Việt Nam đã học được gì từ Trung Quốc

07/07/2020 9,464

A. Kiên trì nguyên tắc nhà nước của dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Việt Nam.

B. Mở cửa, hội nhập quốc tế; áp dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật vào sản xuất.

Đáp án chính xác

C. Chuyển mô hình kinh tế nông nghiệp tập thể sang kinh tế thị trường.

D. Xây dựng mô hình nhà nước dân chủ chủ nghĩa, lấy phát triển chính trị làm trung tâm.

Câu hỏi trong đề:   Đề thi giữa kì 1 Lịch Sử 12 !!

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Việt Nam có thể học tập được kinh nghiệm gì từ công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ năm 1978?


A.

Phát triển các ngành nông nhiệp, công nghiệp, dịch vụ.

B.

Lấy cải cách về chính trị làm trọng tâm.

C.

Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm.

D.

Cải cách mở cửa phải đi đôi với ngoại giao có điều kiện.

Chia sẻ tại hội thảo gần đây, ông Li Ninghui Viện Kinh tế và Phát triển nông nghiệp, Học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc cho biết tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp thực tế quốc trung bình hàng năm của quốc gia này giai đoạn 1978 – 2016 là 4,49%.

Dân số Trung Quốc đã đạt 1,39 tỷ người trong năm 2017 và dự kiến đạt gần 1,43 tỷ người vào năm 2020.

Điều này khiến cho nhu cầu lương thực tăng mạnh. Trung Quốc được dự đoán sẽ sẽ là nước có lượng tiêu thụ thịt và ngũ cốc nhiều nhất thế giới trong những thập kỷ tới.

Do vậy, quốc gia tỷ dân này đang tham gia tích cực hơn trong việc thu hẹp khoảng cách giữa cung, cầu tại thị trường nội địa cũng như thị trường thế giới.

Theo ông Li Ninghui, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chiến lược cụ thể. Đơn cử tăng sản lượng ngũ cốc quốc gia, trong đó, tập trung vào lúa mì, gạo và ngô. Việc sản xuất này dựa trên phát triển nông nghiệp bền vững, được quyết định bởi các nhân tố thị trường, môi trường thương mại trong nước, quốc tế tự do, phát triển liên kết vùng...

Dù vậy, giá cả của các hàng hóa nông nghiệp trên thế giới vẫn ảnh hưởng đến an ninh lương thực và hiệu quả kinh tế tổng thể của nước này. Bên cạnh đó, nền lương thực Trung Quốc còn bị phụ thuộc vào mức độ tự do hóa tại thị trường trong nước. Do đó, các vấn đề chính sách và lựa chọn mà quốc gia này đối mặt rất phức tạo, theo ông Li Ninghui.

Một trong những giải pháp được đề ra là Chính phủ đã có sự hỗ trợ tài chính cho nông nghiệp, tập trung vào nghiên cứu khoa học và công nghệ.

"Chính phủ đang ưu tiên cao cho sự phát triển nông nghiệp trong thời gian dài", ông Li nói.

Ví dụ, nếu năm 2006, ngân sách chi tiêu tổng thể cho nông nghiệp là 216,14 tỷ NDT [Chính phủ trung ương là 19,44 tỷ NDT, Chính phủ địa phương là 196,7 tỷ NDT] thì đến năm 2017, ngân sách đã là 1.908,9 tỷ NDT [trung ương 70,87 tỷ NDT, địa phương là 1.838,03 tỷ NDT].

Ở Trung Quốc, các cơ quan chính cho nghiên cứu khoa học, công nghiệp là các doanh nghiệp và tổ chức thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Số lượng nghiên cứu viên hiện duy trì ở mức ổn định hơn 720.000 người.

Mặc dù vậy, ông Li cho biết ngày càng có nhiều hoạt động nghiên cứu trong các công ty tư nhân, trường đại học...

