tại khu vực nay thuộc Bắc Ấn Độ, Pakistan và Afghanistan, và là nền văn minh lớn đầu tiên tại Nam Á.[75] Một nền văn hoá đô thị phức tạp và tiến bộ về công nghệ được phát triển trong giai đoạn Mature Harappan từ năm 2600 đến năm 1900 TCN.[76]

Nền văn hoá tiền sử sớm nhất có nguồn gốc trong các di chỉ thời kỳ đồ đá giữa, được chứng minh thông qua các bức hoạ trên đá trong các hang đá Bhimbetka có niên đại trong giai đoạn 30.000 TCN hoặc từ trước đó; cũng như từ thời kỳ đồ đá mới. Theo nhà nhân loại học Possehl, nền văn minh lưu vực sông Ấn tạo ra một sự logic, nếu có chút tuỳ tiện thì có thể xem là điểm khởi đầu các tôn giáo Nam Á, song các liên kết giữa tôn giáo sông Ấn với các truyền thống Nam Á sau này là chủ đề tranh chấp mang tính học thuật.[77]

Giai đoạn Vệ-đà được đặt tên theo tôn giáo Vệ-đà của người Ấn-Arya, kéo dài từ khoảng 1900 đến 500 TCN.[78][79] Người Ấn-Arya là những mục dân[80] di cư đến tây bắc Ấn Độ sau khi nền văn minh lưu vực sông Ấn sụp đổ,[81][82] Các dữ liệu ngôn ngữ học và khảo cổ học thể hiện một thay đổi về văn hoá sau năm 1500 TCN,[81] vì dữ liệu ngôn ngữ và tôn giáo thể hiện rõ các liên kết với ngôn ngữ và tôn giáo của người Ấn-Âu.[83] Đến khoảng năm 1200 TCN, văn hoá và phương thức sinh hoạt nông nghiệp Vệ-đà được hình thành tại phần tây bắc và bắc của đồng bằng sông Hằng tại Nam Á.[80][84][85] Các hình thức nhà nước sơ khai xuất hiện, trong đó liên minh Kuru-Pañcāla có ảnh hưởng nhất.[86][87] Xã hội cấp độ nhà nước đầu tiên được xác nhận tại Nam Á tồn tại vào khoảng 1000 TCN.[80] Trong giai đoạn này, theo lời Samuel, đã xuất hiện các tầng Brahmana và Aranyaka của văn bản Vệ-đà, hợp nhất với Upanishad từ lúc sơ khởi.[88] Các văn bản này bắt đầu hỏi về ý nghĩa của một nghi lễ, tăng thêm mức độ về nghiên cứu triết học và siêu hình,[88] hay là "sự tổng hợp Hindu".[89]

Quá trình đô thị hoá tại Ấn Độ tăng lên trong khoảng từ 800 đến 400 TCN, và có khả năng là do các bệnh dịch đô thị lây lan nên quá trình này có đóng góp khiến trỗi dậy phong trào khổ hạnh và các tư tưởng mới thách thức Bà-la-môn giáo chính thống.[90] Các tư tưởng này dẫn đến các phong trào Sramana, các nhân vật xuất chúng nhất trong đó là người đề xướng Jaina giáo Mahavira [khoảng 549–477 TCN], và người sáng lập Phật giáo là Tất-đạt-đa [khoảng 563-483 TCN].[91]

Quân đội Hy Lạp dưới quyền Alexandros Đại đến trú tại khu vực Hindu Kush của Nam Á trong vài năm và sau đó chuyển đến khu vực thung lũng sông Ấn. Sau đó, Đế quốc Maurya bành trướng ra hầu hết Nam Á vào thế kỷ 3 TCN. Phật giáo được truyền bá ra ngoài tiểu lục địa Ấn Độ, theo hướng tây bắc đến Trung Á. Các tượng Phật tại Bamiyan của Afghanistan và các chỉ dụ của Ashoka gợi ý rằng các hoà thượng truyền bá Phật giáo [Dharma] tại các khu phía đông của Đế quốc Seleucos, và thậm chí có thể xa hơn đến Tây Á.[92][93][94] Phật giáo Theravada [Nam tông] truyền bá từ Ấn Độ về phía nam đến Sri Lanka vào thế kỷ 3 TCN, sau đó truyền sang Đông Nam Á.[95] Đến thế kỷ cuối TCN, Phật giáo đã trở nên nổi bật tại khu vực Himalaya, Gandhara, Hindu Kush và Bactria.[96][97][98]

