Vì sao ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt

Đề cương dẫn luận ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [228.09 KB, 30 trang ]

Đề cương dẫn luận ngôn ngữ
Câu 1:Hãy giải thích nhận định sau: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người


Giao tiếp là hoạt động truyền đạt, trao đổi thông tin. Phương tiện giao tiếp có rất
nhiều loại như phương tiện giao tiếp của con người và phương tiện giao tiếp của
loài vật,…Riêng con người dùng nhiều loại phương tiện giao tiếp khác nhau như
đèn giao thông, cử chỉ,ngôn ngữ ,…

Nhưng ngôn ngữ lại là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người bởi vì:


Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp phổ biến nhất: ngôn ngữ cần thiết đối với tất cả
mọi người, có thể sử dụng bất kì lúc nào và bất kì ở đâu và chúng không hạn chế
người dùng.



Ngôn ngữ là phương tiện có khả năng thể hiện đầy đủ và chính xác tất cả những
tư tưởng, tình cảm, cảm xúc mà con người muốn thể hiện. Giao tiếp bằng cử chỉ
nội dung rất nghèo nàn, đôi khi có thể gây hiểu lầm và hạn chế về khoảng cách
địa lí.



Những phương tiện khác như hội họa, âm nhạc… có tính biểu đạt rất độc đáo, sâu
sắc và tinh tế những cảm xúc của con người nhưng phương tiện này cũng hạn chế
phạm vi sử dụng vì không phải ai cũng có khả năng vẽ đẹp, hát hay, hay cảm
nhận được ý đồ của người muốn truyền đạt, biểu đạt rõ ràng tất cả những gì mà
con người muốn biểu đạt như ngôn ngữ và cũng bị hạn chế bởi khoảng cách


không gian địa lí.



Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ bao hàm nhiều chức năng bộ phận: chức năng
truyền thông tin đến người khác, chức năng yêu cầu một người khác hành động,
chức năng bộc lộ cảm xúc người nói, chức năng xác lập,v.v..

Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một thế
hệ, cùng sống một thời kì mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, là phương
tiện để con người truyền đi những thông điệp cho các thế hệ tương lai.
Chính vì vậy. ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Câu 2: Hãy chứng minh ngôn ngữ là một hệ thống
Hệ thống là một chỉnh thể, một sự vật sự việc tồn tại biệt lập, bao gồm các yếu tố
khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện một
chức năng nào đó
- Tính gián đoạn, tính cấu trúc, tính chỉnh thể


- Ngôn ngữ gồm nhiều yếu tố [ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp …] và các yếu
tố này có quan hệ mật thiết với nhau [đẳng lập, chính phụ, tôn ti …] và tất cả các
yếu tố này tạo nên một chỉnh thể [ví dụ: từ là một chỉnh thể bao gồm ngữ âm, ngữ
nghĩa và ngữ pháp] => ngôn ngữ là một hệ thống
Câu 3: Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ được thể hiện ở những điểm nào? Phân tích
đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ so với các tín hiệu khác.
1. Bản chất tín hiệu của hệ thống ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác không
phải là tín hiệu, chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một vật thể nước, đá, kết cấu
của một cơ thể sống v.v… Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những điểm

sau:

Các yếu tố của những hệ thống vật chất không phải là tín hiệu có giá trị đối với hệ
thống vì có những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng. Hệ thống tín hiệu cũng là
hệ thống vật chất nhưng các yếu tố của nó có giá trị đối với hệ thống không phải do
những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do những thuộc tính được người ta
trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư tưởng nào đó.
Tính hai mặt của tín hiệu. Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu
hiện và cái được biểu hiện mà thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ là hình thức ngữ
âm, còn cái được biểu hiện là khái niệm hay đối tượng biểu thị.
Tính võ đoán của tín hiệu. Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là
có tính võ đoán, tức là giữa hình thức âm và khái niệm không có mối tương quan
bên trong nào. Vì thế, khái niệm "người đàn ông cùng mẹ sinh ra và sinh ra trước
mình" trong tiếng Việt dược biểu thị bằng âm [anh], nhưng trong tiếng Nga, lại
được biểu thị bằng âm [brat]. Khái niệm ấy được biểu thị bằng [anh] hay [brat]
hoàn toàn là do sự quy ước, hay do thói quen của tập thể quy định chứ không thể
giải thích lí do.
Giá trị khu biệt của tín hiệu. Trong một hệ thống tín hiệu, cái quan trọng là sự khu
biệt. Thuộc tính vật chất của mỗi tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở những đặc trưng có
khả năng phân biệt của nó. So sánh một vết mực trên giấy và một chữ cái chúng ta
sẽ thấy rõ điều đó. Cả vết mực lẫn chữ cái đều có bản chất vật chất như nhau, đều
có thể tác động vào thị giác như nhau. Nhưng muốn nêu đặc trưng của vết mực phải
dùng tất cả các thuộc tính vật chất của nó: độ lớn, hình thức, màu sắc, độc đậm nhạt
v.v…, tất cả đều quan trọng như nhau. Trong khi đó, cái quan trọng đối với một


chữ cái chỉ là cái làm cho nó khác với chữ cái khác: Chữ A có thể lớn hơn hay nhỏ
hơn, đậm nét hơn hay thanh nét hơn, có thể có màu sắc khác nhau, nhưng đó vẫn
chỉ là chữ A mà thôi. Sở dĩ như vậy là vì chữ A nằm trong hệ thống tín hiệu, còn vết
mực không phải là tín hiệu.

Những đặc điểm của ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu vừa trình bày ở trên
có thể tìm thấy ở cả những hệ thống tín hiệu khác như hệ thống tín hiệu đèn giao
thông, trống hoặc kẻng báo hiệu, biển chỉ đường, v.v… Trong hệ thống đèn giao
thông có ba yếu tố: màu đỏ chỉ sự cấm đi, màu vàng – chuẩn bị, màu xanh – có thể
đi. Thực ra, màu đó, màu vàng, màu xanh tự nó không có nghĩa gì cả. Sở dĩ mỗi
màu mang một nội dung như vậy hoàn toàn là do sự quy ước. Nói cách khác, mối
quan hệ giữa cái biểu hiện [màu sắc] và cái được biểu hiện ở đây cũng có tính võ
đoán. Và tất nhiên, chỉ đặc trọng hệ thống đèn giao thông các màu mới có những ý
nghĩa như thế. Người ta có thể dùng các sắc độ khác nhau của màu đỏ để chỉ "sự
cấm đi", các sắc độ khác nhau của màu vàng để chỉ "sự chuẩn bị", các sắc độ khác
nhau của màu xanh để chỉ "có thể đi", miễn sao ba màu đó phải giữ được sự phân
biệt lẫn nhau. Như vậy, ở đây nét khu biệt của các thuộc tính vật lí của các màu
cũng là quan trọng.

2. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt

Cùng là hệ thống tín hiệu, ngôn ngữ khác với các hệ thống tín hiệu khác ở những
đặc điểm sau:

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và không
đồng loại, với số lượng không xác định. Những hệ thống tín hiệu nhân tạo như hệ
thống đèn giao thông, biển chỉ đường, quân hiệu, quân hàm v.v… chỉ bao gồm một
số tương đối hạn chế các yếu tố đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống đèn giao thông chỉ
gồm ba yếu tố là đèn đỏ, đèn xanh và đèn vàng và tính chất của chúng là hoàn toàn
như nhau. Ngôn ngữ có nhiều loại đơn vị khác nhau: âm vị khác với hình vị, hình vị
khác với từ, từ khác với câu. Số lượng từ và câu trong một ngôn ngữ là vô số. Không
ai có thể biết tất cả các từ của ngay tiếng mẹ đẻ của mình, bởi vì nó quá nhiều, lại
thường xuyên được phát triển, bổ sung thêm.
Vì ngôn ngữ bao gồm các yếu tố không đồng loại cho nên nó tạo ra nhiều hệ thống
và hệ thống con khác nhau. Mỗi hệ thống con như vậy bao gồm những yếu tố tương

