100 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở chúng tôi năm 2022

  • Martha Henriques
  • BBC Future

13 tháng 4 2020

Nguồn hình ảnh, Other

Tại Ý, một trong những tâm dịch của đợt bùng phát virus corona mới, tỷ lệ tử vong vào cuối tháng Ba là 11%.

Trong khi đó ở nước láng giềng Đức, tỷ lệ tử vong cũng do chủng viurus này gây ra lại chỉ có 1%.

Ở Trung Quốc, tỷ lệ này là 4%, trong khi Israel có tỷ lệ thấp nhất trên toàn thế giới, chỉ 0,35%.

Thoạt nhìn thấy có vẻ đáng ngạc nhiên sao cùng con virus đó - dường như không có đột biến đáng kể về cung cách lây nhiễm - lại có thể dẫn đến nhiều tỷ lệ tử vong được báo cáo khác nhau đến vậy.

Và ngay cả trong một quốc gia, tỷ lệ này cũng thay đổi theo thời gian. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Một số yếu tố chính gây nên phần lớn sự khác biệt mà chúng ta thấy - và có lẽ điều quan trọng nhất chỉ đơn giản là cách chúng ta ghi nhận số lượng ca tử vong, cũng như tính toán số lượng ca nhiễm.

Những tỷ lệ tử vong hoàn toàn khác biệt

Đầu tiên là sự không rõ ràng về khái niệm "tỷ lệ tử vong". Sự nhập nhằng này khiến cho con số các quốc gia đưa ra trông hoàn toàn khác biệt, ngay cả khi tỷ lệ người chết của các nước là như nhau.

Trên thực tế, có hai loại tỷ lệ tử vong.

Loại thứ nhất là tỷ lệ người chết tính trên số người đã được xét nghiệm và được xác định dương tính với virus corona. Đây được gọi là "tỷ lệ tử vong trên số ca bệnh".

Loại thứ hai là tỷ lệ người chết sau khi nhiễm virus tính trên số bị lây nhiễm nói chung; vì có rất nhiều người trong số này sẽ không bao giờ được phát hiện [qua xét nghiệm], cho nên con số này chỉ có thể ước tính. Đây được gọi là "tỷ lệ tử vong trên số ca lây nhiễm".

Nói cách khác, tỷ lệ tử vong trên số ca bệnh nhằm nói tới tỷ lệ bệnh nhân mà bác sĩ biết chắc chắn rằng họ chết vì dịch bệnh, chứ không phải là toàn bộ số người được cho là tử vong vì virus, Carl Heneghan, nhà dịch tễ học và giám đốc của Trung tâm xét nghiệm y tế của Đại học Oxford nói; ông cũng là một bác sĩ gia đình đang bình phục sau khi bị nghi nhiễm Covid-19.

Để hiểu rõ sự khác biệt của hai khái niệm này, hãy xem xét trường hợp giả định là có 100 người bị nhiễm Covid-19.

Mười người trong số họ bị bệnh nặng đến mức nhập viện, nơi họ được xét nghiệm có kết quả dương tính với Covid-19. 90 người khác không được xét nghiệm gì cả. Một trong những bệnh nhân nhập viện sau đó chết vì virus. 99 người còn lại sống sót.

Điều đó sẽ cho "tỷ lệ tử vong trên số ca bệnh" là một trên 10, hay 10%. Nhưng "tỷ lệ tử vong trên số ca lây nhiễm" sẽ chỉ là một trên 100, tức 1%.

Vì vậy, nếu một số quốc gia chỉ xét nghiệm những bệnh nhân nặng nhập viện - và không xét nghiệm bệnh nhân Covid-19 nhẹ [hoặc thậm chí có những bệnh nhân không hề có triệu chứng] không đến bệnh viện [ví dụ như cách Vương quốc Anh hiện đang áp dụng], thì tỷ lệ tử vong có vẻ như cao hơn so với các quốc gia nơi xét nghiệm phổ biến trên diện rộng [như Đức hoặc Hàn Quốc].

Xét nghiệm diện rộng

Ngay cả khi cẩn thận so sánh cùng một loại tỷ lệ tử vong giữa các quốc gia, thì ta cũng dễ dàng thấy việc xét nghiệm nhiều hoặc ít sẽ làm thay đổi kết quả.

Trên thực tế, việc thiếu xét nghiệm có hệ thống trên diện rộng ở hầu hết các quốc gia chính là nguồn gốc dẫn đến sự khác biệt căn bản về tỷ lệ tử vong tại các khu vực trên thế giới, Dietrich Rothenbacher, giám đốc Viện Dịch tễ học và Sinh trắc học Y khoa tại Đại học Ulm, Đức, cho biết.

Kết quả là việc so sánh trực tiếp số liệu hiện tại của các quốc gia với nhau là hoàn toàn khập khiễng, ông nói.

Điều này là do để có được một con số chính xác trong toàn dân thì cần phải xét nghiệm không chỉ các trường hợp có triệu chứng mà cả những người không có triệu chứng. Có dữ liệu đó thì mới đưa ra được một bức tranh chính xác về cách thức đại dịch ảnh hưởng đến toàn bộ dân số chứ không chỉ với những ca nhiễm bệnh đã được xét nghiệm.

"Hiện tại, chúng ta đang phải đối mặt với các số liệu cực kỳ thiếu khách quan từ các quốc gia - do đó không thể so sánh trực tiếp những số liệu này với nhau được," ông nói.

"Những gì chúng ta thực sự cần là có những con số chính xác và có thể so sánh với nhau được, là những con số được thu thập theo cùng cách thức và có hệ thống, qua đó thể hiện chính xác mức độ bệnh dịch ở từng nước.

