Vì sao triết học là khoa học của mọi khoa học

Liệu triết học có phải là khoa học không?

08:27 SA @ Thứ Tư - 28 Tháng Tư, 2010
  • Xem thêm: Triết học - chiếc la bàn chỉ hướng cho Thế giới quan

“Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng để cho triết học phát triển tiếp.

Ở mỗi thời, mỗi trường phái triết học đều có những quan điểm khác nhau về triết học.

Khởi thuỷ triết học ở phương Tây có ý nghĩa là yêu thích sự thông thái. Philos [Greek] = theo đuổi, Sophos[Greek] = khôn ngoan. Triết học mang nghĩa là Theo đuổi sự khôn ngoan. Ở thời điểm triết học ra đời thì khoa học theo nghĩa là mộthình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan [bằng hệ thống chân lý về thế giới được diễn đạt bằng các khái niệm, giả thuyết, học thuyết, nguyên lý... thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học đặc thù] vẫn còn chưa xuất hiện.

Trong quá trình phát triển, triết học ngày một đa dạng, phức tạp hơn và thường xuyên biến đổi, có thâm nhập trao đổi qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác: khoa học, nghệ thuật, mỹ học, tôn giáo… Chúng ta có thể nói đến mối quan hệ qua lại giữa khoa học và triết học nhưng có nhiều sách báo, học giả quan điểm đồng nhất chúng với nhau, có nghĩa là: Triết học chính là Khoa học. Chúng ta thường gặp những phát biểu như sau về triết học:“triết học là ngành khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy... “

“Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng để cho triết học phát triển tiếp.

A. Quan điểm coi Triết học không phải là Khoa học cho rằng triết học chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ là khoa học cả.

Việc đồng nhất Triết học là khoa học của khoa học hay là như một ngành khoa học nào đócũng cần phải xem xét lại. Quan điểm này dựa trên 7 đặc điểm khác biệt cơ bản giữa triết học và khoa học:

1. Ở mức độ này hay khác thì tất cả các kết luận của khoa học phải được chứng minh nhờ các sự kiện, quan sát và thực nghiệm. Nhưng triết học lại thờ ơ với việc xác nhận này.

2. Các khẳng định khoa học được kiểm tra một cách kinh nghiệm và có thể bác bỏ bởi thí nghiệm. Nhưng những khẳng định của triết học không được kiểm tra và không bị bác bỏ.

3. Trong mỗi khoa học thường tồn tại một lý luận cơ bản mà ở thời kỳ nhất định phần lớn các nhà khoa học đều ủng hộ lý luận ấy. Ngược lại triết học không có lý luận thống trị mà đa trường phái, đa trào lưu, đa xu hướng.

4. Khoa học sử dụng một cách rộng rãi sự quan sát, đo lường và thực nghiệm. Nó thường hướng đến quy nạp và dựa vào sự khái quát hoá. Nhà triết học thì không , làm quan sát/thí nghiệm, thu thập các sự kiện. Anh ta sử dụng phương pháp tiên đề kiểu toán học, tiên đề không cần những luận chứng thực tế như thực nghiệm.

5. Trong khoa học luôn tồn tại các vấn đề mọi người thừa nhận và cùng khám phá. Còn triết học không có những vấn đề được thừa nhận chung.

6. Mỗi khoa học cụ thể đều có ngôn ngữ đặc thù của ngành mình. Ngôn ngữ chung tạo khả năng trao đổi và thể hiện các kết quả giữa các khoa học gia. Thế còn ngôn ngữ triết học lại không xác định. Mỗi triết gia đều muốn đưa nội dung riêng, ý nghĩa riêng của những thuật ngữ quen thuộc vào khái niệm của mình.

7. Khoa học đem lại cho chúng ta chân lý nghĩa là phản ánh tương ứng hiện thực trong hình thức các khái niệm, định luật và lý luận khoa học. Triết học lại không chỉ phản ánh hiện thực mà còn mô tả việc cải tạo thực tiễn - nên làm thế nào để tốt đẹp hơn... Không thể đặt một mệnh đề triết học vào các sự kiện thực nghiệm với mục đích khẳng định hay bác bỏ nó.

Theo quan điểm này triết học không phải chỉ là khoa học mà nó là hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm về thế giới, về vị trí của mình ở trong thế giới và xã hội. Nét đặc trưng của thế giới quan là ở chỗ cùng với một số khái niệm về thế giới, nó bao hàm cả trong mình mối quan hệ với thế giới, sự đánh giá thế giới từ luận điểm của các giá trị, lý tưởng nào đó...

Những mối quan hệ thế giới quan và sự đánh giá luôn luôn là chủ quan, chúng được xác định bởi những đặc điểm của người mang thế giới quan, bởi vị trí và quyền lợi của người đó trong xã hội... Vậy triết học luôn mang tính cá nhân.

Nếu theo cách nhìn như vậy thì triết gia phải thấy rõ điều quan trọng mô tả được thế giới quan của cá nhân mình. Chúng ta cũng nhìn triết học như lịch sử vận động thế giới quan của các cá nhân. Chúng ta không phải chỉ tìm kiếm những giá trị chung mà hình thành và thể hiện sự nhìn nhận riêng với thế giới, mối quan hệ cá nhân với thế giới...

Quan điểm này giải thích được vấn đề tại sao các quan điểm của cá nhân là khoa học gia hay những người không liên quan đến hoạt động khoa học lại vẫn được coi là quan điểm có “mang tính triết học”. Đó là bởi những quan điểm ấy đóng góp hình thành nên hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm về thế giới cho một cá nhân hay cộng đồng.

Khi đã coi triết học không phải là khoa học, việc còn lại là chúng ta xem xét mối quan hệ giữa chúng với nhau. Có quan điểm cho rằng đó là loại quan hệ chủ thể - khách thể đối lập nhau. Các ngành khoa học như vật lý, hoá học… thể hiện nhân tố đối lập giữa chủ thể và khách thể, sự nhận thức của chúng tất yếu phải loại trừ cái chủ thể trong tri thức. Ngược lại, dù có những sự khác nhau, các học thuyết triết học đều thể hiện nhân tố đồng nhất chủ thể và khách thể.

“Thế giới nhập vào trong cấu trúc của tự ý thức với tư cách là khách thể của chính sự đồng nhất của ý thức”. Bởi thế trong sự nhìn nhận triết học, thế giới gắn bó bên trong với ý thức, cùng với nó tạo nên một chỉnh thể duy nhất thể hiện sự thống nhất bên trong của con người và tự nhiên. Chỉnh thể này tạo nên nội dung của khái niệm tồn tại. Với tư cách là nhân tố của chỉnh thể này, thế giới là đối tượng nhận thức của triết học.

B. Quan điểm ngược lại thì coi Triết học là khoa học, đã là Triết học thì phải mang tính khoa học

Chính Mác và Ăngen đã đặt cơ sở cho triết học khoa học bằng nhận thức duy vật lịch sử. “Nhận thức duy vật quá trình lịch sử làm cho triết học của chủ nghĩa Mác trở thành một khoa học chân chính”.

Triết học có mặt ở trong các tư tưởng bao trùm cả thời đại và sẽ là phi lý khi giả định nó bước qua thời đại ngày nay - thời đại mà tính duy lý khoa học được xem xét như chỉ số của tinh thần. Vậy thời đại của chúng ta phải có triết học mang tính khoa học.

