Vì sao ngô quyền thắng trong trận bạch đằng

Công ty cổ phần BINGGROUP © 2014 - 2022
Liên hệ: Hà Đức Thọ - Hotline: 0986 557 525 - Email: hoặc

vì sao Ngô Quyền quyết định tiêu diệt quân Nam Hán ở sông bạch đằng

f

"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" [nghĩa là sông Đằng từ xưa máu còn đỏ] là câu đối đáp của sứ thần nước ta Giang Văn Minh [1573-1638] đời vua Lê Thần Tông, khi ông đi sứ nhà Minh. Sứ thần Giang Văn Minh đã nhắc đến 2 lần quân thiên triều thua trận nhục nhã trên sông Bạch Đằng vào năm 938 [Ngô Quyền] và năm 1288 [Trần Hưng Đạo]. Đó là những trận quyết chiến chiến lược, không những chấm dứt mưu đồ xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc, mà còn mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử đất nước. Trong đó, chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã khẳng định sự tồn tại vững chắc của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài và phát triển rực rỡ của đất nước trong gần 5 thế kỷ, từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV, qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê.

 

Minh họa: Minh Khuê

Ngô Quyền là người làng Đường Lâm, Phú Lộc, Châu Giao. [nay là làng Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội], ông là hào trưởng đất Đường Lâm thuộc dòng dõi quý tộc. Cha là Ngô Mân, Châu mục Châu Giao. Theo sử sách, khi sinh ra có khuôn mặt khôi ngô, tuấn tú, từ nhỏ đã tỏ ra là người có chí lớn nên được đặt tên húy là Quyền, hàm ý nghĩa là người có quyền bính, làm chủ một phương. Ông được chủ tướng là Dương Diên Nghệ gả con gái yêu là Dương Thị Như Ngọc, sau đó ông cùng bố vợ đánh bại quân Nam Hán lần thứ nhất [930-931], rồi được ủy quyền trông coi vùng đất Châu Ái [Thanh Hóa ngày nay].

Lịch sử còn ghi, năm 930, quân Nam Hán xâm chiếm nước ta đánh vào tận Châu Hoan, vượt dãy Hoành Sơn vào đánh phá Chăm Pa, đặt quyền cai trị và cắt đặt Thứ sử Giao Châu. Sau khi bị đánh đuổi về nước năm 931, triều đình Nam Hán vẫn không từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta. Lần này, chúng mượn cớ viện binh cho tên phản bội Kiều Công Tiễn, vua Nam Hán phong cho con là Vạn Vương Hoàng Tháo làm Giao Vương, mang thủy binh sang đánh nước ta.

Được tin quân Nam Hán do Hoàng Tháo chỉ huy đang trên đường tiến sang đất Việt, Ngô Quyền đã sớm nghĩ  kế, bằng việc giữ vững sự ổn định bên trong để diệt giặc bên ngoài. Ông nhanh chóng đem quân hạ thành Đại La, giết tên bán nước Kiều Công Tiễn, lo trừ mối họa bên trong, ổn định tình hình đất nước; đồng thời tập trung gấp rút vào việc tổ chức chuẩn bị kháng chiến. Ông triệu tập các mưu sĩ để bàn kế sách đánh giặc, đây là trận quyết chiến chiến lược để tiêu diệt toàn bộ quân xâm lược. Với mưu lược tài giỏi và tính toán chu đáo, ông bày sẵn thế trận chờ giặc.

Ông nói: "Nếu sai người đem cọc vạt nhọn đầu, bịt sắt rồi đóng ngầm dưới sông, bọn chúng theo nước triều lên vướng vào hàng cọc sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào chạy thoát". Trước hết, ông nắm chắc đường tiến quân của địch từ biển vào, huy động lực lượng quân và dân lập trận địa cọc ở những nơi hiểm yếu tại cửa sông Bạch Đằng làm trận địa ngầm. Tiếp đó, ông cho bố trí quân mai phục ở bên trong sẵn sàng chờ giặc đến để chiến đấu.

