Vì sao tần doanh chính thống nhất được lãnh thổ trung quốc

Mục lục

Hoàn cảnhSửa đổi

Trong giai đoạn cuối thời Chiến Quốc, Tần nổi lên như một thế lực mạnh nhất trong số bảy nước chư hầu còn sót lại. Năm 238 TCN, sau 9 năm lên ngôi, Tần vương Doanh Chính chính thức nắm giữ thực quyền tối cao ở Tần sau khi loại bỏ các phe phái chính trị nắm giữ quyền hành lớn trong triều trước đó như thừa tướng Lã Bất Vi hay Lao Ái. Dưới sự giúp sức của các cận thần như Úy Liêu, Lý Tư, và nhiều danh tướng tiêu biểu như Vương Tiễn, Vương Bí, Mông Ngao, Mông Vũ, Mông Điềm, Lý Tín, Doanh Chính đã lên kế hoạch tấn công các nước chư hầu nhằm mục đích thống nhất toàn cõi Trung Hoa. Chiến lược đặt ra là tiêu diệt lần lượt từng nước chư hầu, với phương châm "viễn giao cận công" [giao hảo với nước ở xa, tấn công những nước ở gần". Cụ thể, Tần đặt liên minh với Tề và Yên là hai nước ở phía đông không có chung biên giới với Tần; tạm thời hoà hoãn với Nguỵ, Sở và tấn công Hàn, Triệu.

Niên biểu các sự kiện Năm Sự kiện
230 TCN
  • Tần diệt Hàn
228 TCN
  • Tần diệt Triệu
225 TCN
  • Tần diệt Nguỵ
223 TCN
  • Tần diệt Sở
222 TCN
  • Tần diệt Yên và Đại
221 TCN
  • Tề đầu hàng Tần.
  • Trung Hoa hoàn toàn thống nhất.

Chinh phục HànSửa đổi

Hàn là nước nhỏ nhất trong 7 nước thời Chiến quốc, trong lịch sử Hàn từng chịu đựng nhiều cuộc tấn công từ Tần khiến đất nước càng trở nên yếu ớt.

Năm 234 TCN, Tần lên kế hoạch tấn công Hàn, nhưng sau khi nhận thấy Triệu có ý hỗ trợ Hàn, Tần quyết định cử Hoàn Nghĩ dẫn quân đánh Bình Dương và Vụ Thành của nước Triệu. Hơn 10 vạn quân Triệu bị diệt, tướng Triệu là Hỗ Triếp tử trận. Lúc này, nước Hàn cũng đã chính thức hết hy vọng cứu vãn vận mệnh của mình.

Năm 230 TCN, 10 vạn quân Tần tấn công vào kinh đô Dương Địch của Hàn, vua Hàn là Hàn vương An đầu hàng. Tần vương Chính đặt đất đai còn lại của nước Hàn làm quận Dĩnh Xuyên.

Mục lục

Tên gọiSửa đổi

始皇帝
Thủy Hoàng Đế
"Hoàng đế đầu tiên"
[tiểu triện từ năm 220 TCN]

Phần lớn các nguồn tham khảo hiện đại của Trung Quốc lấy Doanh Chính là tên cá nhân của Tần Thủy Hoàng, với Doanh là họ và Chính là tên. Tuy nhiên, thời Trung Quốc cổ đại có cách gọi tên khác với thời hiện đại. Trường hợp của ông, vì sinh ra ở nước Triệu nên Triệu có thể dùng làm họ. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, ông được giới thiệu tên Chính, họ Triệu.[4] Dù vậy, sau này Trung Quốc lấy họ của tổ tiên mà gọi, do đó Doanh Chính là tên được đại đa số đồng thuận khi nhắc đến tên riêng của Tần Thủy Hoàng, vì ông là con cháu nhà Doanh, họ chung của các vua Tần.[5]

Những người cai trị nhà Tần đã tự phong Vương từ thời Tần Huệ Văn vương năm 325 TCN. Sau khi lên ngôi, Doanh Chính được gọi là Tần vương Chính.[6] Danh hiệu này nhấn mạnh ông đứng ngang hàng về mặt danh nghĩa với người cai trị nhà Thương và nhà Chu.