Chúng ta có thói quen coi khoa học là những tri thức phổ biến, khách quan và không mang tính cá nhân. Nhưng đồng nhất tính khoa học với tính phổ biến, chúng ta cũng có thể phủ nhận tính khoa học với các khoa học về hệ thống đang phát triển chừng nào mỗi hệ thống như thể là đơn nhất và tuân theo những quy luật hoạt động và phát triển đặc thù của riêng mình. Chúng ta cũng không thể nào phủ nhận dấu ấn của cá nhân, người sáng tạo trong các hệ thống triết học.

Khi nói rằng thực tiễn lịch sử xã hội là tiêu chuẩn khách quan của tính chân lý trong khoa học và triết học thì cần hiểu thực tiễn trong tính chỉnh thể và sự phát triển của nó.

Tính chân lý là cần thiết nhưng vẫn là tiêu chuẩn chưa đầy đủ của tính khoa học. “Vật lý học hiện đại đã chỉ ra rằng khoa học luôn chứa đựng cả nhân tố chủ quan. Tri thức của khoa học tự nhiên cũng không thoát khỏi quan hệ đánh giá, dù rằng ở đây quan hệ này giữ vai trò nhỏ hơn trong các khoa học xã hội và triết học”

Vậy, triết học thuộc về kiểu khoa học khác mà chỉ bắt đầu được chúng ta suy nghĩ và cho đến nay chưa hiểu đến cùng. Khoa học kiểu này là khoa học về các khách thể mang tính cá biệt... Mục đích của triết học là mong muốn hài hoà thế giới tinh thần của cá nhân với thế giới bên ngoài, là sự tìm kiếm phương thức hài hoà này,,,

C. Quan điểm khác trung hoà quan điểm về quan hệ giữa triết học với khoa học và quan điểm coi triết học là khoa học như sau:“Triết học vừa là khoa học và vừa không là khoa học”.

Triết học là một sự hỗn tạp, nó cần thiết để cân bằng giữa khoa học và không khoa học, bởi nhiệm vụ của nó là gỡ bỏ cái ranh giới ấy!

Đã từ lâu, chúng ta đã xem xét triết học dưới cả 2 dạng tồn tại của nó: như một hình thái ý thức xã hội và như một khoa học.Vậy nên chúng ta chuyển sang tìm hiểu mối quan hệ giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác nhau, trong đó có triết học.

Khoa học có thể lấy bất kỳ hiện tượng nào đó của hiện thực vật chất hay tinh thần thành đối tượng nghiên cứu của mình. Nó nghiên cứu những vấn đề đạo đức, thẩm mỹ và những vấn đề khác của xã hội thuộc về lĩnh vực tinh thần. Nó nghiên cứu cả chính quá trình sáng tạo khoa học nghĩa là nghiên cứu cả chính bản thân mình.

Vậy thì cớ gì nó không nghiên cứu những vấn đề triết học trong đó có những vấn đề thuộc về thế giới quan. Ngay đến đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo có phải là khoa học đâu. Nhưng điều đó đâu có phủ nhận sự tồn tại của đạo đức học, mỹ học và thần học… Nhưng khác với các khoa học này, khoa học triết học không có một cái tên chuyên biệt để phân biệt nó với triết học như một hình thái ý thức xã hội và là đối tượng nghiên cứu của nó. Bởi lẽ sự hình thành triết học như một khoa học theo thời gian gần như trùng với sự hình thành triết học với tư cách một hình thái ý thức xã hội. Vì thế khoa học triết học không có tên riêng mà trộn với hình thái ý thức xã hội tương ứng. Nó cũng giải thích vì sao từ lâu người ta đồng nhất Khoa học với Triết học.

Sự khác biệt có thể phân biệt là hình thái triết học của ý thức xã hội [có thể gọi với một cái tên khác là triết lý] chính là sự hướng ra ngoài, là quá trình thấu hiểu của triết học về thế giới – thế giới quan. Còn khoa học triết học [vẫn thường dùng với cái tên truyền thống là triết học] - đó là sự phản tư triết học hướng đến bản thân mình [đến thế giới quan] hoàn thành vai trò phương pháp luận và là “sự tự nhận thức” của xã hội.

Vậy đấy, thế còn bạn nghĩ sao? Triết học có là khoa học chăng?

Nếu ta nhận thức được rằng,triết học có những yếu tố không mang tính khoa học thì nó sẽ giúp ta thoát khỏi tình trạng giáo điều trong suy tư triết học, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, sáng tạo tri thức triết học. Ngoài phương diện về nhận thức luận ra, triết học còn chứa đựng cả phương diện đánh giá mang tính cá nhân. Giá trị học thể hiện vai trò của tác giả trong việc biện minh, tiếp nhận các quan điểm, các hệ thống triết học khác nhau đối với cá nhân.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:12:26 CH @ 28/04/2010

Mục lục

Tiểu luận môn triết học Triết học HêGhen - Triết học là khoa học của mọi khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [173.57 KB, 10 trang ]

TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 1
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: VÕ NHỰT THANH
MSHV: CH1301054
KHÓA: CH08
TRIẾT HỌC HÊGHEN – TRIẾT
HỌC LÀ K HOA HỌC CỦA MỌI
KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG ĐÀO TẠO SĐH – KHCN & QHĐN
TIỂU LUẬN MÔN:
TRIẾT HỌC

TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
Giới thiệu:
Qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển triết học có nhiều hệ tư tưởng
về triết học khác nhau. Trong đó có hệ tư tưởng của Hêghen [xuất hiện vào cuối
thế kỉ XVIII] được xem là đồ sộ nhất và cuối cùng trong lịch sử về quan niệm
“triết học là khoa học của mọi khoa học”.
Mục đích:
Tìm hiểu sơ qua về quá trình hình thành và phát triển của các hệ tư tưởng
về triết học. Qua đó cho thấy sự đồ sộ và cuối cùng của hệ tư tưởng Hêghen về
“triết học là khoa học của mọi khoa học”.
Bố cục:
I. Tổng quan
1] Quan niệm về triết học
2] Các thời kỳ triết học
II. Nội dung


1] Quan niệm về chủ nghĩa duy tâm
2] Quan niệm về phép biện chứng
3] Tại sao nói Triết học Hêghen – triết học là khoa học của mọi khoa
học – là đồ sộ nhất trong lịch sử?
4] Tại sao nói Triết học Hêghen – triết học là khoa học của mọi khoa
học – là cuối cùng trong lịch sử?
III. Kết luận
IV. Tài liệu tham khảo
Tài liệu sử dụng chính là bài giảng môn học.
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 2
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
I. Tổng quan
1] Quan niệm về triết học
Theo quan niệm truyền thống thì triết học là môn học giúp con người nâng
cao và sử dụng lý trí một cách hiệu quả để hiểu thấu bản chất của vạn vật và
hành động đúng đắn trong thế giới. Còn theo quan niệm Mácxít thì triết học là hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
2] Các thời kỳ triết học
- Thời cổ đại: Ở Trung Hoa, triết học gắn liền với các vấn đề chính trị - xã hội;
ở Ấn Độ, triết học gắn liền với các vấn đề tôn giáo; ở Hy Lạp, triết học gắn liền
với khoa học tự nhiên và được gọi là triết học tự nhiên. Người Trung Quốc coi triết
học là sự truy tìm bản chất, là sự thấu hiểu căn nguyên của sự vật, sự việc; người
Ấn Độ coi triết học là con đường suy ngẫm dẫn dắt đến lẽ phải, đến những chân lý
siêu nhiên [darshana]; còn người Hy Lạp coi triết học là sự ham hiểu biết, yêu
thích sự thông thái [philosophia], do đó nhà triết học được gọi là nhà thông thái, -
người có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của vạn
vật
- Thời trung cổ: Ở Tây Âu, dưới sự thống trị của Giáo hội Thiên chúa giáo,
triết học buộc phải trở thành một bộ môn của thần học. Nhiệm vụ của triết học khi