Từ khoảng 500 TCN đến 300 CN, sự tổng hợp Vệ-đà-Bà-la-môn hay "sự tổng hợp Ấn Độ giáo" vẫn tiếp tục.[89] Các tư tưởng Ấn Độ giáo cổ điển và Sa Môn [đặc biệt là Phật giáo] truyền bá trong tiểu lục địa Ấn Độ, cũng như ra bên ngoài Nam Á.[99][100][101] Đế quốc Gupta cai trị một lãnh thổ lớn trên tiểu lục địa từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, trong giai đoạn này diễn ra việc xây dựng các ngôi đền, tu viện và đại học quy mô lớn như Nalanda.[102][103][104] Trong giai đoạn này, và suốt thế kỷ 10, nhiều tu viện và đền thờ trong hang động như quần thể hang động Ajanta, đền thờ hang động Badami và các hang động Ellora được xây dựng tại Nam Á.[105][106][107]

Thời kỳ trung đạiSửa đổi

Hồi giáo trở thành một thế lực chính trị tại vùng rìa của Nam Á vào thế kỷ 8 khi Tướng quân người Ả Rập Muhammad bin Qasim chinh phục Sindh và Multan tại miền nam Punjab nay thuộc Pakistan.[108] Đến năm 962, các vương quốc Ấn Độ giáo và Phật giáo tại Nam Á phải đương đầu với một làn sóng tấn công từ các đội quân Hồi giáo đến từ Trung Á.[109] Trong số này có Mahmud của Ghazni, ông tấn công và cướp bóc các vương quốc tại miền bắc Ấn Độ nằm từ phía đông sông Ấn đến phía tây sông Yamuna trong 17 lần từ năm 997 đến năm 1030.[110] Mahmud của Ghazni tấn công vào ngân khố song sau đó đều rút đi, chỉ mở rộng quyền cai trị của Hồi giáo đến miền tây Punjab.[111][112]

Các làn sóng tấn công của chiến binh Hồi giáo vào các vương quốc miền bắc và miền tây Ấn Độ vẫn tiếp tục sau thời Mahmud của Ghazni, họ cướp bóc các vương quốc này.[113] Các cuộc tấn công không tạo thành hoặc mở rộng biên giới cố định của các vương quốc Hồi giáo. Ghurid Sultan Mu'izz al-Din Muhammad bắt đầu một cuộc chiến tranh có hệ thống nhằm bành trướng đến miền bắc Ấn Độ vào năm 1173.[114] Ông tìm cách tạo ra một lãnh địa cho mình bằng cách bành trướng thế giới Hồi giáo.[110][115] Mu'izz nỗ lực để vương quốc Hồi giáo Sunni của mình bành trướng về phía đông của sông Ấn, nhờ đó ông đặt nền móng cho một vương quốc Hồi giáo mà sau này trở thành Vương quốc Hồi giáo Delhi.[110] Một số sử gia ghi vào biên biên sử về Vương quốc Hồi giáo Delhi từ năm 1192 do từ khi đó có sự hiện diện và yêu sách địa lý của Mu'izz al-Din tại Nam Á.[116] Vương quốc Hồi giáo Delhi bao phủ nhiều phần khác nhau của Nam Á, thuộc quyền cai trị của nhiều triều đại là Mamluk, Khalji, Tughlaq, Sayyid và Lodi. Muhammad bin Tughlaq lên nắm quyền vào năm 1325, ông phát động một cuộc chiến nhằm bành trướng lãnh thổ, kết quả là Vương quốc Hồi giáo Delhi đạt đến phạm vi lãnh thổ lớn nhất trên tiểu lục địa Ấn Độ trong thời gian trị vì 26 năm của ông.[117] Một sultan theo Hồi giáo Sunni là Muhammad bin Tughlaq tiến hành ngược đãi những người không theo Hồi giáo như tín đồ Ấn Độ giáo, cũng như ngược đãi những người Hồi giáo không theo hệ Sunni như tín đồ Shia và Mahdi.[118][119][120]

Các cuộc khởi nghĩa chống lại Vương quốc Hồi giáo Delhi nổ ra tại nhiều nơi của Nam Á trong thế kỷ 14. Sau khi Muhammad bin Tughlaq qua đời, Vương quốc Hồi giáo Bengal trỗi dậy vào năm 1352 do Vương quốc Hồi giáo Delhi bắt đầu tan rã. Vương quốc Hồi giáo Bengal duy trì được thế lực đến đầu thế kỷ 16. Quốc gia này bị quân đội của Đế quốc Mughal chinh phục. Quốc giáo của Vương quốc Hồi giáo Bengal là Hồi giáo, và khu vực nằm dưới quyền cai quản của quốc gia này, nay là Bangladesh, đã phát triển một dạng Hồi giáo hổ lốn.[121][122] Trong khu vực Deccan, Đế quốc Vijayanagara theo Ấn Độ giáo hình thành vào năm 1336 và duy trì nắm quyền đến thế kỷ 16, sau đó nó cũng bị Đế quốc Mughal chinh phục.[123][124]