Bên cạnh chuẩn bị yếu tố con người, để đảm bảo an ninh lương thực, quốc gia tỷ dân đã có sự chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp tiết kiệm tài nguyên, thân thiện với môi trường, tập trung vào nông nghiệp bền vững. Việc áp dụng khoa học, kỹ thuật giúp nước này nâng cao năng suất lao động, đạt hiệu quả cao.

Nông dân cũng là một trong những đối tượng được lưu tâm. Chính phủ Trung Quốc đã có chính sách đô thị hóa ở cấp quận, tạo ra việc làm cho các lao động nông thôn dư thừa trong quá trình hiện đại hóa nông nghiệp. Điều này nhằm đảo bảo nông dân không bị bỏ lại phía sau, được tăng thu nhập trong quá trình vận động, phát triển của cả ngành.

Kinh tế nông thôn vì vậy được chú trọng hội nhập với kinh tế đô thị. Ông Li cho Trung Quốc đã từng bước xóa bỏ sự khác biệt của hệ thống đăng ký cư trú giữa người thành thị và nông thôn, tập trung vào cơ hội phát triển bình đẳng.

Nhờ vậy, nước này đã thu được những thành tựu trong khoa học và công nghệ nông nghiệp như sản xuất ra giống siêu lúa, vaccin động vật,... Bên cạnh đó, những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều sự chuyển giao và mở tộng kết quả nghiên cứu. Nhờ vậy, những nhà khoa học được hưởng lợi nhiều hơn từ chất xám của họ.

"Khoa học và công nghệ nông nghiệp của Trung Quốc đang tiến lên hàng ngũ tiên tiến trên thế giới", ông Li Ninghui nhấn mạnh.

Chủ tịch Lộc Trời và cách tư duy ngược để cùng nông dân xây dựng đế chế nông nghiệp tỷ USD

Từ những kết quả đạt được của nhân dân Trung Quốc về kinh tế cũng như văn hoá, xã hội dựa trên thành quả của giáo dục mà Trung Quốc chú trọng cải cách trong 25 năm qua, Việt Nam có thể học tập được gì từ cuộc cải cách của Trung Quốc trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước?

Phương châm chiến lược phát triển Giáo dục Trung Quốc đó là: Giáo dục hướng về hiện đại, Giáo dục hướng tới tương lai và Giáo dục hướng ra thế giới. Đây là tư tưởng xác lập vị trí chiến lược của Giáo dục trong nỗ lực xây dựng đất nước phát triển, nhất là nhằm tăng cường hội nhập quốc tế. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc chủ trương bồi dưỡng, giáo dục nhân tài theo ba hướng này.

Giáo dục hướng về hiện đại

Hướng về hiện đại hoá tức là xây dựng mối quan hệ giữa GD với phát triển kinh tế. Gắn Giáo dục với việc thực hiện các nhiệm vụ chung của đất nước.

Hướng ra thế giới là mối quan hệ giữa giáo dục và thế giới, vừa tuân theo những đặc trưng giáo dục Trung Quốc vừa chú ý đến xu thế phát triển của khoa học, kỹ thuật và giáo dục các nước khác trên thế giới nhằm có biện pháp, chính sách, chủ trương đúng đắn cho giáo dục.

Giáo dục hướng tới tương lai

Hướng tới tương lai là xác định mối quan hệ giữa giáo dục và tương lai, nhấn mạnh nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá.

Để thực hiện "ba hướng này" Trung Quốc tiến hành bằng nhiều biện pháp cụ thể.

Phát triển mô hình trường Trung học phổ thông tổng hợp [THPTTH] thử nghiệm ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến. Mô hình THPTTH được coi là mô hình trường giáo dục hướng nghiệp tốt nhất cho HS vì HS có thể tự lựa chọn nghề nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh hoặc tiếp tục học lên CĐ, ĐH theo sở thích của mình.