đó là lý giải và chứng minh tính “đúng đắn” của các nội dung trong Kinh thánh,
củng cố niềm tin tôn giáo, hướng con người đến với Thượng đế…
- Thời phục hưng – cận đại: Trong lòng xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu
sớm hình thành và phát triển mạnh mẽ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
cùng với sự hồi sinh nhanh chóng và sự phát triển rực rỡ của khoa học tự nhiên.
+ Vào thời Phục hưng: Quan niệm coi triết học như “Người mẹ” của các
ngành khoa học xuất hiện vào thời cổ đại, bị quên lãng vào thời trung cổ, bây giờ
được khôi phục lại.
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 3
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
+ Sang đầu thời cận đại: Quan niệm coi triết học như “Người mẹ” của các
ngành khoa học đã phát triển thành quan niệm coi triết học là “khoa học của các
khoa học”. Lý trí triết học và hiểu biết khoa học vượt lên trên lý lẽ thần học và
niềm tin tôn giáo. Do sự ảnh hưởng về nhiều mặt [kinh tế, chính trị, xã hội, khoa
học, văn hóa, tư tưởng] của các nước Anh, Pháp… từ bên ngoài và yêu cầu của
giai cấp tư sản Đức từ bên trong mà triết học cổ điển Đức đã hình thành và phát
triển mạnh mẽ trên lập trường duy tâm. Đỉnh cao của triết học cổ điển Đức là triết
học Hêghen. Hêghen xem triết học của mình là “khoa học của các khoa học”.
Đây là hệ thống triết học - “khoa học của các khoa học” đồ sộ nhất và cuối
cùng trong lịch sử.
+ Cuối thời cận đại. Các cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và thắng lợi ở các
nước Tây Âu tạo tiền đề và cơ sở hiện thực cho khoa học tự nhiên đạt được nhiều
thành tựu nổi bật và phân ra thành các ngành độc lập nhau; Quan niệm coi triết học
là “khoa học của các khoa học” trở nên lỗi thời; Chủ nghĩa thực chứng xuất hiện
kịp thời để hướng dẫn các ngành khoa học phát triển.
- Sang đầu thời hiện đại. Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
và sự phát triển của khoa học tự nhiên, triết học mácxít đã ra đời. Triết học mácxít
đã đoạn tuyệt với quan niệm coi triết học là “khoa học các của khoa học” nhưng
cũng không chấp nhận quan niệm của chủ nghĩa thực chứng về đối tượng, nội
dung và vai trò của triết học. Triết học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của

mình là tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập
trường duy vật và quan điểm thực tiễn; nghiên cứu những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người nhằm cải tạo tự nhiên - xã hội, phục vụ lợi ích cho con người.
- Ngày nay, ở các nước tư bản hiện đại nói riêng, trên toàn hành tinh của chúng
ta nói chung, bên cạnh những thành tựu to lớn do các cuộc cách mạng khoa học -
kỹ thuật trước đây [hiện nay là cách mạng khoa học - công nghệ] mang lại là
những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt: đạo đức, xã hội, môi trường,… do
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 4
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
chúng gây ra. Nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề to lớn đòi hỏi phải giải
quyết. Do vậy đã xuất hiện nhiều trào lưu triết học khác nhau hướng đến giải quyết
các vấn đề không giống nhau; chúng tạo nên dòng thác tư tưởng “triết học phương
Tây hiện đại ngoài mácxít”. Dù dòng triết học này rất đa dạng nhưng chúng ta dễ
nhận thấy trong nó có những trào lưu lớn như: triết học duy khoa học, triết học
nhân bản phi lý tính, triết học tôn giáo, v.v Các trào lưu triết học phương Tây hiện
đại phân tích những đối tượng khác nhau, với những mục đích không như nhau, và
thể hiện lập trường không giống nhau.
II. Nội dung
1] Quan niệm về chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm khẳng định ý thức có trước, sản sinh ra và giữ vai trò
quyết định đối với vật chất, là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên, xã hội. Chủ nghĩa
duy tâm có hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa
duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm thường gắn liền với tôn giáo và là cơ sở
lý luận cho các giai cấp thống trị bảo thủ, phản động trong xã hội.
3] Quan niệm về phép biện chứng:
Phép biện chứng cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới [cả sự vật,
hiện tượng vật chất lẫn sự vật, hiện tượng tinh thần] không tồn tại cô lập, tách
biệt nhau mà là tồn tại trong muôn vàn mối quan hệ, liên hệ lẫn nhau, chúng
không đứng im, bất động mà là luôn vận động, phát triển, chuyển hóa lẫn nhau.

Trong đó, vận động được hiểu là tự vận động, còn phát triển là phát triển tự thân.
Nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển là mâu thuẫn, tức sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tồn tại ở bên trong sự vật. Cách thức
của mọi sự vận động và phát triển là sự chuyển hóa giữa lượng và chất. Còn xu
hướng của mọi sự vận động và phát triển là phủ định của phủ định. Phép biện
chứng là quan điểm xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong
trạng thái vận động, biến đổi không ngừng, với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
Quan niệm coi triết học là “khoa học của các khoa học” là vì vào đầu thời kỳ
cận đại, triết học phát triển nhanh, đồng thời góp phần thúc đẩy các ngành khoa
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 5
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
học tự nhiên phát triển mạnh mẽ; lý trí triết học và hiểu biết khoa học vượt lên trên
lý lẽ thần học và niềm tin tôn giáo.
4] Tại sao nói Triết học Hêghen – triết học là khoa học của mọi khoa học –
là đồ sộ nhất trong lịch sử?
Hêghen là nhà triết học biện chưng duy tâm khách quan - một trong những bộ
óc bách khoa toàn thư vĩ đại nhất trong lịch sử triết học của nhân loại - đã xây
dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan biện chứng nổi tiếng. Do chịu ảnh
hưởng bởi Senlinh mà Hêghen say sưa nghiên cứu triết học, và ông đã trở thành
nhà triết học - bác học vĩ đại nhất, người hoàn chỉnh nền triết học duy tâm biện
chứng cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác. Hêghen đã để lại cho nhân
loại một di sản triết học đồ sộ và rất giá trị. Các tác phẩm chính của ông là Hiện
tượng luận tinh thần, Bách khoa toàn thư các khoa học triết học [gồm 3 quyển:
Khoa học lôgích, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần]
- Hiện tượng luận tinh thần với bốn nền tảng của triết học mới: thừa nhận
tồn tại ý niệm tuyệt đối; thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối; thừa nhận ý
thức con người là sản phẩm của lịch sử; triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt
đối.
- Khoa học lôgích: Khoa học lôgích nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai
đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ thống. Khi vạch ra những hạn