đối đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống âm vị bao gồm tất cả các âm vị, hệ thống từ


vựng bao gồm tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ, hệ thống hình vị bao gồm
tất cả các hình vị v.v… Hệ thống âm vị lại có thể chia ra hệ thống nguyên âm và hệ
thống phụ âm, hệ thống hình vị có thể chia ra hệ thống hình vị thực và hệ thống
hình vị hư, hệ thống từ vựng có thể chia ra hệ thống từ đơn và hệ thống từ ghép
v.v…
Các đơn vị ngôn ngữ làm thành những cấp độ khác nhau. Khi nghiên cứu, người ta
thường chia các yếu tố của ngôn ngữ vào các cấp độ khác nhau. Cấp độ là một trong
những giai đoạn nghiên cứu của ngôn ngữ được quy định bởi những thuộc tính của
những đơn vị được phân xuất trọng khi phân tách chuỗi lời nói một cách liên tục từ
những đơn vị bậc cao đến những đơn vị bậc thấp. Các đơn vị thuộc cấp độ khác
nhau có quan hệ tôn ti, tức là các đơn vị bậc thấp "nằm trong" các đơn vị bậc cao
và các đơn vị bậc cao "bao gồm" các đơn vị bậc thấp. Thí dụ: câu bao gồm các từ,
từ bao gồm các hình vị, hình vị bao gồm các âm vị. Ngược lại, âm vị nằm trong hình
vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong câu. Vì vậy, âm vị, hình vị, từ và câu là
những cấp độ khác nhau.
Khái niệm cấp độ gắn liền với tổng thể các yếu tố đồng loại, nhưng không phải bất
cứ tập hợp các yếu tố đồng loại nào cũng tạo thành một cấp độ. Chẳng hạn, hình vị
thực và hình vị hư, từ đơn và từ ghép không tạo thành những cấp độ khác nhau, bởi
vì ở đấy không tìm thấy quan hệ "nằm trong" và "bao gồm". Có khi sự khác nhau
bên ngoài của những đơn vị thuộc các cấp độ khác nhau giảm tới zero, nhưng chúng
vẫn khác nhau về chất, bởi vì chức năng của chúng không đồng nhất. Ví dụ: Một
đứa trẻ thấy mẹ về reo lên: - U! Có thể coi đây là một câu, nhưng câu này chỉ gồm
một từ, từ này lại chỉ gồm một hình vị, và cuối cùng, hình vị U cũng là một âm vị.
Trong ngôn ngữ học, có khi người ta gọi ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp hoặc ngữ âm
và ngữ nghĩa là các cấp độ. Thực ra, đây chỉ là những mặt, những lĩnh vực nghiên
cứu của ngôn ngữ mà thôi.
Tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ. Trong các hệ thống tín hiệu khác, mối quan hệ

giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện có tính chất đơn trị, nghĩa là mỗi cái biểu
hiện chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện. Ở ngôn ngữ không hoàn toàn như
vậy. Trong ngôn ngữ, có khi một cái biểu hiện tương ứng với nhiều cái được biểu
hiện khác nhau, chẳng hạn, các từ đa nghĩa và đồng âm, có khi nhiều cái biểu hiện
khác nhau chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện, chẳng hạn, các từ đồng nghĩa.
Mặt khác, vì ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và phương tiện tư duy mà
còn là phương tiện biểu hiện tình cảm, cho nên mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài nội
dung khái niệm còn có thể biểu hiện cả các sắc thái tình cảm của con người nữa.
Tính độc lập tương đối của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo khác thường
được sáng tạo ra theo sự thoả thuận của một số người, do đó hoàn toàn có thể thay
đổi theo ý muốn của con người. Ngược lại, ngôn ngữ có tính chất xã hội, có quy luật


phát triển nội tại của mình, không lệ thuộc vào ý muốn của cá nhân. Tuy nhiên,
bằng những chính sách ngôn ngữ cụ thể, con người vẫn có thể tạo điều kiện cho
ngôn ngữ phát triển theo những hướng nhất định. Chính vì vậy, người ta nói ngôn
ngữ có tính độc lập tương đối.
Giá trị đồng đại và giá trị lịch đại của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo chỉ
có giá trị đồng đại, tức là được sáng tạo ra để phục vụ nhu cầu nào đó của con người
trong một giai đoạn nhất định. Ngôn ngữ vừa có giá trị đồng đại vừa có giá trị lịch
đại. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng là sản phẩm của quá khứ để lại. Ngôn ngữ không chỉ
là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người cũng thời mà còn là phương tiện
giao tiếp và tư duy của những người thuộc các thời đại khác nhau, các giai đoạn lịch
sử khác nhau.
Câu 4: Hãy giải thích nhận định sau: Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt


Bản chất xa hội của ngôn ngữ:




Ngôn ngữ là của loài người, của một cộng đồng người.



Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp.



Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã
hội.



Ý thức của con người trong việc sáng tạo, học tập, sử dụng và phát triển ngôn ngữ
để phục vụ cho cuộc sống của mình.



Ngôn ngữ là một bộ phận cấu thành của văn hóa. Mỗi hệ thống ngôn ngữ đều
mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng người bản ngữ.



Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt



Trong các hiện tượng xã hội, chủ nghĩa Mác phân biệt cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng




CSHT là toàn bộ quan hệ sản xuất của một xã hội ở một giai đoạn phát triển nào
đó.



KTTT là toàn bộ những quan điểm về chính trị, luật pháp, tôn giáo, nghệ thuật và
thiết chế tương ứng với chúng.



Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó không được xếp vào một trong
hai phạm trù xã hội CSHT & KTTT



Ngôn ngữ không thuộc CSHT vì:


+ Ngôn ngữ không phải là các quan hệ sản xuất của xã hội
+ Ngôn ngữ không phải là công cụ sản xuất, không tạo ra của cải vật chất cho xã hội


Ngôn ngữ không thuộc KTTT vì:

+ Mỗi KTTT là một sản phẩm của CSHT, ngôn ngữ không do một CSHT nào sinh ra
mà là phương tiện giao tiếp của tập thể xã hội được hình thành và bảo vệ qua các thời
đại. Khi CSHT cũ bị thủ tiêu thì KTTT của nó cũng sụp đổ theo và thay thế vào đó là

một KTTT mới ứng với CSHT mới. Ngôn ngữ biến đổi lien tục, nhưng nó không tạo
ra ngôn ngữ mới mà chỉ hoàn thiện cái đã có mà thôi.
+ KTTT phục vụ cho một giai cấp nào đó, còn ngôn ngữ thì không có tính giai cấp
+ KTTT không trực tiếp liên hệ với sản xuất mà chỉ gián tiếp thông qua CSHT. Cho
nên KTTT không phản ánh tức thì và trực tiếp những trình độ phát triển của các lực
lượng sản xuất. Ngôn ngữ liên hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất và mọi hoạt động
khác của con người trên tất cả mọi lĩnh vực từ CSHT đến KTTT. Cho nên, ngôn ngữ
phản ánh tức thì và trực tiếp những thay đổi trong sản xuất, trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.


Đặc thù riêng biệt của ngôn ngữ là ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là
phương tiện giao tiếp giữa mọi người, làm phương tiện trao đổi ý kiến trong xã
hội, là phương tiện giúp cho con người hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức
các công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động.

Câu 5: Chỉ ra sự khác biệt giữ ngôn ngữ nói & ngôn ngữ viết
Người nói
Được sinh sản nhanh chóng tức thời, không
có sự gọt giũa,suy ngẫm hay lựa chọn
Biểu hiện qua ngữ điệu, nét mặt, ánh mắt, cử
chỉ, điệu bộ,,.. để bộc lộ, bổ sung thông tin
Sử dụng đa dạng lớp từ mang trính khẩu ngữ,
từ ngữ địa phương, tiếng lóng, các biệt ngữ,
trợ từ, từ ngữ đưa đẩy, những câu tỉnh lược
hay rườm rà lặp đi lặp lại để nhấn mạnh và
làm người nghe hiểu thấu đáo hơn nội dung
giao tiếp

Người viết

Được sản sinh ra một cách có chọn lọc, được
suy nghĩ nghiền ngẫm, gọt giũa kĩ càng
Cần có sự hỗ trợ của hệ thống dấu câu, của
các kí hiệu và văn tự, của các hình ảnh minh
họa, bảng biểu,… để biểu hiện rõ thêm nội
dung giao tiếp
Tránh dùng các từ mang tính chất khẩu ngữ,
các từ địa phương, tiếng lóng. Trong câu
thường dùng các câu dài, chặt chẽ, tổ chức
mạch lạc nhờ các quan hệ từ và sự sản xuất
các thành phần phù hợp

Câu 6: Phân tích các đặc trưng cơ bản của âm thanh ngôn ngữ. Phân biệt ngữ
âm học [theo nghĩa hẹp] và âm vị học


Câu 7: Mô tả bộ máy phát âm của con người. Chỉ rõ cấu tạo và chức năng của
từng bộ phận.
a. Bộ máy phát âm gồm: khoang hầu, khoang miêng, khoang mũi, môi , răng ,
lợi, ngạc cứng,mạc hay ngạc mềm,lưỡi con, đầu lưỡi, mặt lưỡi, gốc lưỡi, nắp
họng, thực quản, thanh, hầu khí quản
Chức năng: Các cơ quan tạo năng lượng cho hoạt động phát âm là phổi, khí
quản. 2. Các cơ quan tạo lập, khuếch đại và phát ra âm thanh là các bộ phận
trong thanh hầu, trong khoang hầu, khoang miệng và khoang mũi. Thanh hầu
và các khoang nói trên là các cộng minh trường [hộp cộng hưởng] chứa nhiều bộ
phận mà sự vận động của chúng có tác dụng tạo nên các âm thanh với các âm
sắc khác nhau.

