Ví dụ về ngôn ngữ trong giao tiếp

các dấu hiệu phi ngôn ngữ chúng là những đối tượng hoặc thực thể giao tiếp một cái gì đó, nhưng không qua trung gian bằng ngôn ngữ nói hoặc bằng ngôn ngữ viết. Ví dụ, trong một số nền văn hóa màu đen có nghĩa là tang tóc. Khái niệm này tương phản với ký hiệu ngôn ngữ, được định nghĩa là sự kết hợp của một khái niệm và một hình ảnh âm thanh.

Do đó, âm thanh của từ "bài hát" và những gì được gợi lên bởi nó tạo thành một dấu hiệu ngôn ngữ. Bây giờ, khi một người nhận nhận biết và giải thích một dấu hiệu, hiện tượng giao tiếp xảy ra. Các dấu hiệu này được nhóm vào các hệ thống truyền thông tùy thuộc vào khả năng giao tiếp của chúng.

Ví dụ: tất cả các biển báo giao thông hoặc giao thông tạo thành một hệ thống giao tiếp phi ngôn ngữ nhằm điều chỉnh giao thông xe cộ.

Theo ý nghĩa mà họ cảm nhận được, các dấu hiệu phi ngôn ngữ được phân loại là thị giác [tín hiệu giao thông, cử chỉ], thính giác [còi báo động, vỗ tay] và xúc giác [vỗ vai].

Chỉ số

  • 1 Đặc điểm
    • 1.1 Dấu hiệu phi ngôn ngữ nhân tạo
    • 1.2 Dấu hiệu phi ngôn ngữ tự nhiên
  • 2 ví dụ
    • 2.1 Cờ trong một cuộc đua ô tô
    • 2.2 Tín hiệu khói
    • 2.3 Màu sắc
  • 3 tài liệu tham khảo

Tính năng

Ký hiệu học, khoa học chịu trách nhiệm nghiên cứu các dấu hiệu, giải thích rằng tất cả những điều này [cả dấu hiệu phi ngôn ngữ và ngôn ngữ] bao gồm ba yếu tố: phương tiện ký hiệu hoặc tín hiệu, người được chỉ định và người phiên dịch.

Do đó, trong bối cảnh của một trận chiến, cờ trắng là phương tiện tín hiệu hoặc tín hiệu, những gì giao tiếp [ngừng bắn, ngừng bắn, đầu hàng] là những gì được chỉ định và thông dịch viên là phía đối lập.

Một số tác giả đề cập đến một yếu tố thứ tư: hành vi được giả định sau khi dấu hiệu được diễn giải. Trong ví dụ được đề cập ở trên, đó sẽ là sự chấm dứt vĩnh viễn hoặc tạm thời của chiến sự.

Mặt khác, một đặc điểm khác của các dấu hiệu phi ngôn ngữ là chúng chứa các yếu tố phổ quát và các yếu tố cụ thể hoặc cụ thể của mỗi nền văn hóa.

Như một ví dụ về một yếu tố phổ quát nổi bật biểu tượng "", đại diện cho vô cực. Một ví dụ khác là chấm đỏ [bindi] trên trán của phụ nữ Hindu, cho phép người khác biết rằng họ đã kết hôn.

Dấu hiệu phi ngôn ngữ nhân tạo

Dấu hiệu phi ngôn ngữ nhân tạo là một lĩnh vực rộng bao gồm biển báo đường, mã điện, ký hiệu hóa học, biểu tượng nghệ thuật [như tranh, tượng, âm nhạc và khiêu vũ] và nhiều thứ khác.

Ngay cả một số tư thế hoặc dấu hiệu của hành vi [ngôn ngữ cơ thể như nét mặt và cử chỉ tay] đặc biệt của các nền văn hóa nhất định cũng thuộc loại này.

Mặt khác, phạm trù dấu hiệu nhân tạo chứa tất cả các khía cạnh khác nhau của hoạt động nhận thức và thực tiễn của nhân loại. Những dấu hiệu và ý nghĩa của chúng được tạo ra trong tương tác xã hội.

Ví dụ, biển báo đường bộ là một trong những phương tiện để đảm bảo giao thông xe cộ dọc theo các tuyến đường bộ và để duy trì trật tự trong giao thông vận tải trong thành phố. 

Như vậy, đây là những sản phẩm của sự phát triển giao thông và công nghệ của thành phố đã đạt đến một giai đoạn lịch sử xác định và sự hiểu biết về ý nghĩa của những điều này như là dấu hiệu.