chế của lôgích học cũ. Hêghen khởi thảo một lôgích học mới giúp vạch ra bản
chất đích thực của tư duy, và đóng vai trò như một phương pháp luận triết học
làm cơ sở cho mọi khoa học. Hêghen coi lôgích học là khoa học về những phạm
trù và quy luật của tư duy, nhưng tư duy mà lôgích học nghiên cứu là tư duy
thuần túy, tức ý niệm tuyệt đối trong chính nó hay Thượng đế. Trong tư duy mọi
cái đối lập [vật chất - tinh thần, khách thể - chủ thể, tư tưởng - hiện thực ] đều
thống nhất. Phép biện chứng phải là một linh hồn uyển chuyển của lôgích học; và
lôgích học phải là một cơ thể sống động, chứ không phải là tổng những phạm trù
sơ cứng. Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa
lượng và chất. Trong học thuyết về bản chất, Hêghen bàn về bản chất - hiện
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 6
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
tượng - hiện thực, nghĩa là bàn về sự tự vận động phát triển của các phạm trù:
đồng nhất - khác biệt - đối lập - mâu thuẫn, bản chất - hiện tượng, nội dung -
hình thức, khả năng - hiện thực, nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực.
Trong học thuyết về khái niệm, Hêghen bàn về sự tự vận động phát triển của ý
niệm tuyệt đối thông qua các hình thức tồn tại chủ quan của nó như khái niệm –
phán đoán – suy luận, bàn về thực tiễn, về chân lý hay ý niệm – sự thống nhất
giữa khái niệm và thực tiễn. Hêghen hiểu sự phát triển của lôgích học nói chung,
tư duy - đối tượng của nó nói riêng, là một quá trình biện chứng.
- Triết học tự nhiên: Đây là học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là
một dạng tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất. Hêghen
cho rằng, quá trình hình thành giới tự nhiên từ ý niệm tuyệt đối đồng thời cũng là
quá trình ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Những
hình thức chủ yếu của ý niệm tuyệt đối tồn tại dưới dạng giới tự nhiên là cơ học,
vật lý học, sinh thể học.
- Triết học tinh thần: Hêghen xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn cuối
cùng trên con đường diễu hành nơi trần gian, từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự
tha hóa, quay về lại chính mình như thế nào. Triết học tinh thần bao gồm học
thuyết về tinh thần chủ quan, học thuyết về tinh thần khách quan và học thuyết về

tinh thần tuyệt đối. Hêghen cho rằng, triết học của ông [học thuyết về tinh thần
tuyệt đối] là sự tổng hợp toàn bộ giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước đó,
thuộc mọi lĩnh vực nghiên cứu hoạt động tinh thần của con người; do đó, nó là
“khoa học của mọi khoa học”. Trong triết học này ý niệm tuyệt đối đã hoàn thành
quá trình nhận thức của mình, đã khám phá ra chính mình, và quay trở về với
mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Vì vậy, tinh thần tuyệt đối là kết quả
tối cao, toàn diện và triệt để của toàn bộ lịch sử thế giới. Nếu Triết học tự nhiên
có nhiều điểm yếu thì Triết học tinh thần là một thành tựu to lớn của triết học
Hêghen. Xét về thực chất, đây là học thuyết duy tâm bàn về sự phát triển ý thức
cá nhân và ý thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ, lý tính con người. Ở đây,
ông đã lý giải tiến trình phát triển xã hội theo tinh thần duy tâm.
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 7
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
Nhận xét chung về hệ thống triết học Hêghen: thế giới quan duy tâm là thế
giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung triết học Hêghen: Mọi sự vật, quá trình dù
là vật chất hay tinh thần đều là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Phép biện chứng
là linh hồn sống động của hệ thống triết học Hêghen thể hiện ở tư tưởng về mối
liên hệ phổ biến và tư tưởng về sự phát triển. Dù có nhiều hạn chế không nhỏ
nhưng thành tựu mà triết học Hêghen mang lại - phép biện chứng tư duy - một
cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân loại. Triết học Hêghen là một
cội nguồn của triết học Mác. Cứu lấy phép biện chứng, giải phóng hạt nhân biện
chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của Hệ thống Hêghen là một yêu cầu cấp
bách của triết học mà sau này Mác đã thực hiện. Khi cải tạo phép biện chứng duy
tâm Hêghen theo tinh thần duy vật của triết học Phoiơbắc, Mác đã xây dựng phép
biện chứng duy vật – phép biện chứng của sự vật - thế giới khách quan, mà phép
biện chứng của ý niệm chỉ là hình ảnh biện chứng trong bộ óc con người phản
ánh phép biện chứng của sự vật - thế giới khách quan.
5] Tại sao nói Triết học Hêghen – triết học là khoa học của mọi khoa học –
là cuối cùng trong lịch sử?
- Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác đã coi “triết

học là khoa học của mọi khoa học”. Hệ thống triết học là khoa học của mọi khoa
học đồ sộ nhất, chặt chẽ nhất, hợp lý nhất và cuối cùng trong lịch sử là hệ thống
triết học Hêghen đã bị phê phán mạnh mẽ.
- Sự ra đời triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm coi triết học là khoa
học của mọi khoa học, nhưng đồng thời cũng không cho phép chủ nghĩa thực
chứng cô lập, tách triết học ra khỏi khoa học cụ thể. Khi xác định đúng đối tượng
của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy, triết học Mác không những không tách rời, mà trái lại, nó đòi hỏi phải thực
hiện mối liên hệ mật thiết, đúng đắn giữa triết học với các khoa học chuyên ngành.
Bởi vì, sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác nhau trong việc nghiên cứu
thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của
triết học. Mặt khác, những kết luận của triết học trở thành cơ sở thế giới quan khoa
học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của các lĩnh vực khoa học.
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 8
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu của các khoa
học về tự nhiên và xã hội là tiền đề, cơ sở khoa học cho hệ thống phạm trù, quy
luật triết học; đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết học định
hướng cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau.
- Không có triết học duy vật biện chứng khoa học hiện đại không thể có
những bước tiến dài và vững chắc. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay
càng chứng minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên
con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 9
TRIẾT HỌC HÊGHEN – KHOA HỌC CỦA MỌI KHOA HỌC
III. Kết luận:
Với một hệ thống triết học tương đối hoàn chỉnh, với tri thức bách khoa,
kiến thức uyên bác và thiên tài của mình, Hêghen trở thành nhà triết học lớn nhất
thời bấy giờ. Học thuyết của ông khép lại một giai đoạn phát triển triết học đầy sôi
động, đồng thời mở ra một giai đoạn cách mạng mới trong lịch sử triết học - giai

đoạn gắn tư tưởng triết học với thực tiễn cách mạng.
IV. Tài liệu tham khảo:
[1] Các slide bài giảng của Thầy.
[2] Tài liệu về “Đại cương lịch sử Triết học”.
HVTH: VÕ NHỰT THANH – CH1301054 GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA Trang 10

Về vấn đề tính khoa học của triết học, một hình thái ý thức xã hội

08/05/2020

HỒ SĨ QUÝ

GS.TS., Viện Thông tin Khoa học Xã hội,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3 [447] 2020

Tóm tắt

Từ khoảng giữa thế kỷ XX, triết học được tranh cãi liệu nó có phải là một khoa học hay không. Trước đó, vấn đề này gần như không được đặt ra. Bởi lẽ, từ trong lịch sử đến tận ngày nay, triết học luôn được thừa nhận là một hình thái ý thức xã hội và giá trị không thể thay thế của triết học là ở đó. Người ta không coi triết học là một khoa học ngang hàng [cùng loại] với các khoa học khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học không luận giải một cách khoa học về thế giới. Triết học nào cũng cố gắng sử dụng những thành tựu khoa học để khái quát luận thuyết của mình thành một mô hình lý tưởng nhằm giải thích mọi hiện tượng trong thế giới và định hướng cho hành vi. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học khác còn biểu hiện ở sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế giới và định hướng cho hoạt động của con người.