Thanh hầu giống như một cái hộp nằm phía trên của khí quản do bốn miếng sụn
hợp lại, có tác dụng khuếch đại âm thanh được phát ra do sự dao động của dây

thanh.

Dây thanh là hai cơ thịt mỏng dài chừng 2 cm sóng nhau theo chiều dọc trong
thanh hầu. Dưới sự chỉ huy của hệ thần kinh, dây thanh có thể mở ra, khép vào,
căng lên, chùng xuống và dao động. Dây thanh của nam giới thường dày hơn
của nữ giới và dầy dần lên theo lứa tuổi, đặc biệt nhanh ở lứa tuổi dậy thì
[nguyên nhân của hiện tượng vỡ tiếng].
Câu 8: Giải thích tại sao âm thanh là chất liệu tất yếu của ngôn ngữ


Âm thanh và âm thanh trong ngôn ngữ



Xét về mặt âm học, âm thanh của ngôn ngữ cũng giống như tất cả các âm thanh
khác trong tự nhiên, vốn là những sự chấn động của các phần tử không khí bắt
nguồn từ sự chấn động của một vật thể đàn hồi nào đấy hoặc từ sự chấn động của
luồng không khí chứa đựng trong một cái khoang rỗng. Nhưng khác với các âm
thanh khác, âm thanh ngôn ngữ chỉ có thể là những sự chấn động mà bộ máy
thính giác của con người có thể cảm thụ được.



Ngôn ngữ ngay từ đầu đã là ngôn ngữ thành tiếng, ngôn ngữ âm thanh. Các nhà
khoa học gọi mặt âm thanh của ngôn ngữ là ngữ âm.




Âm thanh là chất liệu tất yếu của ngôn ngữ




Vai trò của âm thanh trong ngôn ngữ



Mặt âm thanh làm nên tính chất hiện thực của ngôn ngữ, nhờ có nó ngôn ngữ mới
được xác lập, tồn tại và phát triển, mới có thể được lưu giữ và truyền đạt từ thế hệ
này sang thế hệ khác.



Nhờ có cái vỏ vật chất là âm thanh nên trẻ em mới hấp thụ được ngôn ngữ. Cái
gọi là quá trình học nói ở trẻ em là sự nhấn mạnh một cách chính đáng tính chất
âm thanh của ngôn ngữ.



Mặt âm thanh là một thuộc tính không thể tách rời của tất cả các sinh ngữ hiện
đang tồn tại. Lí luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sự phát sinh của ngôn ngữ
phụ thuộc vào sự phát triển của bộ máy phát âm của người nguyên thủy. Chính sự
chuyển động của các khí quan phát âm khi cấu tạo các âm thanh là điều kiện thiết
yếu để cho ngôn ngữ được xác lập, tồn tại và phát triển. Do đó, không thể có một
ngôn ngữ nào đó mà không dùng âm thanh, không lấy âm thanh làm hình thức thể
hiện.



Về mặt lí thuết, tất cả các giác quan của con người đều có thể dùng để phát tin.

Nhưng thính giác có những ưu thế riêng, có thể khắc phục các hạn chế của các
giác quan khác. Vì thế, bộ máy phát âm của con người được lựa chọn để tạo ra âm
thanh ngôn ngữ, giao tiếp bằng âm thanh dễ dàng hơn.



Âm thanh do bộ máy phát âm của con người tạo ra nên hết sức tiện lợi, không gây
cản trở gì hết, luôn luôn đi theo người sử dụng, khi cần là sử dụng được ngay.



Nếu coi ngôn ngữ bao gồm hai mặt: mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện thì cũng
có thể các ngữ âm là mặt biểu hiện còn từ vựng và ngữ pháp là mặt được biểu
hiện của ngôn ngữ. Bởi vậy, nghiên cứu ngữ âm là công việc đầu tiên và tất yếu
đối với việc nghiên cứu bất cứ ngôn ngữ nào.

Câu 9: Trình bày khái niệm âm tố, âm vị. Phân biệt âm vị và âm tố, nguyên âm
và phụ âm. Chỉ ra các tiêu chí miêu tả nguyên âm và phụ âm
a.Khái niệm âm tố, âm vị:
-Âm tố là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, chiếm một đoạn trong lời nói.Để ghi âm tố người ta
theo quy ước chung, đặt ký hiệu ngữ âm trong dấu ngoặc vuông: [a], [t],...
-Âm vị là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạo và
phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa.
VD: Trong tiếng Việt: ‘cơm’ khu biệt với ‘cam’ bởi nguyên âm khác nhau.
b.Phân biệt âm tố và âm vị:


Âm tố
- Là hình thức thể hiên vật chất của âm vị,
là đơn vị cụ thể, thuộc lời nói.

- Gồm cả những đặc trưng khu biệt và
không khu biệt.
- Nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của
ngữ âm.
- Chung cho mọi ngôn ngữ.
- Được ghi giữa ngoặc vuông [k].
- Được cảm nhận bằng thính giác.
- Phải chú ý hoặc trước những cách phát âm
đặc biệt mới nhận ra được.
- Số lượng vô hạn.

Âm vị
- Nằm trong âm tố và được thể hiện qua âm tố, là
đơn vị trừu tượng, thuộc ngôn ngữ.
- Chỉ gồm những đặc trưng khu biệt.
- Nói đến âm vị là nói đến mặt xã hội.
- Chỉ bó hẹp trong một ngôn ngữ nhất định
- Được ghi giữa 2 gạch xiên /k/.
- Được cảm nhận bằng tri giác.
- Được nhận biết một cách dễ dàng.
- Số lượng hữu hạn.

c.Phân biệt phụ âm và nguyên âm:





Nguyên âm
Luồng hơi tự do

Luồng hơi yếu
Đặc trưng âm học là tiếng thanh
Bộ máy cấu âm căng toàn thể khi phát
ra nguyên âm

Phụ âm
· Luồng hơi bị cản
· Luồng hơi mạnh
· Đặc trưng âm học là tiếng động
· Bộ máy cấu âm căng tại một điểm được gọi là
tiêu điểm [điểm cấu âm]

d.Các tiêu chí miêu tả nguyên âm:
- Theo vị trí của lưỡi. Có thể chia nguyên âm thành ba dòng: trước – giữa – sau.
- Theo độ mở của miệng. Các nguyên âm được phân thành các nguyên âm có độ
mở rộng – hẹp.
- Theo hình dáng của đôi môi. Các nguyên âm được chia thành nguyên âm tròn
môi – không tròn môi.
Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn về trường độ, tính mũi hoá.
Chúng ta có thể nhận diện các nguyên âm qua hình thang nguyên âm.

e.Các tiêu chí miêu tả phụ âm:


Về phương thức cấu âm. Có thể chia các phụ âm thành: âm tắc – âm xát – âm rung –
âm vang – âm ồn.
- Về vị trí cấu âm. Có thể chia các phụ âm thành: âm môi – âm đầu lưỡi – âm mặt
lưỡi – âm cuối/gốc lưỡi – âm thanh hầu.

Câu 10: So sánh các đặc điểm loại hình của âm tiết tiếng Việt và tiếng Anh



Cấu trúc âm tiết Tiếng Việt:

– Âm tiết là một tổ hợp các âm tố được cấu tạo bởi một hạt nhân [nguyên âm] và các âm
khác bao quanh [phụ âm]
Âm đầu

Thanh điệu
Phần vần
Âm đệm
Âm chính

Âm cuối

+ Thanh điệu: gồm 1 trong 6 thanh là không-không dấu, huyền [`], sắc [´], hỏi [ˀ], ngã
[~], nặng [.]
+ Âm đầu: do các âm vị phụ âm đảm nhiệm. một số âm tiết như “anh, im ắng” thì có phụ
âm đầu là âm tắc thanh hầu /ʔ/ biểu thị.
+ Âm đệm: do âm vị bán nguyên âm môi /u/ hoặc âm đệm zero đảm nhiệm
+ Âm chính: do các nguyên âm đảm nhiệm.
+ Âm cuối: do các phụ âm, bán nguyên âm hoặc âm vị zêrô đảm nhiệm
VD: “toàn”
Thanh điệu: huyền [`]
Âm đầu

Phần vần
Âm đệm /ṷ/

Âm chính /a/


Âm cuối /n/

Trong 5 thành phần trên có 3 thành phần luôn luôn có mặt trong âm tiết với nội dụng tích
cực là: thanh điệu, âm đầu và âm chính, chỉ có 2 thành phần của vần có thể do âm vị zero
đảm nhiệm là âm đệm và âm cuối.




