Vì sao cái riêng lại phong phú đa dạng hơn cái chung

Cái riêng và cái chung

Quảng cáo

a] Phạm trù cái riêng, cái chung

Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.

Trong mỗi sự vật, hiện tượng ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là những đặc tính, những tính chất,... chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.

b] Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung

Theo quan điểm duy vật biện chứng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan. Trong đó, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng, tức là không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể.

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cải chung và cái đơn nhất; còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.

Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.

Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung đã được V.I.Lênin khái quát ngắn gọn: "Như vậy, các mặt đối lập [cái riêng đối lập với cái chung] là đồng nhất: cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng [nào cùng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cùng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung, V.V., V.V.. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác [sự vật, hiện tượng, quá trình], v.v.".

c] Ý nghĩa phương pháp luận

Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Không nhận thức được cái chung thì trong thực tiễn khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất định vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tuợng ngoài những cái riêng.

Mặt khác, cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải quyết mối trường hợp cụ thể.

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải biết vận dụng các điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Nguyên nhân và kết quả
  • Tất nhiên và ngẫu nhiên
  • Nội dung và hình thức
  • Bản chất và hiện tượng
  • Khả năng và hiện thực
  • Thế nào là cái riêng, cái chung, cái đơn nhất? Giữa chúng có mối quan hệ như thế nào? Nghiên cứu mối quan hệ đó có ý nghĩa gì đối với nhận thức và thực tiễn? Nêu một số ví dụ minh hoạ.
  • Biện chứng là gì? Phép biện chứng là gì? Có những hình thức lịch sử nào của phép biện chứng? Có sự đối lập căn bản nào giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức?
  • Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử nào? Tại sao?
  • Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Quảng cáo

Báo lỗi - Góp ý

Mối quan hệ

Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.

Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lenin đã viết rằng:[5]

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung

Cụ thể là[6]:

  • Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
  • Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
  • Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
  • Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.

Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không hề đơn giản, Lenin đã cho rằng:

Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và cái chung.
— Lenin

Cái riêng và cái chung: Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận

Mối quan hệ giữa “cái riêng” “cái chung” là một trong những vấn đề quan trọng nhất và nan giải nhất của triết học nói riêng và nhận thức nói chung.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù này sẽ giúp ta có cái nhìn khách quan để áp dụng vào quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.

Cái riêng và cái chung. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận – Mẫu số 1

Mối quan hệ giữa“cái riêng”và“cái chung”là một trong những vấn đề quan trọng nhất và nan giải nhất của triết học nói riêng và nhận thức nói chung.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặpphạm trùnày sẽ giúp ta có cái nhìn khách quan để áp dụng vào quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.

I. Khái niệm

– “Cái riêng”là phạm trù được dùng để chỉmột sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻnhất định.

Ví dụ:

+ 01 quả bưởi đang ở trong tủ lạnh là cái riêng A; 01 quả bưởi ở trên bàn là cái riêng B. Cái riêng A khác với cái riêng B.

+ 01 trận bóng đã giữa đội tuyểnViệt Namvà đội tuyển Thái Lan diễn ra vào ngày 05/9/2019 là một cái riêng.

– “Cái chung”là phạm trù được dùng để chỉnhững mặt, những thuộc tính chungkhông những có một kết cấu vật chất nhất định, mà cònđược lặp lạitrong nhiều sự vật, hiện tượnghayquá trình riêng lẻ khác.

Ví dụ: Giữa 02 quả bưởi A và B nêu trên có thuộc tính chung là đều có cùi dày, nhiều múi, mỗi múi có rất nhiều tép. Cái chung này được lặp lại ở bất kỳ quả bưởi nào khác. [Quả quýt khá giống quả bưởi nhưng lại có cùi mỏng và có khối lượng nhẹ hơn quả bưởi].

– Ta cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”.

“Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉnhững nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất địnhvàkhông được lặp lạiở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác.

Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với cái cá biệt.

Ví dụ: Đỉnh núi Everest cao nhất thế giới với độ cao 8.850 mét. Độ cao 8.850 mét của Everest làcái đơn nhấtvì không có một đỉnh núi nào khác có độ cao này.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung” và “cái đơn nhất”

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,“cái riêng”,“cái chung”và “cái đơn nhất” có mối quan hệ qua lại như sau:

1. “Cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng”.

“Cái chung”không tồn tại biệt lập, tách rời“cái riêng”mà chỉ tồn tại trong“cái riêng”.

Ví dụ: Cùi dày, nhiều múi, rất nhiều tép làcái chunggiữa các quả bưởi. Rõ ràng, cùi, múi, tép ở đây [cái chung] chỉ và phải tồn tại trong một quả bưởi nhất định [cái riêng].

2. “Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.

– Điều này có nghĩa“cái riêng”tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có nghĩa làcô lậpvới những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa,“cái riêng”của loại này có liên hệ với những“cái riêng”của loại khác.

– Bất cứ“cái riêng”nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quan mình.

Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số“cái chung”nào đó.

– Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.

Mỗi“cái riêng”sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi biến thành một“cái riêng”khác.“Cái riêng”khác này lại biến thành“cái riêng”khác thứ ba…v.v., cứ như vậy đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hóa vô cùng tận này là tất cả“cái riêng”đều có liên hệ với nhau.

Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ, hoàn toàn không dính dáng gì đến nhau, nhưng qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, ta vẫn thấy chúng liên quan nhau.

3. “Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”.

– Do“cái chung”được rút ra từ“cái riêng”, nên rõ ràng nó là một bộ phận của“cái riêng”.

– Mặt khác, bên cạnh những thuộc tính [cái chung] được lặp lại ở các sự vật khác, bất cứ“cái riêng”nào cũng còn chứa đựng những đặc điểm, thuộc tính mà chỉ“cái riêng”đó mới có. Tức là, bất cứ“cái riêng”nào cũng chứa đựng những “cái đơn nhất”.

4. “Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại.

– Sự chuyển hóa “cái đơn nhất” biến thành“cái chung”và“cái chung”biến thành “cái đơn nhất” sẽ xảy ra trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong nhữngđiều kiện nhất định.

– Sở dĩ như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới hoàn toàn thay thế cái cũ và trở thành“cái chung”.

Ngược lại, “cái cũ” ngày càng mất dần đi. Từ chỗ là“cái chung”, cái cũ biến dần thành “cái đơn nhất”.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

Từ việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa“cái riêng” và “cái chung”, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn như sau:

1. Phải xuất phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”.

Vì“cái chung”chỉ tồn tại trong và thông qua“cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về“cái chung”trong“cái riêng”chứ không thể ngoài“cái riêng”.

Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu“cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.

2. Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái riêng”.

– Vì“cái chung”tồn tại như một bộ phận của“cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những bộ phận còn lại của“cái riêng”mà không gia nhập vào“cái chung”, nên bất cứ“cái chung”nào cũng tồn tại trong“cái riêng”dưới dạng đã bị cải biến.

Tức là, luôn có sự khác biệtmột chútgiữa“cái chung”nằm trong“cái riêng”này và“cái chung”nằm trong“cái riêng”kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của“cái chung”.

– Do đó, bất cứ“cái chung”nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi“cái chung”, tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh.

Ngược lại, nếu xem thường“cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của những người xét lại, bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh.

3. Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng.

Vì“cái riêng”gắn bó chặt chẽ với“cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới“cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua việc giải quyết những vấn đề chung.

Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.

4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và ngược lại.

Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến thành“cái chung”và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành“cái chung”nếu điều này có lợi.

Ngược lại, phải tìm cách làm cho“cái chung”tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu“cái chung”không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.

Video liên quan

Chủ Đề