Từ khóa: Hình thái ý thức xã hội; Khoa học; Triết học; Triết học Mác-Lênin,

1. Đặt vấn đề

Tại hầu khắp các trường đại học trên thế giới, triết học đều có mặt trong bảng phân loại các bộ môn tri thức cần được giảng dạy, nghiên cứu. Bắt đầu từ Aristotle, truyền thống văn hóa phương Tây đã dần coi triết học là một loại tri thức nền tảng không thể thiếu đối với mọi tư duy duy lý, đặc biệt là tư duy khoa học. Ở trình độ tiến sỹ khoa học [Doctor of Sciences, Doctor Habilitatus], nhà khoa học chuyên ngành còn được xem tương đương là nhà triết học, nhà tư tưởng. Nghĩa là vị thế của triết học trong đời sống trí tuệ nhân loại chưa bao giờ là cái phải nghi ngờ. Mặc dù vậy, cũng theo truyền thống văn hóa phương Tây, tuyệt nhiên không mấy ai coi triết học là khoa học, kiểu như toán học, vật lý học, kinh tế học hay xã hội học... Triết học trong quan niệm phương Tây, không phải là khoa học thực chứng [Positivist Science], mà là một loại hình thế giới quan và phương pháp luận giải thích nguyên nhân và dẫn đường. Sự kiểm chứng đối với triết học giống như sự kiểm chứng đối với các tiên đề [Axioms], nghĩa là gần như buộc phải thừa nhận trong khi rất khó chứng minh.

Những điều vừa nói có nghĩa rằng, ở phương Tây, từ thời cổ đại tới tận ngày nay triết học vẫn luôn được coi là một hình thái ý thức xã hội, tức là một loại hình tri thức đặc thù, dẫn dắt toàn bộ tư duy và hành động, thiết yếu và quan trọng như tôn giáo, chứa đựng vô vàn tri thức đã và chưa được kiểm chứng. Nhưng triết học không phải là khoa học để có thể lặp lại bằng các thí nghiệm.

Với Marx, Engels và Lênin, triết học cũng đương nhiên là một hình thái ý thức xã hội.

Ở Việt Nam, trước năm 2008 triết học được xếp vào các khoa học xã hội. Từ năm 2008 đến nay, theo bảng phân loại khoa học mà Bộ KH&CN ban hành năm 2008 và được khẳng định lại từ năm 2012, triết học được xếp vào các khoa học nhân văn [Humanities]. Tại bảng phân loại không mấy hợp lý này, khoa học xã hội cũng chỉ là một trong sáu ngành khoa học được công nhận ở Việt Nam, ngang bằng với nông nghiệp hay y dược[1].Vấn đề đặt ra là, do đương nhiên có mặt trong bảng phân loại các bộ môn tri thức cần được giảng dạy và nghiên cứu, từ khoảng giữa thế kỷ XX, triết học lại được tranh cãi liệu nó có phải là một khoa học hay không. Với triết học Mác – Lênin, một vài giáo trình trước đây cũng đã từng viết “Triết học là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy”[2].

2. Triết học trong quan niệm của Marx, Engels và Lênin

Để hiểu thêm về vấn đề, chúng tôi thấy cần thiết phải trở lại với những tư tưởng của chính các tác gia kinh điển, để xem các ông đã phát biểu những gì về triết học.

Hóa ra, K. Marx, F. Engels và V.I. Lênin không xác định triết học là gì với tính cách là một định nghĩa. Những phát biểu trực tiếp về triết học ở các ông [mà dưới đây chúng tôi sẽ trích lại để lý giải vấn đề] cũng rất ít. Còn triết học có phải là một khoa học tương tự các khoa học cụ thể hay không, thì ở thời K. Marx - F. Engels và ngay cả ở thời V.I. Lênin, vấn đề hầu như chưa được đặt ra. Nhiều khoa học chuyên ngành mới chỉ không lâu trước đó vẫn còn thuộc về triết học [mà F. Engels gọi là “siêu hình học” và “nền triết học tự nhiên cũ”]. Điều đó không làm cho triết học phải hoài nghi và tự vấn về tư cách khoa học của nó. Lúc bấy giờ khoa học xã hội cũng chỉ vừa mới được hình thành [cùng với quan niệm thực chứng của Auguste Comte, 1830[3].

Nghĩa là người ta quan tâm nhiều đến tính hữu ích của triết học khi nó đóng vai trò là một hình thái ý thức xã hội, luôn cung cấp kịp thời cho con người những chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận; không nhất thiết phải biết nó phù hợp đến mức nào với các dữ liệu khoa học [mà khoa học thì thời nào cũng “bất khả tri” trước không ít vấn đề].

Dù không đưa ra định nghĩa, nhưng quan niệm của các tác gia kinh điển về triết học đã được các tác giả hậu thế giải thích trong các tài liệu giáo khoa. Theo chúng tôi, các giáo trình triết học Mác - Lênin về sau giải thích đều không có gì sai với quan niệm của Marx, Engels và Lênin, với những nội dung chủ yếu thường được trình bày, gồm: i]. Triết học là một hình thái ý thức xã hội. ii]. Triết học hướng đến một cái nhìn toàn vẹn về thế giới, về con người và vị trí của con người trong thế giới đó. iii]. Khách thể khám phá của triết học là thế giới [gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người]. iv]. Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quan hệ của thế giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy. v]. Với tính cách là loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa học và khác biệt với tôn giáo, tri thức triết học mang tính hệ thống, toàn diện, lôgíc và trừu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại. vi]. Triết học là hạt nhân của thế giới quan.

Không nên quên rằng, Karl Marx được nhắc đến trong lịch sử tư tưởng nhân loại nhiều nhất không phải là một nhà triết học mà là một nhà cách mạng. Được đào tạo bài bản để trở thành một triết gia, nhưng ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Bonn, Marx lại hướng sự say mê của mình tới kinh tế và chính trị, trên cơ sở đó mà suy tư triết học.Ngoài những tác phẩm đầu tiên thời trẻ, từ sau những năm 50 thế kỷ XIX các tác phẩm của ông đều không trực tiếp bàn đến triết học. Mặc dù vậy, triết học Marx lại định hình chủ yếu sau thời Marx trẻ [Young Marx], đặc biệt là Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội. Chúng tôi đã trở lại tương đối kỹ với các tác phẩm kinh điển và có đủ cơ sở để thấy rằng, trực tiếp bàn về triết học các tác gia kinh điển viết không nhiều:

2.1. Triết học là tinh hoa về mặt tinh thần của mỗi thời đại

K. Marx viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”[4].

2.2. Triết học là linh hồn sống của văn hóa

K. Marx viết: “Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình… Triết học đã có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa...” [5].

Chẳng hạn, với triết học Cổ điển Đức, Chủ nghĩa duy vật Pháp, K. Marx và F. Engels xác nhận rằng, “ngay cả chủ nghĩa cộng sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp” [6]. Và, “nếu trước đó không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hegel, thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học tồn tại từ trước đến nay” [7].