Trong thời gian trước thời nhà Chu và sau đó, các nhà cai trị các quốc gia độc lập của Trung Quốc theo quy ước đều xưng "Vương" [王]. Sau khi đánh bại vị vua chư hầu cuối cùng của Chiến Quốc vào năm 221 TCN, Tần vương Chính chính thức trở thành người cai trị trên toàn lãnh thổ Trung Hoa. Để ăn mừng thành tích này và củng cố cơ sở quyền lực của mình, Doanh Chính đề nghị các đại thần bàn danh hiệu cho mình. Sau khi bàn bạc, các đại thần tâu lên Tần vương Chính:

Ngũ Đế ngày xưa đất chỉ vuông ngàn dặm, ngoài ra là đất đai của chư hầu và của man di, họ vào chầu hay không thiên tử cũng không cai quản được. Nay bệ hạ dấy nghĩa binh, giết bọn tàn ác và nghịch tặc, bình định được thiên hạ, bốn biển thành quận và huyện, pháp luật và mệnh lệnh đều thống nhất ở một nơi, từ thượng cổ đến nay chưa hề có, Ngũ đế đều không bằng. Bọn thần sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với các bậc sĩ thấy rằng: Ngày xưa có Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Thái Hoàng, nhưng Thái Hoàng là cao quý nhất. Bọn thần liều chết xin dâng tôn hiệu của nhà vua là Thái Hoàng, mệnh ban ra gọi là “chế”, lệnh ban ra gọi là “chiếu”, thiên tử tự xưng gọi là “trẫm”.

Tuy vậy, Doanh Chính quyết định không lấy chữ "Thái", mà lấy chữ "Hoàng" [皇] và chữ "Đế" [帝] theo thần thoại Tam Hoàng Ngũ Đế [三皇五帝], tạo ra một danh hiệu mới là Hoàng đế. Ông tự xưng là Tần Thủy Hoàng Đế [秦始皇帝], thường được rút ngắn là Tần Thủy Hoàng [秦始皇], thay thế cho tên gọi Tần Vương [秦王]. Những lời tâu khác thì ông đều làm theo, từ đó mệnh ban ra gọi là chế, lệnh ban ra gọi là chiếu, thiên tử tự xưng là trẫm. Ông truy tôn vua cha Tần Trang Tương vương là Thái thượng hoàng.

Trẫm nghe nói thời Thái Cổ có hiệu nhưng không có hiệu bụt. Thời Trung Cổ có hiệu và sau khi chết người ta căn cứ vào việc làm của nhà vua mà đặt hiệu bụt. Làm như thế tức là con bàn bạc về cha, tôi bàn luận về vua, thật là vô nghĩa. Trẫm không chấp nhận điều ấy. Từ nay trở đi, bỏ phép đặt hiệu bụt. Trẫm là Thủy Hoàng Đế, các đời sau cứ theo số mà tính: Nhị Thế, Tam Thế đến Vạn Thế truyền mãi mãi.
— Tần Thủy Hoàng

Ý nghĩa của tên hiệu "Tần Thủy Hoàng Đế":

  • Chữ Thủy [始], lấy từ từ Thủy Tổ, có nghĩa là đầu tiên.[7] Người thừa kế sau đó sẽ được gọi tiếp là "Nhị Thế", "Tam Thế" và như vậy cho đến muôn đời. Ngoài ra, theo Lý Tư, nhà Tần lấy được thiên hạ từ nhà Chu, nhà Chu mệnh Hoả nên nhà Tần nên sử dụng hành thủy để tỏ rõ là hơn nhà Chu một bậc
  • Chữ Hoàng Đế [皇帝] được lấy từ thần thoại Tam Hoàng Ngũ Đế [三皇五帝], nơi chữ này được trích ra.[8] Bằng cách thêm vào một tiêu đề như vậy, Tần Thủy Hoàng hy vọng sẽ có sự thiêng liêng và uy tín của Hoàng Đế [皇帝] trước kia.
  • Ngoài ra, chữ "Hoàng" [皇] có nghĩa là "sáng" hay "lộng lẫy" và "thường xuyên nhất được sử dụng như là một chữ chỉ thiên đường".[9]