Khoảng năm 1526, Thống đốc Punjab là Dawlat Khan Lodī liên hệ với Babur tại Trung Á và mời ông ta tấn công Vương quốc Hồi giáo Delhi. Babur đánh bại và giết chết Sultan của Delhi là Ibrahim Lodi trong trận Panipat vào năm 1526. Cái chết của Ibrahim Lodi đánh dấu chấm hết cho Vương quốc Hồi giáo Delhi, thế chỗ của nó là Đế quốc Mughal.[125]

Thời kỳ hiện đạiSửa đổi

Giai đoạn lịch sử hiện đại của Nam Á bắt đầu từ thế kỷ 16, cùng với quyền cai trị của triều đại Mughal đến từ Trung Á, họ có nguồn gốc Thổ-Mông Cổ và theo thần học Hồi giáo Sunni. Babur cai trị một đế quốc mở rộng về phía tây bắc và đồng bằng Ấn-Hằng của Nam Á. Còn khu vực Deccan và đông bắc của Nam Á phần lớn vẫn nằm dưới quyền các quân chủ theo Ấn Độ giáo như Đế quốc Vijayanagara và Vương quốc Ahom,[126] còn một số khu vực thuộc Telangana và Andhra Pradesh ngày nay nằm dưới quyền cai trị của các vương quốc Hồi giáo địa phương như Golconda.[127]

Đế quốc Mughal tiếp tục các cuộc chiến tranh nhằm bành trướng lãnh thổ sau khi Babur qua đời. Đến khi các vương quốc Rajput cũng như Vijayanagara thất thủ, biên giới đế quốc vươn đến toàn bộ phần phía tây, cũng như các khu vực nói tiếng Marathi và Kannada của bán đảo Deccan. Đế quốc Mughal ghi dấu ấn với một giai đoạn giao lưu nghệ thuật và một sự tổng hợp kiến trúc Trung Á và Nam Á, với các công trình xuất chúng như Taj Mahal.[128] Đế quốc còn ghi dấu ấn bằng một giai đoạn ngược đãi tôn giáo kéo dài.[129] Hai trong số các thủ lĩnh của Sikh giáo là Guru Arjan và Guru Tegh Bahadur bị bắt giữ theo lệnh của các hoàng dế Mughal, bị yêu cầu đổi sang Hồi giáo, và bị hành quyết khi họ từ chối.[130][131][132] Đế quốc áp đặt các khoản thuế tôn giáo với người không theo Hồi giáo, có tên là jizya. Các đền thờ Phật giáo, Ấn Độ giáo và Sikh giáo bị mạo phạm. Tuy nhiên, không phải tất cả các quân chủ Hồi giáo đều ngược đãi người không theo Hồi giáo, như Akbar đã theo đuổi khoan dung tôn giáo và bãi bỏ jizya.[133] Sau khi ông mất, việc ngược đãi người không theo Hồi giáo tại Nam Á được khôi phục.[134] Ngược đãi và bạo lực tôn giáo tại Nam Á đạt đỉnh điểm trong giai đoạn Aurangzeb cai trị, ông ban hành các sắc lệnh vào năm 1669 để yêu cầu thống đốc các tỉnh phá huỷ các trường học và đền thờ của người ngoại đạo.[135][136] Trong thời kỳ Aurangzeb cai trị, hầu như toàn bộ Nam Á đều bị Đế quốc Mughal yêu sách lãnh thổ. Tuy nhiên, yêu sách này gặp phải thách thức mãnh liệt tại nhiều khu vực của Nam Á, đặc biệt là Guru Gobind Singh theo Sikh giáo tại tây bắc,[137] và từ Shivaji trên các khu vực Deccan.[138]

Mậu dịch hàng hải giữa các thương nhân Nam Á và châu Âu bắt đầu sau khi nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Vasco de Gama trở về châu Âu. Sau khi Aurangzeb qua đời và Đế quốc Mughal sụp đổ, Nam Á nằm dưới quyền cai trị của nhiều vương quốc nhỏ theo Hồi giáo hoặc Ấn Độ giáo. Thực dân Anh, Pháp và Bồ Đào Nha đạt được hiệp ước với các quân chủ này, và lập nên các thương cảng của họ. Tại phía tây bắc của Nam Á, một khu vực lớn được hợp nhất thành Đế quốc Sikh dưới quyền Ranjit Singh.[139][cầnsốtrang][140] Sau khi người này qua đời, Đế quốc Anh bành trướng lợi ích của họ đến khu vực Hindu Kush. Về phía đông, khu vực Bengal bị Đế quốc Anh phân chia thành Đông Bengal theo Hồi giáo và Tây Bengal theo Ấn Độ giáo vào đầu thế kỷ 20, song sau đó bị đảo ngược. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trước khi Ấn Độ độc lập, khu vực Bengal lại được phân chia thành Đông Pakistan và Tây Bengal. Đông Pakistan trở thành Bangladesh vào năm 1971.[141][142]

Video liên quan

Chủ Đề