2.3. Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới

Marx viết: “Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới, cũng như bộ óc không tồn tại bên ngoài con người”[8]. Nhưng triết học cũng không ra đời trong một xã hội còn mông muội dã man. Nghĩa là, triết học chỉ có thể ra đời khi, nhà nước, công cụ trấn áp và điều hòa lợi ích giai cấp đủ trưởng thành, “từ chỗ là tôi tớ của xã hội [nhà nước] biến thành chủ nhân của xã hội” [9].

Đồng thời, triết học cũng chỉ xuất hiện khi kho tàng thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định mà trên cơ sở đó, tư duy con người đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay. Trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định[10].

2.4. K. Marx và F. Engels hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy vật

Theo V.I. Lênin, “Bắt nguồn từ Feurbach và trưởng thành trong cuộc đấu tranh chống những tiểu tác gia nên lẽ tự nhiên là Marx và Engels chú ý nhiều nhất đến việc hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy vật, tức là chú ý nhiều nhất đến quan niệm duy vật lịch sử, chứ không phải đến nhận thức luận duy vật. Vì thế, trong những tác phẩm bàn về chủ nghĩa duy vật biện chứng, hai ông nhấn mạnh mặt biện chứng hơn là mặt duy vật; khi bàn về chủ nghĩa duy vật lịch sử, hai ông nhấn mạnh mặt lịch sử hơn là mặt duy vật” [11].

2.5. Chủ nghĩa duy vật hiện đại do Marx sáng lập ra, có nội dung vô cùng phong phú, có tính chất vô cùng triệt để, hơn tất cả mọi hình thức trước kia của chủ nghĩa duy vật

V.I. Lênin đánh giá: “Ngay từ 1843, lúc mà Marx chỉ mới đang trở thành Marx, nghĩa là trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội, với tính cách là một khoa học, trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật hiện đại, có nội dung vô cùng phong phú hơn và có tính chất vô cùng triệt để hơn tất cả mọi hình thức trước kia của chủ nghĩa duy vật, thì Marx đã vạch ra một cách hết sức rõ ràng những đường lối căn bản trong triết học… Thiên tài của Mác và Ăng-ghen chính là ở chỗ, trong một thời kỳ rất dài - gần một nửa thế kỷ - hai ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật, đã đẩy một khuynh hướng cơ bản của triết học tiến lên phía trước; đã không quanh quẩn ở chỗ chỉ lặp lại những vấn đề nhận thức luận đã được giải quyết, mà đã triệt để áp dụng cũng chủ nghĩa duy vật ấy và chỉ vẽ cách áp dụng chủ nghĩa duy vật ấy vào lĩnh vực khoa học xã hội như thế nào”[12].

2.6. Cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng

V.I. Lênin viết: “Như Marx và Engels đã tuyên bố nhiều lần, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một chủ nghĩa đã hoàn toàn hấp thụ những truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII ở Pháp và của Feurbach ở Đức nửa đầu thế kỷ XIX” [13].

2.7. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học

Theo V.I.Lênin, “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và tuỳ tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát tiển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn” [14].

2.8. Giống như Darwin đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người

F. Engels nhận định: “Giống như Darwin đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp những tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. ; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất tực tiếp và do đó, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại, tạo thành một cơ sở trên đó người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của những con người nhất định và vì vậy phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm” [15].

2.9. Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia

“Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, hay nói cho đúng hơn, việc áp dụng, việc vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực những hiện tượng xã hội, đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia. Một là, những lý luận này cùng lắm thì cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng của hoạt động lịch sử của con người, mà không nghiên cứu căn nguyên của những hiện tượng đó, không phát hiện ra tính quy luật khách quan trong sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không thấy rằng trình độ phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của những quan hệ ấy. Hai là, những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác như khoa học tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy”[16].

3. Triết học là hình thái ý thức xã hội và tính khoa học của tri thức triết học

Như vậy, với tính cách là một loại hình tri thức lý luận đặc thù xuất hiện sớm, đảm nhận chức năng xã hội không thể thay thế trong lịch sử nhận thức và hoạt động thực tiễn, và ngay cả khi triết học còn chứa đựng trong nó tất cả mọi thành tựu của nhận thức, loại hình tri thức đặc biệt này đã tồn tại và được thừa nhận rộng rãi là một hình thái ý thức xã hội. Cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần bậc cao, có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa đặc biệt phổ quát, giúp con người nhìn nhận và đánh giá đối tượng xuyên qua tất cả các dữ liệu cảm tính và lý tính, từ đó đưa ra mô hình [bức tranh toàn thể] giải thích và định hướng cho mọi đối tượng nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đến tận thế kỷ XVII, vị thế này của triết học vẫn bao trùm gần như toàn bộ nhận thức. Toán học, cơ học, thiên văn học… là những ngành tri thức đầu tiên tách ra từ triết học để dần xác lập vị thế của các bộ môn khoa học độc lập. Đến thế kỷ XVII, các Viện hàn lâm khoa học ở Đức, Pháp được thành lập. Từ giữa thế kỷ XIX, các khoa học xã hội và nhân văn mới xuất hiện.

Ngày nay, mỗi bộ môn tri thức được thừa nhận là khoa học khi nó có đối tượng riêng, có phương pháp nghiên cứu riêng; có hệ thống các khái niệm, phạm trù riêng và thỏa mãn được những điều kiện: Thực chứng hoặc Lý tính; Không mâu thuẫn; Thực tiễn - Kinh nghiệm; Độ tin cậy của các thực nghiệm; Có hiệu lực phổ biến [liên chủ thể]; Hệ thống [Evidence or Rationality; Consistency; Empirical [Experimental, Practical; The Credibility of Empirical material; General Validity [Intersubjectivity]; Systematicity [Integrity, Coherence][17].

Có nhiều học phái triết học tự nhận mình là khoa học và triết học nào cũng có tham vọng đạt tới lý luận khoa học về thế giới. Nhưng thực ra, tất cả các luận thuyết, quan điểm triết học đều là cái được lựa chọn để ứng dụng. Việc kiểm chứng [các luận thuyết, quan điểm triết học đó] thường vô cùng khó và chỉ được thực hiện trong các phạm vi rất hạn chế nên hầu như không đủ để đánh giá. Đây cũng là một đặc điểm của tư duy triết học. Với sức mạnh của chức năng định hướng và giải thích, các học thuyết triết học [một khi đã được con người thừa nhận là thế giới quan và phương pháp luận của mình] đều có đóng góp nhất định cho sự hình thành tri thức và là những “vòng khâu”, những “mắt khâu” trên “đường xoáy ốc” vô tận của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Trình độ khoa học của một triết thuyết phụ thuộc vào lịch sử ứng dụng hiệu quả của nó trong thực tiễn với sự phát triển của hệ thống tri thức và hệ thống phương pháp nghiên cứu khám phá đối tượng nghiên cứu.