Cấu trúc âm tiết tiếng Anh

Trước phụ
âm đầu
[preintial]

Phụ âm
đầu
[intial]

Sau phụ
âm đầu
[post
initail]

Nguyên
âm
[vowel]

Trước phụ

âm cuối
[prefinal]

Phụ âm
cuối
[final]

Sau
phụ
âm
cuối
1

Sau
phụ
âm
cuối
2

– Cấu trúc âm tiết tiếng Anh gồm 3 phần: Phần đầu, phần trung tâm và phần cuối. Phần
đầu có thể gọi chung là tiền âm tiết, phần cuối là hậu âm tiết.
Cấu trúc âm vị học tối đa của âm tiết tiếng Anh:
Phần đầu [onset]

Trung tâm

Phần cuối [termination]

Phần đầu [onset]


Trung tâm

Phần cuối [termination]

/t/

/i:/

/n/

Ví dụ: teen /ti:n/



So sánh



Giống nhau:



– Có nguyên âm làm trung tâm





Ví dụ: tam, đôi [Tiếng Việt]
shore, sing [Tiếng Anh]

– Phần đầu âm tiết Việt – Anh đều là phụ âm





Ví dụ: tam giác [Tiếng Việt]
love, miracle [Tiếng Anh]
– Phần cuối âm tiết Việt – Anh đều là phụ âm



Ví dụ: tình bạn [Tiếng Việt]

Sau
phụ
âm
cuối
3





dream, nice /nais/ [Tiếng Anh]
– Phần cuối âm tiết Việt – Anh đều là nguyên âm






Ví dụ: ta, nha sĩ [Tiếng Việt]
sea, bee [Tiếng Anh]
– Có thể mở đầu bằng nguyên âm





VD: ong óc, anh ách [tiếng Việt]
Our, ear [tiếng Anh]
Khác nhau:

Tiếng Anh

Tiếng Việt

Cấu trúc âm tiết có 3 phần [p đầu, trung
tâm, p cuối]

Cấu trúc âm tiết có 5 phần [âm đầu, thanh điệu, âm
đệm, âm chính, âm cuối]

Có loại âm tiết cấu tạo chỉ bằng phụ âm
gọi là âm tiết phụ âm VD: Table /teibl/

K có hiện tượng đó, nhất thiết p có nguyên âm mới
cấu tạo thành âm tiết

Tiếng Anh có trọng âm


TV có thanh điệu để khu biệt nghĩa
VD: ca, cá, cà, cả, cạ,...

Không có âm đệm

Có âm đệm

Có thể kết thúc tối đa bằng 4 phụ âm VD:
texts /teksts/

Chỉ có thể kết thúc âm tiết bằng 1 phụ âm VD:
nghiêng /nien/

Có thể bắt đầu âm tiết nhiều nhất với 3 phụ Âm tiết TV chỉ có thể bắt đầu nhiều nhất với 1 phụ
âm. VD: scream /scri:m/
âm đầu hoặc âm tiết thanh hầu. VD: nghiêng

Câu 11: So sánh hệ thống nguyên âm tiếng Việt và nguyên âm tiếng Anh
ỐI CHIẾU NGUYÊN ÂM TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH


BƯỚC 1: MIÊU TẢ • Nguyên âm là một âm thanh trong ngôn ngữ nói, được
phát âm với thanh quản mở, âm thoát ra một cách tự do không có chướng ngại,
âm hưởng êm ái dễ nghe mà đặc trưng âm học của nó có tần số xác định có
đường cong biểu diễn tuần hoàn được gọi là tiếng thanh. NGUYÊN ÂM TRONG
TIẾNG VIỆT - Tiếng việt có 16 nguyên âm. Gồm: 13 nguyên âm đơn, bao gồm
10 nguyên âm dài và 3 nguyên âm ngắn. Nguyên âm dài bao gồm: i [Y], e [Ê],
ɛ[E], A, A, ɔ[O], too], ɤ[Ơ], u[U], ɯ[Ư]. VD: /-i- / thúy, /-e-/ tên, /-ɛ-/ bé, kẻng… Nguyên âm ngắn bao gồm ɛ ̌ [A], ɔ ̌ [O], ɤ ̌ [Â]. VD: /-ɛ ̌-/ anh ách, /-ɔ ̌ / ong óc, /-ɤ
̌ -/ tân, thân.. Bên cạnh các nguyên âm đơn, tiếng Việt còn có ba nguyên âm đôi:

ə ɯ và uo Về vị trí của các nguyên âm đôi, trong tiếng Việt chúng thường ở phần
giữa của từ. VD: /ie/ - iê, yê, ia, ya [hiền, miền, tiên] / ɯɤ / - ươ, ưa [hươu, thưa,
thương] /uo/ - uô, ua [uống thuốc, lúa úa] NGUYÊN ÂM TRONG TIẾNG ANH
Tiếng anh có 24 nguyên âm Dựa vào độ dài của nguyên âm, sự nâng cao lưỡi,
phần lưỡi sử dụng và độ tròn của môi. Trong tiếng Anh có tất cả 11 nguyên âm
đơn, bao gồm 5 nguyên âm dài và 6 nguyên âm ngắn. Độ dài của nguyên âm:
Nguyên âm được chia ra làm hai loại là - Nguyên âm dài bao gồm / ɑ: /, / ɔ: /, / ɜ:
/, / u: /, / i: / - Nguyên âm ngắn gồm / i /, / e /, / æ /, / ʌ /, / ɒ /. Sự nâng cao lưỡi:
Nguyên âm trong tiếng Anh có thể chia ra làm ba loại: - Các nguyên âm cao: /
i: /, / i /, / u: /, / ʊ / - Các nguyên âm vừa: / e /, / ə /, / ɜ : /, / ʌ /, / ɔ: / - Các nguyên
âm thấp: / æ /, / ɑ: /, / ɒ / Phần lưỡi sử dụng: Nguyên âm cũng được chia ra làm
ba phần: - Nguyên âm trước: / i: /, / i /, / e /, / æ / - Nguyên âm giữa: / ə /, / ɜ: /, /
ʌ / - Nguyên âm sau: / ɑ: /, / ɔ: /, / ɒ /, / u: /, / ʊ / Độ tròn của môi: - Không tròn: /
i: /, / i /, / e /, / æ / - Trung bình: / ə /, / ɜ: /, / ʌ / - Tròn: / ɑ: /, / ɔ: /, / ɒ /, / u: /, / ʊ /
Bên cạnh đó tiếng Anh cũng có nguyên âm đôi và nguyên âm ba VD: Nguyên âm
ba: ei + ə = eiə : major, player ai + ə = aiə : liar, fire ɔi + ə = ɔiə : loyal, royal əʊ +
ə = əʊə : lower, mower aʊ + ə = aʊə : power, hour
BƯỚC 2: ĐỐI TƯỢNG ĐỐI CHIẾU - Số lượng -Âm sắc: + Độ trầm bổng +
Biến thể + Sự phân bố. BƯỚC 3: ĐỐI CHIẾU XL1: Tiếng Việt XL2: Tiếng Anh
XL1 = XL2 - Tiêu chí phân loại tương đương nhau: Nguyên âm đơn, nguyên âm
đôi. Cả tiếng Anh và tiếng Việt đều có 3 nguyên âm đơn /-i-/, /-e-/ và /-u-/. - Cả
tiếng Anh và tiếng Việt đều có những âm cố định âm sắc và một số khác biến đổi
âm sắc [trong nguyên âm đôi]. VD: Trong tiếng Việt: ie [Việt, siêng, phiên...] , uo
[buôn, muốn], ɯɤ [trường, thường]. Trong tiếng Anh: ai [kind, find, guy], ɔi
[boy,toy]. VD Tiếng Việt Tiếng Anh /-e-/ tên, khế. lênh men, dead, sell /-u-/ xu,
cúng pool, fool, you, too /-i-/ Thúy, Qúy, Huy, y eat, see, tea, three XL1 KHÁC
XL2 • Số lượng: Tiếng Anh có tổng cộng 24 nguyên âm còn tiếng Việt chỉ có 16
nguyên âm. XL1≠ XL2 Trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cả 2 âm / u /, / ʊ /
đều là nguyên âm [xét theo vị trí của lưỡi] và là nguyên âm tròn [theo hình dạng
của lưỡi]. Song nguyên âm / ʊ / trong tiếng anh là nguyên âm ngắn còn /u/ trong

tiếng Việt là nguyên âm dài. VD: Tiếng Việt: /u/: thu, mù, cung ... Tiếng Anh:


/ʊ/: cook, book, full,… / ɔ / trong tiếng Việt là âm trung tròn. / ɒ / trong tiếng
Anh là âm thấp tròn. Khi phát âm / ɒ / miệng tròn hơn âm / ɔ /. VD: / ɔ /: or… /
ɒ /: hop, box, lot, rob, stop, odd, … Khi phát âm âm / a:/ môi của ta tròn hơn,
lưỡi ở vị trí thấp hơn và âm kéo dài hơn so với âm / a / VD: Tiếng Việt: / a /: bát,
cát, gan, tan… Tiếng Anh: / a:/: bar,car, march, carts, start… - Trong tiếng
Anh, âm /i/ ngắn hơn và phần lưỡi phát âm ở trước hơn âm /i/ trong tiếng Việt
VD: Tiếng Anh: bin, win, It, him, chik… Tiếng Việt: mít, bít, lít…. - Cả 2 âm /e/
trong tiếng Việt là âm trước [xét theo vị trị của lưỡi]. Tuy nhiên /e/ trong tiếng
Anh là âm trung còn trong tiếng Việt là âm cao [xét theo độ nâng cao lưỡi]. Khi
phát âm /e/ trong tiếng Anh, lưỡi ở vị trí thấp hơn và đưa ra phía trước nhiều
hơn trong tiếng Việt. VD: Tiếng Anh: bet, hen, men, ten, bell, gel… Tiếng Việt:
sét, hét, nét... XL1 Φ XL2 - Trong tiếng việt có các nguyên âm: o[ÔÔ], ɤ̌ [Â],
ɤ[Ơ], ɯ[Ư], Ê tiếng Anh thì không có. - Trong tiếng Việt có /ie/ - iê, yê, ia, ya
[phiền, miền, tiên], / ɯɤ / - ươ, ưa [hươu, xưa, thương], /uo/ - uô, ua [uống thuốc,
múa, lúa] tiếng Anh thì không có. XL2 Φ XL1 - Tiếng Anh có nguyên âm ba
trong tiếng Việt không có: /eiə/ major, player; /aiə/ liar, fire; /əə/ power, hour Tiếng Anh có nguyên âm đôi: /ai/[find, kind, silent], /ɔi/ [voice, boy] /ʊə/ [tour,
cure, poor], /eə/ [where, bear] /aʊ/[how, grow] tiếng việt thì không.
Câu 12: So sánh hệ thống phụ âm tiếng Việt và nguyên âm tiếng Anh
Phụ âm: Là tiếng động, được cấu tạo do sự cản trở không khí trên lối thoát của
chúng. -Đặc điểm phụ âm Khi phát âm chúng được cấu tạo bằng luồng không
khí bị cản trở. Chúng diễn ra bằng những cách khác nhau và những bộ phận
khác nhau của cơ quan phát âm.
1. Miêu tả TIẾNG VIỆT Theo Đoàn Thiện Thuật, trong Tiếng Việt có tất cả 30
phụ âm được chia thành 22 phụ âm TIẾNG ANH đầu [ t’, b, m, f, v, t, d, n, s, z,
l, Theo kết quả xác lập , c, , ŋ, ɲ, , ɤ, ʈ, χ, , k, h ]; của giáo trình Peter 8 âm cuối,
gồm 6 phụ âm [ m, Roach, có 24 phụ âm: n, p, t, k, ŋ] , và 2 bán nguyên [ p, b, m,
f, v, t, d, k, g, l, âm[ giống nguyên âm về mặt cấu tạo nhưng giống phụ âm s, z, h,

n, j, r, w, ŋ, ϴ,ʧ, về chức năng do đó còn dược ʤ, ʓ, ʂ, δ] gọi là bán phụ âm hay
trong trường hợp này có thể gọi là phụ âm]
SỐ LƯỢNG a TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ b PHƯƠNG THỨC CẤU ÂM c VỊ
TRÍ ĐỨNG
•Giống nhau: Đều sử dụng phương thức cấu âm và vị trí cấu âm với các tiêu chí
giống nhau để phân loại các phụ âm. Ví dụ: Về phương thức cấu âm có: tắt, xát,
mũi. Phụ âm xát như: / f /, / v / [ famous, furniture, và, vân, vội] Phụ âm tắt như:
/ t /, / d /, / b / [ testily, box, tấn, dương, biến ] Vị trí cấu âm : môi, lưỡi Số lượng
phụ âm tương đối giống nhau. Ví dụ: / p /, / b /, / m /, / n /, …


Khác nhau -Về số lượng ượng TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH -Có 30 phụ âm : 22 Có 24 phụ âm phụ âm đầu và 8 phụ âm cuối
Khác nhau -Phương thức cấu âm: Đối với âm tắc TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH
Phân chia: - Vừa tắc vừa có kết hợp tắc -Tắc ồn bật hơi : / ť / - Tắc : / p /, / b /, / t
/, / d /,/ -Tắc ồn, không bật g/ hơi, vô thanh: - Tắc xác : / ʤ /, / ʧ / / t /, / c /, / k /
-Tắc ồn, không bật hơi, hữu thanh : / b /, / d /
Khác nhau -Phương thức cấu âm: Đ/v phụ âm xát TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH
Không có 5 âm là - Không có 3 âm : / x /, / / ʤ /, / ʧ /, / ϴ /, / δ /, /, / ʓ / /ɤ/
Khác nhau -Phương thức cấu âm: Đối với phụ âm mũi TIẾNG VIỆT TIẾNG
ANH - Phụ âm /k/ trong - Phụ âm / k, g / trong TA là Tiếng Việt là tắc gốc tắc
mạt. lưỡi, còn / ɤ / là xác Ví dụ : gardener, given.. gốc lưỡi. Ví dụ : gãy, gắt, ghê,
… - Có phụ âm / ɲ / - Có phụ âm / ɲ / - Có phụ âm quặt - Không có lưỡi / tr /,
phụ âm mặt lưỡi / nh, kh, ng / - Không có môi – - Có âm gần đúng âm môi:/ w /
môi – môi:/ w /
Khác nhau - Vị trí của phụ âm trong âm tiết TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH -Phụ
âm đứng đầu âm tiết - Các phụ âm trong như/: b, th, ph, v, đ, d, g, l, Tiếng Anh
có thể đứng qu, k, s, r, kh, h… đầu, giữa hay cuối âm Ví dụ : đi, lê, bò, không,
tiết theo, … -Những phụ âm đứng Ví dụ : [ state – last – cuối âm tiết như: -p, -t,
-ch, - abacus] c, -m, -n, -nh,-ng [ rose – cry – air ] Ví dụ: ngang, chích, các, làm,
nhanh, tát,…

Khác nhau - Vị trí của phụ âm trong âm tiết TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH -Một
số lại không xuất hiện lại trong hệ thống phụ âm cuối như: th, kh, d, … -Tiếng
Anh -Tiếng Việt có những tác động không chịu sự tác của giọng nói ở các địa
phương động. Ví dụ: . phụ âm đầu : Ở miền Bắc “s – x” [ sang – xang] “ tr – ch”
[ tranh – chanh] “tr – gi” [ trời – giời] “ l – n” [ lên – nên] . Phụ âm cuối: Ở miền
Nam “ n – ng” [ cơn – cơng ], “t – c” [ tất – tấc]
Về số lượng: XL1 ≠ XL2 Về phương thức cấu âm: • XL1 = XL2 : Cấu tạo chung
bởi 3 phương thức Tắt, Xát, Mũi • XL1 ≠ XL2 : Cấu tạo ở mỗi phương thức Tắt,
Xát, Mũi Về vị trí của phụ âm: XL1 ≠ XL2 : Vị trí đứng XL1 Þ XL2 : Tác động
của giọng nói
Câu 13:Trình bày khái niệm hình vị. Phân biệt chính tố và phụ tố. Phân loại các
loại phụ tố. Cho các VD cụ thể trong tiếng Anh hoặc một loại ngoại ngữ khác
Câu 14: Từ là gì? Trình bày các phương thức tạo từ mới. Cho Vd cụ thể trong
tiếng Việt hoặc tiếng Anh
Phương thức cấu tạo


Từ tiếng Việt được cấu tạo hoặc là bằng các dùng một tiếng, hoặc là tổ hợp các tiếng lại
theo lối nào đó.
2.1. Phương thức dùng một tiếng làm một từ sẽ cho ta các từ đơn [còn gọi là từ đơn
tiết]. Vậy từ đơn ở đây được hiểu là những từ cấu tạo bằng một tiếng.
Ví dụ: tôi, bác, người, nhà, cây, hoa, trâu, ngựa...
đi, chạy, cười, đùa, vui, buồn, hay, đẹp...
vì, nếu, đã, đang, à, ư, nhỉ, nhé...
2.2. Phương thức tổ hợp [ghép] các tiếng lại, mà giữa các tiếng [thành tố cấu tạo] đó
có quan hệ về nghĩa với nhau, sẽ cho ta những từ gọi là từ ghép. Dựa vào tính chất của
mối quan hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, có thể phân loại từ ghép tiếng Việt như
sau:
Từ ghép đẳng lập. Đây là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ bình đẳng với
nhau về nghĩa. Ở đây, có thể lưu ý tới hai khả năng.

Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành tố như vậy để
cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố này không trùng nhau.
So sánh: ăn ≠ ăn ở ≠ ăn nói ≠ ở ≠ nói...
Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa. Trong hầu hết các
trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa này vốn rõ nghĩa nhưng bị bào mòn dần đi ở
các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm tòi từ nguyên và lịch sử, người ta thường xác
định được nghĩa của chúng. Ví dụ: chợ búa, bếp núc, đường sá, tre pheo, cỏ rả, sầu
muộn, chó má, gà qué, cá mú, xe cộ, áo xống...
Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một trong những điểm
làm cho nó khác với từ ghép chính phụ.
Từ ghép chính phụ. Những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ thuộc vào thành tố
cấu tạo kia, đều được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố phụ có vai trò phân loại, chuyên
biệt hoá và sắc thái hoá cho thành tố chính. Ví dụ: tàu hoả, đường sắt, sân bay, hàng
không, nông sản, cà chua, máy cái, dưa hấu, cỏ gà... xấu bụng, tốt mã, lão hoá... xanh lè,
đỏ rực, ngay đơ, thằng tắp, sưng vù...
2.3. Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm cho ta các từ láy [còn gọi
là từ lấp láy, từ láy âm].
Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba
tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương thức láy của
tiếng Việt.
Một từ sẽ được coi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm
được lặp lại; nhưng vừa có lặp [còn gọi là điệp] vừa có biến đổi [còn gọi là đối]. Ví
dụ: đỏ đắn: điệp ở âm đầu, đối ở phần vần. Vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối
[chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành ngành... thì ta có dạng láy của từ chứ
không phải là từ láy. Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ
láy như sau:
Từ láy gồm hai tiếng [cũng gọi là từ láy đôi] có các dạng cấu tạo sau:
Láy hoàn toàn. Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của hai thành tố
[hai tiếng] không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều là phần đối của chúng rất nhỏ



khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố gốc trong yếu tố được gọi là yếu tố
láy. Có thể chia các từ láy hoàn toàn thành ba lớp nhỏ hơn:
a. Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm [một trong hai yếu tố được nói
nhấn mạnh hoặc kéo dài]. Ví dụ: cào cào, ba ba, rề rề, lăm lăm, khăng khăng, kìn kìn, lù
lù, lâng lâng, đùng đùng, hây hây, gườm gườm, đăm đăm...
b. Lớp từ láy hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu ở đây là: thanh
bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực; và bằng đứng trước, trắc đứng sau.
BẰNG

TRẮC

Ngang [1]

Hỏi [4]

Sắc [5]

Huyền [2]

Ngã [3]

Nặng [6]

Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hẩy, hau háu, hơ hớ, ngay ngáy, phơi phới, sừng sững, chồm
chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng...
Tuy nhiên, ở đây vẫn còn một số ngoại lệ như: cỏn con, dửng dưng, mảy may, cuống
cuồng...
c. Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo quy luật dị hoá:
m–p


ng – c

n–t

nh – ch

Ví dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hèm hẹp...
chan chát, khin khít, sồn sột, thon thót, ngùn ngụt...
khang khác, vằng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc...
anh ách, chênh chếch, đành đạch, phành phạch, rinh rích...
Thanh điệu của các yếu tố trong mỗi từ vẫn tuân theo quy luật của lớp b.
Láy bộ phận. Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở phần vần thì
được gọi là láy bộ phận. Căn cứ vào đó, có thể chia từ láy bộ phận thành hai lớp.
a. Lớp từ láy [điệp] âm đầu, đối ở phần vần. Ví dụ như:bập bềnh, cò kè, ho he, thơ thẩn,
đẹp đẽ, làm lụng, ngơ ngác, say sưa, xoắn xuýt, vồ vập, hấp háy...
Trong lớp này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải là từ láy, nhưng vì quan hệ
về nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi, làm cho quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa
các yếu tố đó nổi lên hàng đầu, và hiện giờ người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví
dụ: chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn, sân sướng... Nghĩa của những từ như vậy được tổ chức
theo kiểu của các từ tre pheo, chó má, đường sá, xe cộ, áo xống...
Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý tới hiện tượng đối ứng ở âm chính. Hiện
tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng đều đặn ở một số nhóm từ.
u đối với i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mĩm...
ô – ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển, thỗn thện...
o – e: ho he, vo ve, khò khè, võ vẽ, nhỏ nhẻ...
i – a: hỉ hả, rỉ rả, xí xoá, hí hoáy...
u – ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng...
u – ơ: ngu ngơ, rù rờ, khù khờ, cũn cỡn...



ô – a: bỗ bã, hốc hác, mộc mạc, ngột ngạt...
ê – a: nghê nga, khề khà, rề rà, xuề xoà, hể hả...
b. Lớp từ láy [điệp] phần vần, đối ở âm đầu. Ví dụ như: bâng khuâng, bơ vơ, lừng chừng,
lù đù, lã chã, càu nhàu, lỗ mỗ, thao láo, hấp tấp, tủn mủn, lụp xụp, lảng vảng, lúng túng,
co ro, lan man, làng nhàng...
Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đầu của tiếng thứ nhất là âm /l-/ và phần lớn chúng có
chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít từ mà cả hai tiếng đều không rõ
nghĩa, ví dụ: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy hầy, thình lình, liểng xiểng, xớ rớ, lấc cấc...
Từ láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng. Tuy
vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, còn từ láy bốn lại dựa trên cơ chế láy
bộ phận là chủ yếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, dửng dừng dưng, trơ trờ trờ... đủng
đà đủng đỉnh, lếch tha lếch thếch, linh tinh lang tang, vội vội vàng vàng...
Trên thực tế, số lượng từ láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt khác, có thể coi
chúng chỉ là hệ quả, là bước "tiếp theo" trên cơ chế láy của từ láy hai tiếng mà thôi. Từ
láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần [ví dụ: nhũn – nhũn nhùn nhùn;
xốp – xốp xồm xộp...]. Nhiều khi ta gặp những "cặp bài trùng" giữa từ láy hai tiếng và ba
tiếng như: sát sạt – sát sàn sạt; trụi lủi – trụi thui lủi; nhũn nhùn – nhũn nhùn nhùn; khét
lẹt – khét lèn lẹt... Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là:
- "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e, a, ơ, à cho phù
hợp, hài hoà về âm vực giữa các vần, các thanh:
vớ vẩn

→ vớ va vớ vẩn

lề mề

→ lề mà lề mề...

- "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có thanh điệu thuộc âm

vực cao, hai tiếng sau mang thanh điệu âm vực thấp: bồi hồi – bổi hổi bồi hồi.
- "Nhân đôi" từng tiếng của từ láy hai tiếng:
hùng hổ

→ hùng hùng hổ hổ

vội vàng

→ vội vội vàng vàng...

- Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ nhất và thứ ba thành
/l-/:
nhồm nhoàm

→ lồm nhồm loàm nhoàm

thơ thẩn

→ lơ thơ lẩn thẩn...

Ngoài ra, còn có một số từ khác không cấu tạo theo các cách nêu trên; hoặc từ một từ
gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có một. Chẳng hạn: bù lu bù
loa; bông lông ba la... hoặc bắng nhắng – bắng nha bắng nhắng; bắng nhắng bặng bặng
nhặng...
Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị, nhất là ở nhiều nhóm từ cùng
có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó về nghĩa. Điều này cần
được khảo sát riêng tỉ mỉ hơn.