Khi quân địch ngấp nghé ngoài cửa sông, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu khích, dụ địch vào sâu thế trận bày sẵn lúc thủy triều đang lên, bọn giặc nghênh ngang lao tới. Khi thủy triều xuống, ông chỉ huy quân phản công quyết liệt, các cánh quân mai phục từ ven bờ xông ra, buộc quân địch phải rút chạy ra cửa biển, thuyền của chúng bị đâm vào cọc ngầm, quân giặc chết như ngả rạ, quân số bị thương vong quá nửa, Hoàng Tháo bị tử trận. Vua Nam Hán đem quân đi tiếp viện được nửa đường nghe tin con trai chết trận, quân thua tan tác, liền vội thu nhặt tàn binh rút vội về nước. Ý chí xâm lược nước ta một lần nữa đã bị đè bẹp.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc ta, kết thúc 1.000 năm bị phương Bắc đô hộ, đem lại nền độc lập và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Chiến công của Ngô Quyền được coi là "Võ công cao cả vang dội đến ngàn thu" [Ngô Thời Sỹ - Việt sử thông giám cương mục tiền biên]. Chiến thắng này còn thể hiện nghệ thuật quân sự tài tình của Ngô Quyền, đó là một trận thủy chiến bằng thế trận kết hợp trận địa cọc, lợi dụng nước thủy triều lên xuống; thể hiện việc đánh giá đúng địch, phán đoán tài tình, bày binh bố trận, dùng mưu nghi binh và  tài trực tiếp chỉ huy trận đánh của ông. Ngô Quyền đã dùng "quân mới hợp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Tháo, mở nước, xưng Vương, làm cho người phương Bắc không dám sang lại nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi và đánh cũng giỏi vậy!" - Sử gia Lê Văn Hưu viết.

Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền chăm lo xây dựng đất nước. Mùa xuân năm 939, ông quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phương Bắc, tự xưng Vương, lấy Cổ Loa, kinh đô cũ của Âu Lạc-An Dương Vương làm kinh đô của nước ta. Đây là một việc làm có ý nghĩa nêu cao truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc; biểu thị ý chí quyết giữ vững nền độc lập vừa mới giành được, sau hơn 10 thế kỷ đấu tranh bền bỉ chống xâm lược và sự đô hộ của phong kiến phương Bắc. Ngô Quyền mất năm 45 tuổi, trị vì đất nước được 5 năm.

Nguồn: bienphong.com.vn

Là một không gian không quá rộng lớn nhưng vùng cửa sông Bạch Đằng chảy qua địa phận Hải Phòng lại là một địa danh đặc biệt, bởi nó gắn liền với3 trận thủy chiến, 3 bậc kỳ nhân ở 3 giai đoạn lịch sử khác nhau.

Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938

Trận đầu vang danh chiến thắng Bạch Đằng là khi Ngô Quyền đập tan quân Nam Hán năm 938, đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Sách Đại Việt Sử ký toàn thư cho biết kế sách đánh giặc của Ngô Quyền:“Nếu sai người đem cọc nhọn, đầu bịt sắt cắm ngầm trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào thoát”. Chính Ngô Quyền đã khẳng định điều đó với tướng lĩnh của mình “không kế gì hơn kế ấy cả”.

Đức vương Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng Giêng năm Mậu Ngọ[tức ngày 6 tháng 2 năm 898],tại làng Mông Phụ, Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nộingày nay. Sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực, cha là Ngô Mân làm chức châu mụcĐường Lâm,ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là người có trí dũng song toàn, được dạy bắn cung nỏ, sử dụng giáo gươm, bí mật binh pháp. Ngô Quyền lớn lên trong lúc đất nước mới dành được quyền tự chủ, ông nối chí cha tập hợp lực lượng và trở thành một hào trưởng hùng mạnh trong vùng. Ông được Dương Đình Nghệ, [vốn là một bộ tướng của Khúc Thừa Mỹ, sau tự xưng là Tiết độ sứ] tin yêu, mời về làm Nha Tướng và gả con gái cho. Sau lại được Dương Đình Nghệ giao cho trấn giữ Châu Ái - vùng đất phên dậu của quê hương họ Dương.Năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để cướp ngôi Tiết độ sứ, gây nên sự căm phẫn trong các vị hào trưởng và nhân dân. Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng để tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Quá hoảng sợ, Kiều Công Tiễn đã vội vã cầu cứu Nam Hán, vua Nam Hán là Lưu Cung nhân cơ hội đó đã phong con trai là Lưu Hoàng Tháo thống lĩnh thủy quân vượt biển sang xâm lược nước ta.