Vì vậy, đèn đỏ là một dấu hiệu có nghĩa là dừng lại và đèn xanh là một dấu hiệu có nghĩa là phải tuân theo. Điều này giả định một nền tảng của kiến ​​thức thế giới, giáo dục và học tập xã hội.

Dấu hiệu phi ngôn ngữ tự nhiên

Ngoài các dấu hiệu phi ngôn ngữ nhân tạo, còn có các dấu hiệu tự nhiên. Việc giải thích đây là những sản phẩm của kiến ​​thức con người về hoạt động của tự nhiên.

Theo cách này, hào quang xung quanh mặt trăng có nghĩa là sẽ có gió hoặc lá ướt của cây có nghĩa là gần đây trời đã mưa..

Ví dụ

Cờ trong một cuộc đua ô tô

Dấu hiệu cờ là một phần quan trọng của việc chạy một chiếc xe đua. Đây là cách duy nhất mà các quan chức nghề nghiệp có thể giao tiếp trực tiếp với các tài xế.

Trong số các dấu hiệu khác, cờ ca rô cho thấy cuộc đua đã kết thúc. Điều này được hiển thị đầu tiên cho người chiến thắng và sau đó cho mỗi chiếc xe khi băng qua đường.

Mặt khác, cờ đỏ báo hiệu cho các tài xế rằng cuộc đua đã dừng lại, thường là do một chiếc xe đang ở vị trí nguy hiểm sau một tai nạn hoặc điều kiện nguy hiểm..

Ngoài ra, hệ thống liên lạc này có cờ vàng [cấm vượt], màu xanh lam [một chiếc xe nhanh hơn cố gắng vượt qua], màu xanh lá cây [đã xóa nguy hiểm], màu đen [không đủ tiêu chuẩn], trong số những người khác.

Tín hiệu khói

Một số bộ lạc Ấn Độ đã phát triển một cách an toàn và nhanh chóng để liên lạc từ xa: tín hiệu khói. Một số dấu hiệu là tiêu chuẩn: một phồng cho "sự chú ý", hai cho "tất cả tốt" và ba cho "nguy hiểm hoặc vấn đề".

Tuy nhiên, ý định là truyền tải kiến ​​thức bí mật từ xa, do đó hầu hết các tín hiệu được cho là riêng tư và cho một mục đích cụ thể. Những điều này nên được hiểu bởi người nhận, chứ không phải bởi kẻ thù.

Màu sắc

Trong số các dấu hiệu phi ngôn ngữ, màu sắc là một số biểu tượng nhất. Tuy nhiên, ý nghĩa của mỗi màu thay đổi từ văn hóa này sang văn hóa khác.

Ví dụ, trong văn hóa Ấn Độ, màu đỏ là màu mạnh nhất trong tất cả và có nhiều ý nghĩa quan trọng. Trong số này là sợ hãi và lửa, sự giàu có và quyền lực, sự thuần khiết, khả năng sinh sản, sự quyến rũ, tình yêu và sắc đẹp.

Ngay cả một người phụ nữ đã kết hôn cũng có thể được xác định bằng henna đỏ trên tay và bột màu đỏ, được gọi là sindoor, được sử dụng trên toàn bộ mái tóc của cô ấy.

Ngược lại, ở Nam Phi, màu này cũng có liên quan đến tang tóc và phần màu đỏ trên lá cờ của đất nước tượng trưng cho bạo lực và sự hy sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Theo truyền thống Thái Lan, một màu sắc cụ thể tương ứng với mỗi ngày trong tuần và được liên kết với một vị thần cụ thể. Màu đỏ là màu của chủ nhật, và được liên kết với Surya, một vị thần mặt trời được sinh ra vào ngày này.

Về phần mình, trong văn hóa Trung Quốc, màu đỏ được sử dụng theo truyền thống vào năm mới và trong các đám tang và đám cưới. Nó đại diện cho lễ kỷ niệm và được định sẵn để mang lại may mắn, thịnh vượng, hạnh phúc và một cuộc sống lâu dài.