Trong đời sống xã hội, triết học trước hết và bao giờ cũng là một hình thái ý thức xã hội. Nghĩa là, việc sắp xếp triết học trong bảng phân loại khoa học không nhất thiết là thừa nhận tư cách khoa học của triết học. Là loại hình tri thức đặc biệt của con người, triết học nào cũng có tham vọng xây dựng nên bức tranh tổng quát nhất về thế giới và về con người. Nhưng khác với tông giáo, loại hình tri thức xây dựng thế giới quan dựa trên niềm tin và quan niệm tưởng tượng về thế giới, triết học sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn lôgíc và những kinh nghiệm mà con người đã khám phá thực tại, để diễn tả thế giới và khái quát thế giới quan bằng lý luận. Tính đặc thù của nhận thức triết học thể hiện ở đó[18].

Triết học khác với các khoa học cụ thể ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Tri thức này dựa vào 5 nguồn chính: i]. Tổng kết thực tiễn; ii]. Thừa nhận thành tựu khoa học; iii]. Cảm nhận cảm tính; iv]. Phán đoán lý tính; và v]. Sự linh cảm trực giác, “siêu phàm” của nhà triết học. Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi triết học dựa trên cơ sở tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học.

Như đã trình bày ở trên, ngay từ khi xuất hiện trong đời sống tri thức nhân loại, triết học đã tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo thời kỳ trước đó đảm đương vai trò thế giới quan và phương pháp luận dẫn dắt con người nhận thức và chinh phục thế giới bí ẩn xung quanh.

Nói đến các hình thái ý thức xã hội là nói đến loại hình tinh thần đương nhiên tồn tại trong đời sống xã hội, là cái không thể thiếu khi con người sống thành xã hội. Hình thái ý thức xã hội đảm nhận chức năng xã hội về nhận thức, về tư duy, về tình cảm và tâm lý… giúp cho đời sống con người diễn ra một cách bình thường theo quy luật. Ý thức xã hội chắc chắn là phong phú và đa dạng hơn cả tồn tại xã hội, do phản ánh tồn tại xã hội bằng các phương thức sáng tạo mà chỉ trong tư duy mới có. Tư duy phản ánh hiện thực nhưng tư duy lại có khả năng đẻ ra tư duy. Sản phẩm sáng tạo của tư duy, ý thức… do vậy, vô cùng phong phú và từ đó giới tự nhiên thứ hai là văn hóa đã xuất hiện.

Nói điều này chúng tôi muốn lưu ý rằng, trong khi bản thân ý thức xã hội vô cùng phong phú và đa dạng với nhiều trình độ khác nhau, thì các hình thái ý thức xã hội lại tồn tại hữu hạn với các hình thái rất xác định. Đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, chính trị, pháp lý, khoa học và triết học…. là các hình thái ý thức xã hội được trí tuệ con người khái quát qua sự sàng lọc của thời gian. Và do vậy, chúng là những mặt cơ bản của đời sống tinh thần của con người.

Nếu tôn giáo là hình thái ý thức xã hội dựa trên niềm tin vào cái siêu nhiên, bao gồm niềm tin thiêng liêng, xúc cảm thăng hoa, hành động vượt ra ngoài sự kiềm chế của lý trí, thì hình thái ý thức triết học lại là cấp độ lý luận về thế giới quan, về phương pháp luận đảm nhận chức năng giải thích và định hướng cho con người sống, lao động và sáng tạo. Triết học và tôn giáo là hai hình thái ý thức giống nhau về đối tượng khái quát và chức năng định hướng đối với đời sống con người, nhưng khác nhau về cách thức và phương pháp chỉ dẫn nhận thức và hành vi. Tôn giáo trang bị cho con người thế giới quan tin tưởng để hoạt động. Trong khi đó triết học trang bị cho con người thế giới quan hoài nghi để tỉnh táo khám phá thế giới. Tính hiệu quả của hai loại thế giới quan này không dễ đánh giá trong thực tiễn đời sống. Bởi thế không có gì khó hiểu khi nhiều nhà khoa học trong khi tin ở Chúa lại vẫn có những sáng tạo có giá trị.

Theo chúng tôi, khi thừa nhận quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx về triết học, thì cũng hoàn toàn có thể đồng ý với Bertrand Russell khi ông khẳng định, triết học là cái trung gian giữa tôn giáo và khoa học. Nghĩa là, triết học là lý luận về các vấn đề mà tri ​​thức khoa học thì chưa đủ để chứng minh, còn tôn giáo thì lại quá tự tin để một chiều khẳng định. Những vấn đề triết học mà Bertrand Russell xác định, gồm: i]. thế giới tâm và vật [Mind and Matter]; ii]. sự thống nhất và vấn đề mục đích của vũ trụ [Universe unity or purpose]; iii]. quy luật của tự nhiên còn tồn tại thực hay không, hay con người tin vào sự tồn tại khách quan đó “chỉ vì tình yêu trật tự bẩm sinh của chúng ta” [Are there really laws of nature, or do we believe in them only because of our innate love of order]? – thực chất là vấn đề về tính khách quan của các quy luật; iv]. vấn đề nguồn gốc con người và loài người?; v]. vấn đề giá trị và ý nghĩa của đời sống và tiến bộ xã hội; vi]. vấn đề về sự tồn tại của Chúa[19]. Theo Russell, nghiên cứu những vấn đề này là “công việc của triết học” [The studying of these questions, is the business of philosophy]. Quan niệm của B. Russell một lần nữa khẳng định tư cách hình thái ý thức xã hội của triết học, khám phá những vấn đề vĩnh cửu của triết học, cho dù mai sau triết học có phát triển đến trình độ nào. Tại hầu khắp giảng đường các trường đại học Phương Tây, tư tưởng của B. Rusell về triết học được coi là điều không thể không biết.

Tính chất thế giới quan của ý thức triết học trong nghiên cứu 6 vấn đề mà Rusell phác họa là ở chỗ, trước hết chúng là những vấn đề mà chỉ triết học mới có thẩm quyền giải quyết. Các khoa học khác ở mỗi thời điểm nhiều lắm cũng chỉ giải quyết được một phần vấn đề đặt ra. Còn tôn giáo lại khẳng định hoặc phủ định chúng một cách thiếu căn cứ. Thứ hai, chúng là những vấn đề vĩnh cửu, vì thời nào những vấn đề này cũng đều mang tính thời sự, con người muốn tồn tại và phát triển đều không thể lảng tránh, nhưng tại mỗi thời kỳ, trí tuệ con người chỉ có thể góp thêm luận cứ, bằng chứng và kiến giải bằng trình độ khoa học của thời đại mình. Và cuối cùng, nếu khoa học giải quyết được triệt để một vấn đề nào đó trong số 6 vấn đề trên, thì vấn đề đó không còn là vấn đề triết học nữa.

Thực ra quan niệm về triết học là khoa học xuất hiện và gây tranh cãi nhiều hơn trong giới triết học Mácxít, khi ai đó đã mở rộng quan niệm về phép biện chứng sang toàn bộ triết học. Trong “Chống Duhrin” F. Engels viết: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”[20]. Theo chúng tôi, vấn đề là ở chỗ, triết học cũng nghiên cứu những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy, nhưng triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới, còn phép biện chứng lại là hệ thống các nguyên tắc chung nhất về vận động. Và đó là lý do tại sao Engels gọi nó “chẳng qua chỉ là khoa học…”.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, triết học hay phép biện chứng thì cũng đều là lý luận triết học. Khi Engels gọi phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học, thì thuật ngữ “khoa học” ở đây cũng không nên hiểu phép biện chứng như là vật lý học hoặc toán học. Nghĩa là trong quan niệm của chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx, tính chất khoa học của triết học không hề biến triết học thành một khoa học chuyên biệt ngang hàng và tương đương với các khoa học chuyên ngành cụ thể. Trong các tác phẩm của các ông, cho tới nay cũng chưa ai tìm thấy triết học được các ông gọi là “khoa học”.