2.4. Từ các kiểu từ đã trình bày trên đây, tiếng Việt còn có một lớp từ mà người bản

ngữ hiện nay không thấy giữa các thành tố cấu tạo [các tiếng] của chúng có quan hệ gì về
ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Vì vậy, từ góc độ phân loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ
ngẫu hợp với ngụ ý: các tiếng tổ hợp với nhau ở đây một cách ngẫu nhiên. Lớp từ này có
thể bao gồm:
- Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi, kì nhông, cà nhắc,
mặc cả...
- Những từ vay mượn gốc Hán [hoặc phiên âm qua âm Hán Việt] thông qua con đường
sách vở hoặc khẩu ngữ [trong số này có những từ mà từng thành tố của chúng trước đây
vốn rõ nghĩa, nhưng nay không được người Việt nhận thức nữa].
Ví dụ: mâu thuẫn, hi sinh, trường hợp, kinh tế, kinh tế, câu lạc bộ, mì chính, tài xế, vằn
thắn, lục tàu xá...
- Những từ vay mượn gốc Ấn-Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ như: a-xít, mit
tinh, sơ mi, tùng bê, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao, hắc ín, sô-cô-la...
Bộ phận từ này trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng do các mối quan hệ
quốc tế mở rộng, tạo điều kiện cho sự tiếp xúc, vay mượn và du nhập từ ngữ, nhất là
trong lĩnh vực thông tin, khoa học và kĩ thuật.

Câu 15: Phân tích mối quan hệ giữa 3 khái niệm: ý nghĩa phương pháp, phương
thữc ngữ pháp và phạm trù ngữ pháp
Câu 16: Trình bày các quan hệ ngữ pháp cơ bản. Minh họa bằng các VD trong
tiếng Việt hoặc tiếng Anh
Câu 17: Trình bày các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ. Minh họa bằng các
VD trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh
I
Ðồng nghĩa là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong các ngôn ngữ, nói chung,
và trong tiếng Việt, nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay quan niệm về hiện tượng này chưa
phải đã thống nhất.
1.1.Theo quan niệm truyền thống.
Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa gần nhau hay giống nhau.
Nhìn chung quan điểm này đúng nhưng chưa đủ vì còn quá chung chung bởi

các lý do sau:
- Không phân biệt nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm nên không xác định được từ
đồng nghĩa giống nhau về nghĩa biểu vật hay nghĩa biểu niệm.
- Không tính tới một cách nghiêm túc hiện tượng nhiều nghĩa.
1.2. Theo quan niệm hiện đại.


Có các khuynh hướng:
- Dựa vào tương quan ngữ cảnh, một số tác giả cho rằng từ đồng là từ có thể thay
thế được cho nhau trong những ngữ cảnh giống nhau mà ý nghĩa chung của câu không
thay đổi về cơ bản .
Quan niệm này quá rộng bởi 2 lý do sau:
+ Có trường hợp từ vốn được xem là đồng nghĩa nhưng không thay thế được
cho nhau trong những ngữ cảnh giống nhau.
+ Có trường hợp từ thay thế được cho nhau trong ngữ cảnh này mà không
thay thế được cho nhau trong ngữ cảnh khác.
- Dựa vào nghĩa biểu vật và sự vật, hiện tượng được gọi tên, Nguyễn Văn Tu cho
rằng từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau. Ðó là những từ khác nhau cùng chỉ
một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Ðó là những tên khác nhau của một
hiện tượng
- Dựa vào nghĩa biểu niệm và khái niệm, Ðỗ Hữu Châu cho rằng hiện tượng đồng
nghĩa là hiện tượng xảy ra có tính rộng khắp trong hàng loạt từ, nó xuất hiện khi giữa các
từ chỉ cần có một nét nghĩa chung và không có nét nghĩa đối lậpTuy rằng cuối cùng tác
giả có phân ra chia nhiều mức độ đồng nghĩa, nhưng nói chung quan niệm này nhìn nhận
về hiện tượng đồng nghĩa vẫn quá rộng.
- Cùng dựa vào nghĩa biểu niệm và khái niệm, Nguyễn Thiện Giáp viết: Trong hệ
thống ngôn ngữ, nói đến hiện tượng đồng nghĩa là phải nói đến sự giống nhau của các
nghĩa sở biểu. Vì vậy, chúng tôi tán thành quan niệm cho từ đồng nghĩa là những từ gần
nhau về nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm
-quan niệm về từ đồng nghĩa như sau: từ đồng nghĩa là những từ có hình thức ngữ âm

khác nhau nhưng có quan hệ tương đồng về nghĩa biểu niệm.
2.Phân loại từ đồng nghĩa:
Dựa vào mức độ giống nhau về nét nghĩa giữa các từ đồng nghĩa, có thể chia
từ đồng nghĩa thành các loại:
2.1.Từ dồng nghĩa tuyệt đối:
Là những từ đồng nghĩa đồng nhất về ý nghĩa biểu niệm và cả nghĩa biểu thái
cũng như phạm vi sử dụng của chúng.Ðấy là hiện tượng đồng nghĩa giữa các từ do sự
song tồn giữa :
- Từ cũ và từ mới.


Thí dụ:Trăng - nguyệt - chị hằng - gương nga ; trực thăng - máy bay lên
thẳng; xe lửa - tàu hỏa - hoả xa; phi cơ - máy bay;...
-Từ địa phương và từ toàn dân.
Thí dụ: Cha - bố - tiá; mẹ - me - má - vú; thấy - chộ; xa - ngái; cô - ả - o;...
-Từ thuần Việt và từ vay mượn.
Thí dụ: Bệnh nhân - người bệnh; sử dụng - dùng; mô bi lết - xe máy.
-Thuật ngữ và từ thường.
Thí dụ: Trần bì - vỏ quýt; lưu huỳnh - diêm sinh , lân- phốt pho...
2.2. Ðồng nghĩa tương đối.
Bao gồm những trường hợp đồng nghĩa khác nhau nhiều hay ít trong các
thành phần ý nghĩa hoặc khác nhau ở một hoặc vài nét nghĩa nào đó trong ý nghĩa biểu
niệm của các từ. Cụ thể chúng có thể khác nhau ở các điểm sau đây:
- Khác nhau về nghĩa biểu thái.
Thí dụ: Ăn - xơi - tọng - hốt; trẻ em - con nít; phụ nữ - đàn bà.
- Khác nhau về phạm vi biểu vật.
Thí dụ: Chết - qua đời - mất; lạnh - lạnh lẽo; lạnh - lạnh lùng; diệt - tiêu diệt xoá sổ - loại khỏi vòng chiến;...
- Khác nhau ở các nét nghĩa trong cấu trúc biểu niệm của các từ.
Thí dụ: Nhà - lâu đài; ngại - sợ - kinh; đẹp - mỹ lệ; mổ - bổ - cắt - ngắt -xé,...
*Nhận xét:

- Do từ thể có nhiều nghĩa nên một từ có thể đồng nghĩa với nhiều từ khác
nghĩa nhau.
-Từ đồng nghĩa có thể xảy ra giữa các từ có các yếu tố cấu tạo và phương
thức cấu tạo khác nhau.
Thí dụ: To- lớn- bự- đồ sộ- khổng lồ; nhỏ- tí hon,...
- Từ đồng nghĩa cũng có thể xảy ra giữa các từ có cùng yếu tố cấu tạo .


Thí dụ: máu- máu me; chim- chim chóc; xấu- xấu xí; khoẻ- khỏe khoắn.
Ngoài ra do thành ngữ cũng là một loại đơn vị từ vựng nên bàn đến hiện
tượng đồng nghĩa từ vựng cũng có thể tập hợp các thành ngữ có nghĩa giống nhau.
Thí dụ: khoe khoang- múa rìu qua mắt thợ; may mắn- buồn ngủ gặp chiếu
manh- chết đuối vớ được cọc-chuột sa hủ nếp- mèo mù vớ cá rán;...
Tóm lại, hiện tượng từ đồng nghĩa chứng tỏ sự nhận thức chính xác, tinh tế
của dân tộc về hiện thực khách quan.
Sau dây là một số phương pháp tìm và chỉ ra sự khác biệt ý nghĩa giữa các từ
đồng nghĩa .
1/- Xác định từ trung tâm trong dãy đồng nghĩa, giải nghĩa cặn kẽ từ trung tâm, dựa
vào từ trung để giải thích ý nghĩa cho những từ còn lại đồng thời chỉ ra sự khác biệt về
nghĩa giữa chúng.
Ví dụ: Phân biệt nghĩa của các từ mẹ, má, u, bầm,...
Mẹ : người đàn bà đẻ ra mình [ có thể dùng để xưng gọi, được sử dụng trong ngôn
ngữ toàn dân]
Má : mẹ [ chỉ dùng dể xưng gọi , thường dùng ở Nam Bộ]
Bầm : mẹ [ chỉ dùng để xưng gọi, thường dùng ở trung du Bắc Bộ]
U : mẹ [ chỉ dùng để xưng gọi, thường dùng ở nông thôn Bắc Bộ]
2/- Phân tích tìm nghĩa chung của các từ trong nhóm từ đồng nghĩa, sau đó kết hợp
chỉ ra những nét riêng về nghĩa của từng từ để chỉ ra sự khác biệt về nghĩa giữa chúng.
Ví dụ: Phân biệt nghĩa giữa các từ cho, tặng, biếu.
Phần nghĩa chung giữa ba từ là: [ trao cái gì đó cho ai ] [ được quyền sử dụng

riêng vĩnh viễn ] [ mà không đòi hay đổi lại cái gì ].
Phần nghĩa riêng của mỗi từ:
Cho : [ Người trao có ngôi thứ cao hơn hoặc ngang với người nhận ] [ vật được
trao là tiền của hoặc có giá trị sử dụng ]
Biếu : [ Người trao có ngôi thứ thấp hơn hoặc bằng người nhận] [vật được trao là
tiền của ] [ bằng thái độ kính trọng ]