Đất nước lâm nguy, Ngô Quyền một mặt tiêu diệt Kiều Công Tiễn trừ mối hoạ, mặt khác huy động nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Tại vùng cửa sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động hàng ngàn binh sĩ và nhân dân địa phương xây dựng trận địa cọc để đón đánh quân xâm lược. Hơn ba nghìn cây gỗ được vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống lòng sông trên một quãng dài 3 dặm, khi thuỷ triều lên, bãi cọc không bị lộ. Ngô Quyền dự định nhử quân địch vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc cạn mới giao chiến. Vào một ngày cuối đông năm 938, đoàn binh thuyền do Hoàng Tháo chỉ huy rầm rộ vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Đúng lúc nước triều đang dâng cao, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch đuổi theo vượt qua bãi cọc lọt vào trận địa mai phục của ta. Khi đoàn thuyền của Hoàng Tháo vượt qua vùng cửa biển, nước triều rút mạnh, quân ta quay lại phản công quyết liệt. Trận địa cọc nhô lên chặn đứng đoàn thuyền giặc, nhiều chiếc bị cọc gỗ đâm thủng, va vào nhau rồi chìm xuống dòng sông. Chủ tướng Hoàng Tháo bỏ mạng cùng quá nửa quân sĩ. Vua Nam Hán cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Lưu Cung kinh hoàng, đành thu nhặt số quân còn lại mà rút lui. Từ đó, nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược nước ta. Sau chiến thắng lẫy lừng, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa [tức Đông Anh, Hà Nội ngày nay].

Đại thắng Bạch Đằng năm 938 được ghi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta như một chiến công chói lọi, chấm dứt nền thống trị hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài cho dân tộc Việt Nam. Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 đã trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua”, xứng đáng là "vị tổ trung hưng" của dân tộc.

Lê Đại Hành và chiến thắng Bạch Đằng năm 981

Trận kỳ chiến gắn với bậc kỳ nhân thứ hai tại Bạch Đằng giang diễn ra trong giai đoạn chiến tranh Tống - Việt năm 981, và nhà cầm quân tài ba được vinh danh chiến thắng là vua Lê Đại Hành. Sau cuộc chiến lớn này, Đại Tống chấp nhận xuống nước và chính thức thừa nhận Lê Đại Hành cai trị Đại Cồ Việt.

Hoàng đế Lê Đại Hành [tên húy là Lê Hoàn] sinh năm 941 tại làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lại mang tướng mạo khác thường nên viên quan án sát họ Lê đã nhận ông về nuôi dưỡng. Lớn lên, ông theo giúp Đinh Liễn - con trai trưởng của Đinh Tiên Hoàng. Vốn là người trí dũng, Lê Hoàn được Đinh Tiên Hoàng giao cho cai quản hàng ngàn quân sĩ. Năm 971, ông được thăng lên chức võ quan cao nhất làThập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ của triều Đinh.

Cuối năm 979,Đinh Tiên Hoàngvà thế tử Đinh Liễn bị ám sát, con thứ Đinh Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, triều đình nhà Đinh suy yếu. Nhân cơ hội này, nhà Tống ráo riết tập trung binh lực chuẩn bị xâm lược nước ta.

Đứng trước vận mệnh nguy nan của đất nước, triều đình đã suy tônLê Hoàn làm vua[tức vua Lê Đại Hành], lập nhà Tiền Lê năm 980.Ông đặt niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn làĐại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, ổn định tình hình nội bộ, rồi chia quân phòng giữ các nơi hiểm yếu.

Nhà Tống lấy cớ Lê Hoàn tự xưng Đế, đổi niên hiệu để đem quân thôn tính nước ta. Mùa xuân năm 981, 4 vạn quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thuỷ bộ đánh chiếm nước ta. Lê Đại Hành thân chinh làm tướng cầm quân, cho xây thành Bình Lỗ, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông dựa vào địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng.

Sau hơn hai tháng tiến đánh, không chiếm được Đại La và kinh đô Hoa Lư, quân địch lúng túng vì chịu nhiều tổn thất nặng nề, Lê Đại Hành quyết phản công. Ngày 28/4/981, trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng diễn ra, Lê Đại Hành đã cho một cánh quân ra khiêu chiến với quân địch, Hầu Nhân Bảo trúng kế đuổi theo và lọt vào trận địa mai phục.