Việc đề cao triết học Mác - Lênin bằng cách coi đó là triết học duy nhất khoa học [như đây đó đã từng diễn ra] trên thực tế lại đã vô tình hạ thấp vai trò của nó. Triết học Mác - Lênin cũng giống như tất cả các học phái triết học uy tín khác, trước hết thuộc về hình thái ý thức triết học. Không nhất thiết và không cần thiết phải đề cao triết học, dù là triết học Mác – Lênin, bằng cách coi nó là một trong các khoa học xã hội.

Cần thiết phải nói thêm rằng, nền khoa học hiện đại được coi là bắt đầu từ thế kỷ XVI, với thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus, có cơ sở triết học của nó là Chủ nghĩa duy vật: tìm ra các quy luật của thế giới vật chất, lấy các quy luật đó làm cơ sở để giải thích tất cả những điều còn lại của thế giới, từ tự nhiên đến con người và tư duy. Dựa trên các bằng chứng có thể thực nghiệm được, khoa học đã khẳng định tính hợp lý của các quan điểm về thế giới. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa duy vật khoa học, do vậy đã thống trị trong giới học thuật suốt từ đó đến nay. Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng lớn, khoa học duy vật hiện đại vẫn chưa thể giải thích được một cách thấu đáo những vấn đề về tinh thần, tâm linh - cái rất căn bản tạo nên cuộc sống đầy ý nghĩa nhưng vô cùng phức tạp của đời sống con người và của các dân tộc. Đó chính là lý do mà nhiều nhà khoa học trên thế giới từ ngày 7-9 tháng 2/2014, đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh quốc tế về khoa học hậu duy vật [Post-Materialist Science] tại Arizona, Mỹ. Mục đích của hội nghị là đánh giá tác động của hệ tư tưởng duy vật trong khoa học [Materialist Ideology on Science] và đề xuất mô hình hậu duy vật [Post-Materialist Paradigm] để mở đường cho khoa học về tâm linh và xã hội phát triển mạnh hơn trong tương lai. Kết thúc hội nghị, các nhà khoa học đã công bố “Tuyên ngôn về Khoa học hậu duy vật”. Đến nay [2020], ngoài 8 tác giả sáng lập, hơn 300 nhà khoa học có uy tín trên thế giới đã ký bản Tuyên ngôn này[21].

Kết luận

Triết học là một hình thái ý thức xã hội và giá trị của triết học là ở đó. Triết học không phải là một khoa học ngang hàng với các khoa học xã hội khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học không luận giải một cách khoa học về thế giới. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học cụ thể còn biểu hiện ở sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế và giới định hướng cho hoạt động của con người.

Tài liệu trích dẫn

[1] Xem: QĐ số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 04/09/2008 của Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc ban hành bảng phân loại thống kê KH&CN. //www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/361/bang-phan-loai-va-danh-muc-chuan.aspx.

[2] Xem: 1]. Russell, Bertrand [1945], A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day, Pub. Simon & Schuster, Allen & Unwin. 2]. Friedland, Julian [2012], Philosophy Is Not a Science, //www.academia.edu/8218744/Philosophy_is_Not_a_Science 3]. Покровская, Т. П. Научно-теоретическая конференция “Философия и наука” Вестник РФО. № 4; [Hội thảo “Triết học và Khoa học”. Bản tin Hội Triết học Nga] 4]. Марков, B. C. [2006], Философия как наука [Triết học với tính cách là Khoa học. Bản tin Hội Triết học Nga], Вестник РФО. № 1. 5]. Рута, В. Д. [2003], Наука или ненаука? [Khoa học hay không phải khoa học. Bản tin Hội Triết học Nga] Вестник РФО. № 4. 6]. Зорина, Е. В., Рахманкулова, Н. Ф. и др. [2004], Философия в вопросах и ответах: учеб. пособие / под ред. А. П. Алексеева, Л. Е. Яковлевой. М., [Triết học hỏi và đáp. Chủ biên: А. П. Алексеева, Л. Е. Яковлевой] 7]. Губанов, Н. И. [2008], Является ли философия наукой?, [Triết học có phải là khoa học] “Философия и общество” №1 [49] //www.socionauki.ru/journal/articles/130024/.

[3] Xem: Auguste Comte [2012], Cours de philosophie positive, Edition numérique : Pierre Hidalgo. La Gaya Scienza, © décembre 2012. //www.ac-grenoble.fr/PhiloSophie/old2/file/comte_khodoss.pdf.

[4] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 156.

[5] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, t.1. Sđd. tr. 157.

[6] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, t.2. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 200.

[7] K. Marx, F. Engels [1995]. Toàn tập, t.18. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 698.

[8] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, tập 1, Sđd. tr. 156.

[9] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, tập 22, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 288.

[10] Vào thế kỷ VII - V TrCN, giáo dục và nhà trường đã hoạt động khá chuyên nghiệp. Tầng lớp quý tộc, tăng lữ, điền chủ, nhà buôn, binh lính… đã chú ý đến việc học hành. Tri thức toán học, địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật, y học… đã được giảng dạy. Xem: Michael Lahanas. Education in Ancient Greece. //www.hellenicaworld.com/Greece/Ancient/en/AncientGreeceEducation.html

[11] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 18, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 408.

[12] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 18, Sđd. tr. 417.

[13] V.I. Lênin [1979], Toàn tập, t. 17. Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 510.

[14] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 23, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 53.

[15] K. Marx, F. Engels, Toàn tập, t.19. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 499-450.

[16] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 23, Sđd. tr. 68.

[17] See: Machamer, Peter and Michael Silberstein [2002], The Blackwell Guide to the Philosophy of Science. Blackwell Publishers Ltd, First published. Massachusetts, USA. //pages.wustl.edu/files/pages/imce/cfcraver/struct_scientif_theories_0.pdf

[18] Xem: ИФ, РAH [2001]. Новая философская энциклопедия [Bách khoa thư Triết học mới]. c. 195.

[19] [Is there such a thing as wisdom, or is what seems such merely the ultimate refinement of folly?] Xem: Russell, Bertrand [1945], A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day, Pub. Simon & Schuster, Allen & Unwin. c. 9.

[20] K. Marx, F. Engels [1994], Toàn tập, t. 20, Sđd. tr. 201.

[21] Xem: Manifesto for a Post-Materialist Science. //opensciences.org/about/manifesto-for-a-post-materialist-science.

Nguồn:Tạp chíThông tin Khoa học xã hội,số 3 [447] 2020

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Triết học là gì? Nguồn gốc, Vai trò & Các vấn đề cơ bản của Triết học

Chắc hẳn, khi nhắc đến hai từ "triết học", không ít bạn vẫn gợi lên trong đầu một cảm giác "mù mịt, mơ hồ". Để rém "bức màn" triết học trong suy nghĩ cũng như bổ sung kiến thức và khơi dậy sự hứng thú với bộ môn khoa học này, hãy cùng Luận Văn 2S tìm hiểu đôi chút về Triết học và những vấn đề xoay quanh nó nhé!

Sự khác biệt giữa Triết học và Khoa học

Sự khác biệt giữa Triết học và Khoa học - Giáo DụC

Video liên quan

Chủ Đề