Tặng: [ Người trao có ngôi thứ cao hơn, thấp hơn, hoặc ngang với người nhận ]
[ vật được trao mang ý nghĩa tinh thần- để khen ngợi, khuyến khích, hay tỏ lòng quý mến
]
Tuy nhiên làm thế nào để phát hiện và chỉ ra được sự khác biệt về nghĩa giữa các từ
đồng nghĩa, đặc biệt là giữa các từ đồng nghĩa tương đối là vấn đề không đơn giản. Ðể
làm được điều này, ngoài cách tiếp tục so sánh, đối chiếu nghĩa giữa các từ đồng nghĩa
trên trục dọc, ta còn có thể áp dụng phương pháp xác lập ngữ cảnh trống hay xác lập ngữ
cảnh nói năng khu biệt. Nghĩa là tìm những câu mà hai từ đồng nghĩa không thay thế cho
nhau được. Hai từ không thể thay thế cho nhau được trong cùng ngữ cảnh thì đó là dấu
hiệu của sự khác biệt. Qua những ngữ cảnh không thay thế cho nhau được ấy sẽ giúp ta
chỉ ra được sự khác nhau về nghĩa giữa chúng.
Ví dụ, để tìm sự khác biệt giữa chỗ và nơi, ta có thể dựa vào các ngữ cảnh trống
sau:
Trên xe cần nhường ... cho người già.
Trong nhà hát còn trống hai chục ... ngồi.
Hàng cồng kềnh chiếm nhiều ....
Tìm khắp ... không thấy.
Anh đi ... đâu tôi cũng quyết tìm cho bằng được.
Qua việc có khả năng hay không có khả năng điền vào ngữ cảnh trống trên ta có
thể chỉ ra điểm khác biệt giữa chỗ và nơi.
Chỗ: Nhỏ hẹp, cụ thể hơn nơi, có thể nhìn thấy toàn bộ trong cùng một lúc và xác
định được giới hạn chính xác.

Nơi rộng hơn chỗ, không xác định được chính xác giới hạn.
Giữa các từ đồng nghĩa có thể khác nhau ở các nét nghĩa phổ biến sau:
- Phong cách [ khẩu ngữ/ văn chương/ khoa học,...]
- Sắc thái biểu cảm [ dương tính / trung tính / âm tính; khẳng định / phủ định...]
- Phạm vi sử dụng [ toàn dân/ địa phương/ một tầng lớp xã hội/ một giới nghề
nghiệp; thường dùng/ ít dùng; ...]
- Phạm vi biểu vật [ cụ thể / khái quát; cụ thể / trừu tượng; rộng hẹp,...]
- Các nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm.


+ Ðối với các danh từ, tính từ chỉ các sự vật, hiện tượng, tính chất,... có thể có
quy mô, kích thước, mức độ khác nhau [ to / nhỏ; cao / thấp, nhiều / ít,...]
+ Ðối với động từ có thể khác nhau ở chủ thể hành động, đối tượng hành
động [ trên / dưới / ngang hàng,...]; cách thức hành động [ dụng cụ / bằng tay; chiều
ngang / chiều dọc,...]; muc đích, nguyên nhân của hành động,...
3/- Dựa vào các yếu tố cấu tạo từ. Nếu hai từ đồng nghĩa có chung một thành tố
cấu tạo thì sự khác biệt về nghĩa của chúng thường nằm ở thành tố khác nhau ấy.
Ví dụ: ám sát và mưu sát. Hai từ này khác nhau ở các yếu tố ám và mưu . ám có
nghĩa là lén lút, tối tăm, kín. Mưu có nghĩa là sắp đặt, kế hoạch. Do đó, ám sát là giết
lén; còn mưu sát là giết người có mưu kế, có sắp đặt kế hoạch từ trước.
II. HIỆN TƯỢNG TRÁI NGHĨA
1. Quan niệm về từ trái nghĩa:
Cũng như quan niệm về hiện tượng đồng nghĩa, về hiện tượng trái nghĩa cũng có
nhiều ý kiến khác nhau .
Có tác giả cho rằng từ trái nghĩa là những từ khác nhau về ngữ âm, đối lập đối lập
về ý nghĩa biểu hiện khái niệm tương phản về lôgíc, nhưng tương liên lẫn nhau.
Cần phải nhận thấy rằng các từ được xem là trái nghĩa điển hình
trước hết phải có các nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu niệm giống nhau. Chẳng
hạn, các cặp từ trái nghĩa to- nhỏ; dài-ngắn...giống nhau ở nét nghĩa phạm trù và nét
nghĩa loại. Nét nghĩa này có thể thay thế cho tiêu chí tương liên đã nói ở trên .Từ đó có

thể đi đến một cách hiểu về từ trái nghĩa như sau:
Từ trái nghĩa là những từ có một số nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu
niệm giống nhau, bên cạnh đó, nổi bật lên ít nhất một nét nghĩa đối lập.
2. Phân loại từ trái nghĩa:
Từ sự khảo sát trên,có thể thấy hiện tượng trái nghĩa xảy ra ở hai mức độ khác
nhau: trái nghĩa tuyệt đối và trái nghĩa tương đối.
2.1. Trái nghĩa tuyệt đối :
Ðây là trường hợp trái nghĩa giữa các từ thoả mãn các tiêu chí sau:
1] Bên cạnh những nét nghĩa khái quát giống nhau, giữa các từ có xuất hiện nét nghĩa đối
lập;


2] Chúng nằm ở vùng liên tưởng nhanh nhất, mạnh nhất, có tần số xuất hiện cao nhất.
Nói nôm na, hễ có A là người ta liên tưởng đối lập ngay tới B.
Thí dụ:
Dài / ngắn
sớm / muộn

rộng / hẹp

to / nhỏ

cứng / mềm

cao /thấp

quen /lạ

yêu /ghét


2.2. Trái nghĩa tương đối:
Là trường hợp trái nghĩa giữa các từ chỉ thỏa mãn tiêu chí 1] mà không thỏa
mãn tiêu chí 2]. Tức đấy là các trường hợp trái nghĩa nằm ở vùng liên tưởng yếu, nghĩa là
nói tới A người ta không liên tưởng đối lập ngay tới B. Thí dụ:
Nhỏ / khổng lồ

thấp / lêu nghêu

cao / lùn tịt

Trái nghĩa và đồng nghĩa là hai hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, nói
chung, và trong tiếng Việt, nói riêng; tuy nhiên những nghiên cứu và giải đáp về nó vẫn
còn chừng mực.
III. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM
1. Quan niệm về hiện tượng đồng âm.
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:
Cả hai cùng có đặc điểm là sử dụng vỏ ngữ âm giống nhau để biểu thị những ý
nghĩa khác nhau, nhưng ở hiện tượng đồng âm giữa các nghĩa của từ không có quan hệ;
còn ở hiện tượng nhiều nghĩa, giữa các nghĩa có quan hệ, xảy ra do hiện tượng nhiều
nghĩa và sự chuyển biến ý nghĩa của từ.
Như vậy có thể nói hai đơn vị được xem là đồng âm khi giữa chúng có hình thức
ngữ âm giống nhau và không có quan hệ với nhau về mặt ý nghĩa.
Chú ý:
- Hiện tượng đồng âm có thể xảy ra ở nhiều cấp độ [ giữa các cụm từ tự do với
nhau, giữa những từ đa âm tiết, giữa những từ đơn âm tiết, giữa từ đơn âm tiết và các yếu
tố cấu tạo từ…]
- Những trường hợp chệch chuẩn không được xem là những hiện tượng đồng âm.
-Với những trường hợp chuyển nghĩa quá xa, không xác định được cơ chế chuyển
nghĩa, có thể xem chúng là những trường hợp đồng âm.
2.Phân loại:



Video liên quan

Chủ Đề