Lúc này, các chiến binh Đại Cồ Việt từ khắp các nẻo đường đổ về sông Bạch Đằng vây đánh quân Tống quyết liệt. Hầu Nhân Bảo bị giết chết. Nghe tin thuỷ quân thua trận, các cánh quân khác vội vã tháo chạy, bị quân Đại Cồ Việt truy kích tiêu diệt quá nửa, quân Tống bị quét sạch khỏi bờ cõi nước ta. Đại thắng Bạch Đằng năm 981 khiến nhà Tống phải kính nể tài năng và bản lĩnh của Lê Đại Hành, xuống nước công nhận ông là vua của Đại Cồ Việt.

Bạch Đằng năm 1288 - Trận thuỷ chiến chấn động thế giới

Dòng Bạch Đằng giang lần thứ ba lần đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc là vào năm 1288,với chiến công của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trước quân Nguyên Mông.

Trần Quốc Tuấn sinh năm 1228, thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần. Suốt cuộc đời, ông hết lòng phụng sự cả 4 đời vua Trần thịnh trị. Ông là bậc tướng cột đá chống trời, hội tụ cả tài lẫn đức và trong cả ba lần đánh quân Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn, được sử sách ngợi ca.

Trong trận chiếnBạch Đằng năm 1288, đích thân ông đã đặt chân đến vùng đất Tràng Kênh và các làng xã lân cận để bày trận đón đánh sự rút chạy của đội quân xâm lược Nguyên Mông, làm nên chiến thắng vĩ đại Bạch Đằng lần thứ 3 năm 1288.

Tháng 3/1288, biết được ý đồ rút quân bằng đường thuỷ qua sông Bạch Đằng của quân địch,Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một trận địa mai phục lớn trên sông. Các loại gỗ lim, táu… đã được đốn ngã trên rừng kéo về bờ sông và được đẽo nhọn cắm xuống lòng các cửa sông dẫn ra biển làm thành những bãi chông lớn.

Các cánh quân thuỷ bộ bí mật mai phục sau dãy núi đá Tràng Kênh dọc bờ sông Bạch Đằng. Sáng ngày 9/4/1288, khi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua bỏ chạy. Trúng kế, thuyền giặc di chuyển vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tiến vào bãi cọc.

Quân ta đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Thủy quân Đại Việt từ các hướng nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính tạo thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông.

Quân Nguyên Mông bị mắc kẹt, tổn thất nặng nề, nhiều chiến thuyền bị cháy rụi và đâm phải cọc nhọn. Một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông để tìm đường trốn chạy nhưng đều rơi vào ổ phục kích của quân nhà Trần, bị chặn đánh kịch liệt. Chỉ trong vòng 1 ngày, hơn 600 chiến thuyền và khoảng 6 vạn quân địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân dân nhà Trần đại thắng.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là đỉnh cao chói lọi của sức mạnh và nghệ thuật quân sự của quân dân Đại Việt thế kỷ thứ 13, thể hiện tài thao lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng kiệt xuất, nhà chiến lược lỗi lạc của dân tộc ta.Ông không chỉ được nhân dân Việt Nam tôn thờ như một bậc thánh nhân mà còn được thế giới công nhận là một trong mười vị tướng giỏi nhất mọi thời đại.

Khu di tích Bạch Đằng Giang,công trình thể hiện sự tri ân của hậu thế đối với các tiền nhân và các vị anh hùng dân tộc. Ảnh: Hồng Phong

*** Ngày nay, trên sông Bạch Đằng lịch sử, ngay tại cửa sông Thải chảy ra sông Bạch Đằng có một vùng đất non nước hữu tình, nơi tọa lạc của Khu di tích Bạch Đằng Giang, một tượng đài lưu niệm, tưởng niệm về ba lần chiến thắng quân xâm lược trên sông Bạch Đằng, đồng thời cũng là công trình thể hiện sự tri ân của hậu thế đối với các tiền nhân và các vị anh hùng dân tộc: Đức vua Ngô Quyền, Hoàng đế Lê Đại Hành, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có công lao to lớn với đất nước, với nhân dân.

Khu di tích Bạch Đằng Giang, vùng đất địa linh, điểm kết nối giữa quá khứ hào hùng của dân tộc với hiện tại thành phố Hải Phòng đang trên đà phát triển vươn ra biển lớn, khích lệ, cổ vũ chúng ta vững bước xây dựng Hải Phòng phát triển ngày càng văn minh, hiện đại.

[Tổng hợp từ tài liệu Khu Di tích Bạch Đằng Giang]

Video liên quan

Chủ Đề