Hoàn cảnh

Trong giai đoạn cuối thời Chiến Quốc, Tần nổi lên như một thế lực mạnh nhất trong số bảy nước chư hầu còn sót lại. Năm 238 TCN, sau 9 năm lên ngôi, Tần vương Doanh Chính chính thức nắm giữ thực quyền tối cao ở Tần sau khi loại bỏ các phe phái chính trị nắm giữ quyền hành lớn trong triều trước đó như thừa tướng Lã Bất Vi hay Lao Ái. Dưới sự giúp sức của các cận thần như Úy Liêu, Lý Tư, và nhiều danh tướng tiêu biểu như Vương Tiễn, Vương Bí, Mông Ngao, Mông Vũ, Mông Điềm, Lý Tín, Doanh Chính đã lên kế hoạch tấn công các nước chư hầu nhằm mục đích thống nhất toàn cõi Trung Hoa. Chiến lược đặt ra là tiêu diệt lần lượt từng nước chư hầu, với phương châm "viễn giao cận công" [giao hảo với nước ở xa, tấn công những nước ở gần". Cụ thể, Tần đặt liên minh với Tề và Yên là hai nước ở phía đông không có chung biên giới với Tần; tạm thời hoà hoãn với Nguỵ, Sở và tấn công Hàn, Triệu.

Niên biểu các sự kiệnNămSự kiện
230 TCN
  • Tần diệt Hàn
228 TCN
  • Tần diệt Triệu
225 TCN
  • Tần diệt Nguỵ
223 TCN
  • Tần diệt Sở
222 TCN
  • Tần diệt Yên và Đại
221 TCN
  • Tề đầu hàng Tần.
  • Trung Hoa hoàn toàn thống nhất.

Chinh phục Hàn

Hàn là nước nhỏ nhất trong 7 nước thời Chiến quốc, trong lịch sử Hàn từng chịu đựng nhiều cuộc tấn công từ Tần khiến đất nước càng trở nên yếu ớt.

Năm 234 TCN, Tần lên kế hoạch tấn công Hàn, nhưng sau khi nhận thấy Triệu có ý hỗ trợ Hàn, Tần quyết định cử Hoàn Nghĩ dẫn quân đánh Bình Dương và Vụ Thành của nước Triệu. Hơn 10 vạn quân Triệu bị diệt, tướng Triệu là Hỗ Triếp tử trận. Lúc này, nước Hàn cũng đã chính thức hết hy vọng cứu vãn vận mệnh của mình.

Năm 230 TCN, 10 vạn quân Tần tấn công vào kinh đô Dương Địch của Hàn, vua Hàn là Hàn vương An đầu hàng. Tần vương Chính đặt đất đai còn lại của nước Hàn làm quận Dĩnh Xuyên.

Chinh phục Triệu

Năm 236 TCN, lợi dụng thời cơ Triệu tấn công Yên, lấy cớ cứu Yên, Tần cử hai đạo quân, đạo thứ nhất do Vương Tiễn và đạo thứ hai do Hoàn Nghĩ và Dương Đoan Hòa chỉ huy tấn công Triệu. Kết quả của cuộc tấn công là Tần chiếm được 9 thành của Triệu và khiến sức mạnh quân đội Triệu suy yếu trầm trọng.

Năm 232 TCN, quân Tần lại chia hai đường tấn công vào Triệu, nhưng lần này thất bại trước quân Triệu dưới sự chỉ huy của Lý Mục. Tần mất 10 vạn quân còn tướng Hoàn Nghĩ chạy trốn sang Yên để tránh bị Tần trừng phạt [Có thuyết nói rằng ông bị cách chức và không xuất hiện nữa]. Quân Triệu thắng nhưng cũng chịu tổn thất nặng nề và phải rút lui để bảo vệ kinh đô Hàm Đan.

Trong vài năm tiếp theo, Triệu hứng chịu liên tiếp hai đợt thiên tai là động đất và mất mùa làm tình hình trong nước càng thêm khó khăn. Năm 229 TCN, Tần lợi dụng tình hình này đem quân đánh Triệu. Ba cánh quân Tần do Vương Tiễn, Khương Hối và Dương Đoan Hòa tấn công áp sát kinh đô Hàm Đan. Lý Mục cùng Tư Mã Thượng chỉ huy quân Triệu phòng ngự, đóng trại ở Phì lũy, giữ vững không đánh. Quân Tần không sao tấn công được. Tần mới tìm kế sai người đút lót cho thừa tướng Triệu là Quách Khai, khiến Quách Khai dèm pha với vua Triệu là Lý Mục có ý giảng hoà với Tần, hẹn ngày phá Triệu rồi sẽ làm vua riêng ở đất Đại. Vua Triệu tin lời bèn mời Lý Mục về và cử Triệu Thông ra thay. Lý Mục từ chối, vua Triệu càng tin là ông có ý làm phản, cho người đem bắt về rồi giết[1]. Triệu Thông lên thay Lý Mục, Nhan Tụ làm phó. Quân Tần biết Lý Mục đã bị thay liền phát động tấn công, quân Triệu không chống nổi, Triệu Thông tử trận còn Nhan Tụ đem tàn quân chạy về Hàm Đan. Quân Tần vây kín Hàm Đan, 7 tháng sau thì hạ được thành, bắt sống Triệu vương Thiên. Nước Triệu mất từ đó.

