Ví dụ về nhân tố chủ quan

Khách thể là gì? Khái niệm khách thể của tội phạm? Phân tích khách thể của tội phạm? Ví dụ về khách thể của tội phạm? Các yếu tố cấu thành khác của tội phạm?

Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Trong pháp luật Hình sự, khách thể của tội phạm là yếu tố quan trong qua đó xác định những quan hệ xã hội nào bị tội phạm xâm hại, từ đó xác định mức độ vi phạm và trách nhiệm hình sự tương ứng.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Mục lục bài viết

  • 1 1. Khách thể là gì?
  • 2 2. Khách thể của tội phạm là gì?
  • 3 3. Phân tích khách thể của tội phạm:
  • 4 4. Ví dụ về khách thể của tội phạm:
  • 5 5. Các yếu tố cấu thành khác của tội phạm:

Hiện nay chưa có một văn bản nào có giải thích rõ ràng về Khách thể là gì? Song dựa trên những đặc điểm, những trường hợp cụ thể trong từng vụ án của khách thể, có thể đưa ra khái niệm như sau:

Khách thể là những lợi ích vật chất hoặc lợi ích về tinh thần, hoặc lợi ích cả về vật chất và tinh thần mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó.

Khách thể tiếng Anh là “Object “.

2. Khách thể của tội phạm là gì?

Khách thể là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại.

Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một vài quan hệ xã hội nhất định được Luật hình sự bảo vệ.

Việc xác định khách thể của tội phạm mang ý nghĩa rất quan trọng trong pháp luật về hình sự bởi đó:

Xem thêm: Phân tích các dấu hiệu của tội phạm và cấu thành tội phạm

– Là căn cứ để định tội và là căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác.

– Là căn cứ quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho cộng đồng, xã hội của tội phạm.

– Thông qua khách thể của tội phạm có thể thấy được bản chất giai cấp của Bộ luật hình sự Việt Nam.

3. Phân tích khách thể của tội phạm:

Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại. Những quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được xác định trong Bộ luật hình sự như độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,… chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, các quyền nhân thân, quyền sở hữu.

Khách thể chung của tội phạm:

Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể:

1. Tội phạm là hành vi nguy him cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” 

Bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại đến khách thể chung là một trong những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự. Chính vì vậy, thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một quốc gia.

Khách thể loại của tội phạm:

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Ý nghĩa của việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự thành từng chương.

Khách thể trực tiếp của tội phạm:

Xem thêm: Cấu thành tội phạm là gì? Yếu tố cấu thành, ý nghĩa của cấu thành tội phạm?

Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể trực tiếp xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với khách thể trực tiếp, tội phạm đã gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại của tội phạm.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Đó là khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào [lỗi]….

4. Ví dụ về khách thể của tội phạm:

Ví dụ 1: 

Hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa xâm hại đến quan hệ sở hữu. Bản chất nguy hiểm của hành vi cướp tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ qua cả việc xâm hại quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Chính vì thế, cả hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm.

Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp  xác định đúng tội danh và đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm  tội cụ thể.

Hành vi trộm cắp dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu XHCN vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định là tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia chứ không phải tội trộm cắp tài sản.

Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Đó là: khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào [lỗi]….

Chẳng hạn, hành vi giật túi xách của người đi đường làm cho chủ sở hữu ngã dẫn đến thương tích. Ở đây có hai khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu và sức khỏe. Tuy nhiên, quyền sở hữu đúng là khách thể trực tiếp của hành vi “cướp giật tài sản”, sức khỏe không là khách thể trực tiếp của hành vi này.

Một tội phạm có thể có một khách thể trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội  mà việc xem xét sự gây thiệt hại đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường hợp phạm tội.

Ví dụ 3: 

A trộm cắp tài sản của B. A đã xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản của B và gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại là quyền sở hữu của công dân.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

5. Các yếu tố cấu thành khác của tội phạm:

Ngoài yếu tố khách thể, cấu thành tội phạm còn gồm có: chủ thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Cụ thể:

Chủ thể

Chủ thể tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm hai đối tượng: cá nhân và pháp nhân thương mại.

– Chủ thể của tội phạm là cá nhân thực hiện hành vi phạm tội, có đủ khả năng nhận thức và chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, đạt độ tuổi theo luật định. Hành vi đó được quy định theo pháp luật hình sự.

Pháp luật hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

Ngoài những tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều luật nêu trên thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

– Ngoài ra, chủ thể của tội phạm cũng có thể là pháp nhân thương mại. Việc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Cá nhân trong pháp nhân thương mại có hành vi trái pháp luật vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, dù cho pháp nhân do cá nhân đó làm chủ đã chịu trách nhiệm hình sự.

Mặt chủ quan

Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hoặc vô ý. Lỗi là trạng thái tâm lý của tội phạm được đánh giá dưới các góc nhìn về động cơ và mục đích của hành vi.

– Lỗi vô ý là khi người thực hiện có thể nhận thức được hành vi của mình có thể hoặc không thể gây nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả của hành vi sẽ không xảy ra hoặc khi hậu quả xảy ra có thể phòng ngừa được. Lỗi vô ý được phân loại thành lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý do quá tự tin.

– Lỗi cố ý là khi người thực hiện nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó nhưng mong muốn hậu quả đó sẽ xảy ra. Lỗi cố ý được phân loại thành lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.

Mặt khách quan

Dấu hiệu khách quan của tội phạm được thể hiện qua tính chất nguy hiểm của hành vi; hậu quả hành vi gây ra; công cụ, phương tiện, thủ đoạn,…. thực hiện hành vi.

Chủ Đề