Tài liệu tham khảo

  1. Hernando Cuadrado, L. A. [1995]. Giới thiệu về lý thuyết và cấu trúc của ngôn ngữ.
    Madrid: Verbum.
  2. Rodríguez Guzmán, J. P. [2005]. Ngữ pháp đồ họa cho chế độ juampedrino. Barcelona: Phiên bản Carena.
  3. José, E. T. [2006]. Kiến thức, suy nghĩ và ngôn ngữ: giới thiệu về logic và tư duy khoa học. Buenos Aires: Biên tập Byblos.
  4. Cestero Mancera, A. M. [1998]. Các nghiên cứu về giao tiếp phi ngôn ngữ. Madrid: Biên tập.
  5. Guorong, Y. [2016]. Sự tu luyện lẫn nhau của bản thân và vạn vật: Một triết lý đương đại của Trung Quốc về ý nghĩa của bản thể. Bloomington: Nhà xuất bản Đại học Indiana.
  6. BBC [s / f]. Hướng dẫn cờ. Lấy từ news.bbc.co.uk.
  7. Bảo tàng ảo. [s / f]. Tín hiệu khói. Lấy từ telcomhistory.org.
  8. Huffington Post. [2016, ngày 26 tháng 1]. Màu sắc có ý nghĩa gì trong các nền văn hóa khác. Lấy từ huffingtonpost.com.