Ưu điểm của trường này là HS sau khi ra trường vừa có trình độ học vấn phổ thông [được cấp bằng THPT], vừa có trình độ kỹ năng nghề nghiệp [được cấp chứng chỉ nghề] để tham gia vào thị trường lao động. Có thể thấy mô hình trường này rất thích hợp với Việt Nam, khi ta đang cố gắng đào tạo, phát huy nguồn nhân lực phục vụ cho yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh hệ thống trường công lập được chú trọng đầu tư phát triển, Trung Quốc còn chú trọng phát triển hệ thống trường dân lập. Hình thành cục diện mới song song với việc phát triển trường công lập và dân lập. Đây là con đường tất yếu để một đất nước còn nhiều khó khăn có thể đại chúng hoá giáo dục ĐH, biến gánh nặng về dân số thành nguồn nhân lực dồi dào có trình độ cao.

Trung Quốc khẳng định giáo dục ĐH là nòng cốt quan trọng trong công cuộc hiện đại hoá mà các trường ĐH là nơi đào tạo chuyên gia có trình độ chuyên môn cao trên nhiều lĩnh vực tri thức và cũng là mảnh đất gieo mềm sáng tạo, nơi bừng nở kiến thức.

Trung Quốc còn chủ trương phát triển nhiều hình thức trường ĐH đào tạo không chính quy như ĐH qua truyền hình, ĐH nông dân, ĐH viên chức, học viện Giáo dục và bồi dưỡng GV, học viện quản lý cán bộ, ĐH tự học có hướng dẫn. Đây là những trường ĐH kiểu mới trên cơ sở kết hợp 3 yếu tố: cá nhân tự học, xã hội trợ giúp, nhà nước chỉ đạo.

Phương thức đào tạo này nếu được áp dụng vào Việt Nam sẽ mở ra nhiều cơ hội học ĐH cho mọi người, góp phần vào thực hiện mục tiêu Giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.

Giáo dục hướng ra thế giới

Bài học lớn từ thực tiễn 25 năm cải cách mở cửa cho thấy: muốn hiện đại hoá phải thực hiện cải cách, mà muốn cải cách không còn con đường nào khác ngoài con đường học hỏi, kế thừa tiến bộ khoa học công nghệ phương tây [chủ yếu là Mỹ]. Quá trình học hỏi, chuyển giao công nghệ nước ngoài đem lại nhiều ưu thế hơn cho Trung Quốc: không phải tốn nhiều thời gian và tiền của cho nghiên cứu công nghệ mới, tranh thủ được thời gian, rút ngắn khoảng cách phát triển với các cường quốc trên thế giới.

Để thực hiện mục tiêu này, Trung Quốc chủ trương mở cửa giao lưu với thế giới bên ngoài trong khi vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu tiên tiến về giáo dục của các nước trên thế giới, thực hiện chủ trương tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế với phương châm "ủng hộ lưu HS, khuyến khích về nước, đi về tự do".

Du HS được coi là nguồn tài sản quí giá của đất nước, được nhà nước coi trọng, được tín nhiệm và hưởng nhiều ưu đãi. Du HS là đội ngũ trí thức trẻ đem tinh hoa học hỏi từ bên ngoài để về xây dựng đất nước.

Trên thực tế, chính sách thu hút HS không phải mới xuất hiện trong thời gian gần đây mà nó có từ thời Tôn Trung Sơn. Tư tưởng Giáo dục của Tôn Trung Sơn là trọng dụng người tài nên chủ trương khuyến khích du học, bồi dưỡng nhân tài.

Thực hiện chính sách mở cửa, Trung Quốc không những đưa HS đi du học mà còn thu hút, tiếp nhận SV từ 154 nước đến học tập và nhiều giáo viên, học giả nước ngoài về giảng dạy. Song song với hợp tác đào tạo trao đổi giáo viên, du HS, trải thảm đỏ đón du HS, Hoa kiều về phục vụ đất nước, Trung Quốc còn thực hiện tốt công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Công tác này góp phần đáng kể vào việc ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám - chảy máu tài sản trí tuệ đồng thời khuyến khích các nhà khoa học và các nhà đầu tư bỏ thời gian tiền bạc, công sức và trí tuệ vào nghiên cứu, phát minh, sáng tạo nhiều công trình khoa học phục vụ cho phát triển đất nước.

Video liên quan

Chủ Đề