Lúc Hàm Đan thất thủ, Triệu Gia, anh cùng cha khác mẹ của Triệu vương Thiên, không chịu đầu hàng quân Tần mà cùng với vài trăm quý tộc nước Triệu bỏ chạy lên đất Đại ở phía bắc. Ông tự xưng là Đại vương, sai sứ sang nước Yên liên minh với Yên vương Hỉ và thái tử Đan, đóng quân ở Thượng Cốc, tiếp tục chống Tần. Năm 222 TCN, nước Đại bị quân Tần do Vương Bí chỉ huy diệt, Đại vương Gia bị quân Tần bắt.

1.Trung Quốc thời Tần, Hán

a. Sự thành lập nhà Tần, Hán.

+ 221 TCN, nhà Tần là nước có tiềm lực mạnh về kinh tế, quân sự mạnhđã thống nhất Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng lên ngôi vua và lập nên nhà Tần.

+ 206 TCN Lưu Bang lập ra nhà Hán, chếđộ phong kiến Trung Quốc tiếp tụcđược xác lập.

b. Tổ chức bộ máy nhà nước thời Tần – Hán.

+ Những quan lại và một số nông dân đã tập trung trong tay nhiều của cải. Bằng quyền lực của mình, họ còn tước đoạt thêm nhiều ruộng đất công. Do đó một giai cấp mới hình thành, bao gồm những kẻ có ruộng tư, vốn là những quan lại và những kẻ có ruộng tư, vốn là những quan lại và những nông dân giàu có, gọi là giai cấp địa chủ.

+ Giai cấp nông dân cũng bị phân hóa : Nông dân giàu có trở thành địa chủ. Nông dân giữ được một số ruộng đất gọi là nông dân tự canh. Số còn lại là nông dân công xã rất nghèo, nhận ruộng đất để cày cấy gọi là nông dân lĩnh canh.

- Quan hệ bóc lột giữa địa chủ và nông dân lĩnh canh – quan hệ phong kiến kiến hiện. Nông dân nhận ruộng đất của địa chủ để cày cấy và nộp một phần hoa lợi cho địa chủ, chế độ phong kiến Trung Quốc được xác lập.

-Chia đất nước thành quận huyện, cử quan Thái thú [ở quận] và Huyện lệnh [ở huyện]. Thừatướngđứng đầu quan văn, Thái úy đứng đầu quan võ.

-Có lực lượng quân sự lớn mạnh để duy trì trật tự xã hội, trấn áp các cuộc nổi dậy, tiến hành chiến tranh xâm lược.

c. Chính sách đối ngoại.

+ Đi xâm lược ở bên ngoài: Xâm lược Triều Tiên và đất đai của người Việt Cổ.

+ Nhà Tần tồn tại 15 năm, Lưu Bang lên ngôi đổi tên thành nhà Hán

+ Nhà Tần và Hán chiếm vùng thượng lưu song Hoàng, thong tính Trường Giang, chiếm phía Đông Thiên Sơn, xâm lược Triều Tiên và chiếm Đất Đai của người Việt cổ

Trả lời câu hỏi mục 2 trang 41 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

Quảng cáo

Đề bài

Nhà Tần đã thống nhất và xác lập chế độ phong kiến Trung Quốc như thế nào?

Video hướng dẫn giải

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Dựa vào quá trình thống nhất của nhà Tần

Lời giải chi tiết

Từ thế kỉ XXI đến thế kỉ III TCN, lịch sử Trung Quốc trải qua các triều đại Hạ Thương, Chu. Sau triều đại nhà Chu, Trung Quốc lại bị chia thành nhiều nước nhỏ. Trong đó, nước Tần có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất, lần lượt tiêu diệt các đối thủ.

Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất lãnh thổ, tự xưng hoàng đế. Nhà Tần chia cắt đất nước thành các quận, huyện, đặt các chức quan cai quản, lập ra triều đại phong kiến đầu tiên ở Trung Quốc.

Để củng cố sự thống nhất đất nước, nhà Tần còn áp dụng chế độ đo lường, tiền tệ, chữ viết và pháp luật chung trên cả nước.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Trả lời câu hỏi mục 3 trang 41 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Hãy xây dựng đường thời gian từ thời nhà Hán đến thời nhà Tùy

  • Trả lời câu hỏi mục 4 trang 42 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Kể tên một số thành tựu văn minh tiêu biểu của Trung Quốc thời cận đại.

  • Soạn giải bài 1 phần Luyện tập - vận dụng trang 43 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Điều kiện tự nhiên của Trung Quốc cổ đại có những đặc điểm gì nổi bật? Những đặc điểm đó tác động như thế nào đến sự hình thành nền văn minh của quốc gia này?

  • Soạn giải bài 2 phần Luyện tập - vận dụng trang 43 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Trong các thành tựu văn minh Trung Quốc thời cổ đại, em thích nhất thành tựu nào? Vì sao?

  • Trả lời câu hỏi mục 1 trang 40 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Theo em, sông Hoàng Hà và sông Trường Giang đã tác động như thế nào đến cuộc sống của cư dân Trung Quốc thời cổ đại.

Quảng cáo
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch Sử và Địa Lí lớp 6- KNTT - Xem ngay
Báo lỗi - Góp ý

Tần Thủy Hoàng tiêu diệt 6 nước thống nhất thiên hạ, chỉ duy nhất có 1 nước là được "tha", không bị động đến

Xét GDP dựa theo nền nông nghiệp

Trung Quốc từ xa xưa đã là quốc gia coi trọng nông nghiệp nên việc so sánh GDP thông qua nông nghiệp là tương đối hợp lý. Ngoài yếu tố môi trường tự nhiên, nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào đất đai và dân số. Nước chư hầu nào sở hữu 2 yếu tố này càng mạnh thì nền nông nghiệp đương nhiên sẽ càng phát triển.

1. Dân số

Đầu tiên là nhà Tần với dân số khoảng 6 triệu người, một con số khá lớn. Tiếp đó là nước Triệu với dân số khoảng 3 triệu người, và nhà Sở có dân số lớn nhất, đạt khoảng 8 triệu người.

Nhà Hán, Tề và Nguỵ có tổng dân số lần lượt là 2 triệu người, 4 triệu người, 3 triệu người, nước Yên nghe có vẻ yếu thế hơn nhưng vẫn có tới 3 triệu dân số.

Trong danh sách này, có vẻ như nước Sở có lợi thế nhất về dân số, nhà Tần chỉ có thể xếp thứ hai. Còn đối với Triệu quốc, nghe danh hùng mạnh nhưng chỉ có tổng 2 triệu dân.

Dân số nước Tần chỉ xếp thứ 2 trong 7 nước. Ảnh: Sohu

2. Diện tích đất đai

Diện tích đất đai có thể coi là thước đo sức mạnh nông nghiệp quan trọng nhất lúc bấy giờ. Vì dân số quá đông nên nếu đất đai khan hiếm, dân số trong nước sẽ trở nên nghèo đói và không thể phát triển.

Đầu tiên, nước Tần có diện tích khoảng 1 triệu km2, khá rộng lớn, chiếm khoảng 1/7 diện tích Trung Quốc hiện tại. Tiếp đó, nước Triệu với diện tích khoảng 600.000 km2. Sở quốc vẫn chiếm diện tích khủng nhất với con số khoảng 1,5 triệu km2. Nước Yên có diện tích nhỏ nhất chỉ khoảng 150.000 km2 nên luôn lo sợ rằng nước Tần sẽ sớm thôn tính họ.

Đánh giá từ hai dữ liệu này, nước Tần vẫn xếp sau nước Sở. Sở là quốc gia hưng thịnh, có thế mạnh cả về dân số và lãnh thổ trong 7 nước tranh đấu thời bấy giờ.

Video liên quan

Chủ Đề