Giao tiếp bằng ngôn ngữ,Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết,Ví dụ về giao tiếp bằng ngôn ngữ,Soạn văn 10 Khái quát văn học dân gian Việt Nam,Giao tiếp bằng ngôn ngữ viết,Soạn văn 10 văn bản,Tổng quan văn học Việt Nam,Phong cách ngôn ngữ sinh hoạtđặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết [siêu ngắn],Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết tiếp theo,Bài tập về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết,Bài giảng đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết,Giáo án Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết,Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết,Khái niệm ngôn ngữ nói,Luyện tập trang 88 văn 10 tập  A. KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Xét ví dụ sau:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
- Cụ bán rồi?
- Bán rồi? Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc. Tôi hỏi cho có chuyện:
- Thế nó cho bắt à?
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...
[Trích Lão Hạc của Nam Cao]
   + Hoạt động giao tiếp của văn bản trên diễn ra giữa hai nhân vật đó là ông giáo và Lão Hạc. Hai người có quan hệ gần gũi, thân thiết với nhau
   + Trong hoạt động giao tiếp trên, lão Hạc là người nói, ông giáo là người nghe. Xét về địa vị xã hội, ông giáo là vai trên, lão Hạc là vai dưới, xét về tuổi tác, lão Hạc vai trên, ông giáo vai dưới. Trong hoạt động giao tiếp, ông giáo và lão Hạc đã lần lượt đổi vai cho nhau. Đầu tiên, lão Hạc thông báo về việc bán chó, sau đó ông giáo hỏi lại, rồi lão Hạc lại tiếp tục kể chi tiết sự việc. Khi kể chuyện bán chó, lão Hạc đã khóc và tỏ ra đau đớn, dằn vặt, ông giáo lắng nghe và tỏ ra ái ngại cho lão Hạc
   + Hoàn cảnh diễn ra hoạt động giao tiếp [hoàn cảnh giao tiếp]: Lão Hạc lâm vào cảnh cùng túng, nghèo khổ, phải bán đi cậu Vàng – người bạn duy nhất của lão và là kỉ vật con trai lão để lại. Sau khi bán cậu Vàng, lão Hạc đau khổ, day dứt và đến chia sẻ cho ông giáo.
   + Hoạt động giao tiếp trên hướng vào nội dung lão Hạc kể với ông giáo sự việc bán chó của mình. Mục đích để ông giáo cùng chia sẻ nỗi buồn, sự đau xót, dằn vặt của lão Hạc khi phải bán đi người bạn tri kỉ, đồng thời cũng là cách để lão Hạc bày tỏ nỗi lòng của mình
2. Kết luận
a. Khái niệm:
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động trao đổi thông tin của con người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ nhằm mục đích về nhận thức, về tình cảm, về hành động,...
b. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ gồm có 2 quá trình
- Tạo lập văn bản [do người nói, người viết thực hiện]
- Lĩnh hội văn bản [do người nghe, người đọc thực hiện]
 Hai quá trình này diễn ra trong quan hệ tương tác với nhau
c. Các nhân tố giao tiếp:
Nhân vật giao tiếp: Ai nói, ai viết, với với ai, viết cho ai?
Hoàn cảnh giao tiếp: Nói, viết trong hoàn cảnh nào, ở đâu, khi nào?
Nội dung giao tiếp: Nói, viết cái gì, về cái gì?
Mục đích giao tiếp: Nói, viết để làm gì, nhằm mục đích gì?
Phương tiện và cách thức giao tiếp: Nói viết như thế nào, bằng phương tiện gì? B. LUYỆN TẬP CỦNG CỐ
1. Phân tích các nhân tố giao tiếp trong câu ca dao dưới đây theo câu hỏi
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
a. Nhân vật giao tiếp ở đây là những người như thế nào?
b. Hoạt động giao tiếp diễn ra vào thời điểm nào? Thời điểm đó thường thích hợp với những cuộc trò chuyện như thế nào?
c. Nhân vật “anh” nói về điều gì? Nhằm mục đích gì?
d. Cách nói của “anh” có phù hợp với nội dung và mục đích giao tiếp không?
Trả lời:
a. Nhân vật giao tiếp trong bài ca dao trên là một chàng trai và một cô gái. Cả hai đểu còn trẻ tuổi.
b. Thời điểm diễn ra hoạt động giao tiếp: “Đêm trăng thanh”. Đây là thời điểm thích hợp để chuyện trò, tâm tình của các đôi nam nữ.
c. Nhân vật “anh” nói về các nội dung:
- Dùng hình ảnh “Tre non đủ lá”, “đan sàng” để dẫn dắt để ngỏ lời với cô gái. [Tre non đủ lá: ý muốn hỏi cô gái đã trưởng thành, chín chắn chưa. “Đan sàng” có thể kết duyên cùng chàng trai được không?” đó là nội dung mà chàng trai thể hiện trong cuộc giao tiếp, với mục đích ngỏ ý tế nhị.
- Mục đích: ngỏ ý, tỏ tình với cô gái [lời nói mang nghĩa hàm ẩn: con người đã trưởng thành, đã đủ lớn khôn, có nên suy nghĩ đến chuyện kết duyên hay chưa?].
d. Cách nói của chàng trai rất tế nhị, nhẹ nhàng, lịch sự, chàng trai đã đưa được các thông tin cần thiết, phù hợp với đối tượng là cô gái mà anh có tình ý. Vì thế, cách nói của nhân vật “anh” rất phù hợp với nội dung và mục đích giao tiếp.
2. Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
Một canh…hai canh…lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
[Không ngủ được – Hồ Chí Minh]
Xác định nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp trong văn bản trên?
Trả lời:
- Nhân vật giao tiếp: Bác Hồ đang nói với chính lòng mình vì thế Bác vừa là người nói đồng thời cũng là người nghe.
- Hoàn cảnh giao tiếp: Khi đất nước còn đang dưới ách đô hộ,vận mệnh dân tộc còn đang bị đe dọa thì Bác lại bị giam cầm trong tù ngục, vì thế Bác lo lắng, trăn trở cho đất nước mà không ngủ được
- Nội dung giao tiếp: Nói về việc Bác không ngủ
- Mục đích giao tiếp: Thể hiện sự băn khoăn, trằn trọc, lo lắng cho vận mệnh đất nước của Bác
- Phương tiện, cách thức giao tiếp: Thông qua việc sáng tác thơ
3. Đọc đoạn hội thoại giữa Tấm và dì ghẻ trong truyện Tấm Cám:
Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời trèo lên cây cau. Lúc lên đến sát buồng thì ở dưới dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc cây thế ?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, Tấm ngã lộn cổ xuống ao, chết.
[Tấm Cám]
Phân tích sự thay phiên vai giao tiếp, mục đích nói và cách nói của từng ngưòi trong đoạn hội thoại trên.
Trả lời:
- Trong hoạt động giao tiếp trên, Tấm và dì ghẻ đóng vai trò vừa là người nói vừa là người nghe. Hai người có sự luân phiên lượt lời trong hành động nói của mình:
   + Trước hết là lời của dì ghẻ lừa Tấm trèo lên cây cau, lúc này dì ghẻ trong vai người nói, Tấm là người nghe
   + Sau đó Tấm hỏi lại dì ghẻ vì thấy gốc cau bị rung lúc này Tấm là người nói, dì ghẻ là người nghe.
   + Cuối cùng là lời dì ghẻ nói với Tấm để che đậy hành động tội ác của mình. Dì ghẻ là người nói, Tấm là người nghe.
- Mục đích giao tiếp: Lời nói của mụ dì ghẻ thể hiện mục đích thâm độc với những thủ đoạn để lừa gạt, hãm hại Tấm. Tấm thật thà, hiền hậu tin theo lời dì ghẻ.
 

 Tags: Giao tiếp bằng ngôn ngữ, Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, Tổng quan văn học Việt Nam, Ví dụ về giao tiếp bằng ngôn ngữ, Soạn văn 10 Khái quát văn học dân gian Việt Nam, Soạn văn 10 văn bản, Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết tiếp theo, Bài tập về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Bài giảng đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Giáo án Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Khái niệm ngôn ngữ nói, Luyện tập trang 88 văn 10 tập 2

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Video liên quan

Chủ Đề