Làng Vò, một vùng quê ở miền bắc nước Ý là một ví dụ về lý do tại sao xét nghiệm không chỉ quan trọng để có được dữ liệu chính xác mà còn giúp khống chế dịch Covid-19.

Khi ca nhiễm Covid-19 đầu tiên ở đây được xác nhận, toàn bộ cư dân gồm 3.300 người đã được làm xét nghiệm. Kết quả cho thấy tại thời điểm xảy ra ca nhiễm đầu tiên này, có 3% dân số tại đây đã bị nhiễm virus nhưng lại không hề có triệu chứng bệnh hoặc chỉ có một vài triệu chứng nhẹ.

Tỷ lệ tử vong trên các ca bệnh Covid-19 ở Ý cao hơn rõ rệt so với các nơi khác trên thế giới, phần lớn là do biện pháp xét nghiệm để phát hiện ra các ca nhiễm

Nguồn hình ảnh, Worldometer / BBC

Chụp lại hình ảnh,

Tỷ lệ tử vong trên các ca bệnh Covid-19 ở Ý cao hơn rõ rệt so với các nơi khác trên thế giới, phần lớn là do biện pháp xét nghiệm để phát hiện ra các ca nhiễm

Một chương trình xét nghiệm diện rộng triển khai ở Iceland cho thấy bức tranh tương tự.

Iceland đã xét nghiệm hơn 3% trong tổng dân số khoảng 365.000 người của nước này, gồm cả những người có triệu chứng bệnh và những người không có triệu chứng gì.

Bằng cách ngoại suy kết quả, chương trình xét nghiệm ước tính rằng 0,5% dân số Iceland có khả năng đã nhiễm Covid-19.

Nhưng ngay cả con số này có thể vẫn hơi thấp hơn thực tế bởi vì những người không có triệu chứng thường ít có khả năng được làm xét nghiệm, Heneghan lưu ý.

Người ta cho rằng con số thực tế có thể gần hơn với 1% dân số Iceland, điều đó có nghĩa là khoảng 3.650 ca nhiễm virus.

Một khó khăn khác là dữ liệu này không phải là được lấy từ một nghiên cứu đã được các khoa học gia khác xem xét, bình duyệt, mà là dữ liệu y tế lâm sàng tức thời - vốn có thể có nhiều lộn xộn trùng lặp và gồm cả những dữ liệu không phù hợp với nhau.

Tuy vậy, những số liệu như vậy nhấn mạnh tầm quan trọng của xét nghiệm diện rộng, qua đó giúp hỗ trợ cảnh báo các biện pháp y tế cộng đồng, theo Sheila Bird từ bộ phân phân tích thống kê sinh học MRC Biostatistic thuộc Đại học Cambridge.

Xét nghiệm kháng thể

"Nếu bạn đã từng nhiễm virus nhưng lại chưa bao giờ phát sinh các triệu chứng bệnh thì có nghĩa bạn là một ca lây nhiễm nhưng thuộc loại 'không được tính' - ca nhiễm này sẽ không được tính cho đến khi chúng ta có xét nghiệm kháng thể với virus," Bird nói.

Các xét nghiệm kháng thể giúp lần ra dấu vết của phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với virus và cho biết những ai đã bị lây nhiễm.

Các xét nghiệm này có thể làm thay đổi tình thế trong việc tìm ra cá nhân nào đã phát triển được khả năng miễn nhiễm đối với virus này và có thể trở lại với cuộc sống thường ngày một cách an toàn mà không có nguy cơ tái nhiễm hoặc làm lây lan virus cho người khác.

"Điều này cho thấy tại sao cần triển khai xét nghiệm và việc thực hiện xét nghiệm là vô cùng quan trọng," Bird cho biết.

Ở làng Vò, sự lây lan của Covid-19 đã được ngăn chặn sau hai tuần, vì cả hai yếu tố xét nghiệm diện rộng và các biện pháp theo dõi nghiêm ngặt đều cho phép ngăn chặn lây nhiễm có mục tiêu rõ ràng và đạt hiệu quả.

Cho đến ngày 12/4, Iceland chỉ có tám ca tử vong do Covid-19.

Khi nào thì tính là tử vong do Covid-19?

Ngoài ra còn có những yếu tố khác nữa làm ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong.

Một trong yếu tố đó là việc bác sỹ coi các trường hợp nào là tử vong là do Covid-19.

Thoạt tiên, điều đó có vẻ cực đơn giản: nếu một bệnh nhân chết khi đã bị nhiễm Covid-19 thì mặc nhiên họ được tính là chết vì Covid-19.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Khi ca nhiễm Covid-19 đầu tiên được xác nhận ở làng Vò nước Ý, xét nghiệm đã được triển khai cho toàn bộ cư dân nơi đây

Nhưng sẽ thế nào nếu họ đã có sẵn bệnh nền trước khi nhiễm Covid-19, chẳng hạn như hen suyễn, rồi bị nhiễm Covid-19 khiến cho bệnh tình trầm trọng thêm?

Hoặc sẽ tính như thế nào nếu bệnh nhân chết vì bệnh gì đó dường như ít liên quan đến Covid-19 [là virus gây ra hội chứng suy hô hấp cấp tính] như chứng phình động mạch não? Những trường hợp cụ thể nào thì được coi là chết do Covid-19?

Ngay cả trong cùng một quốc gia, số liệu thống kê chính thức có thể thay đổi tùy thuộc vào việc tính dựa trên cái gì.

Ví dụ, ở Anh, Bộ Y tế và Chăm sóc Xã hội phát hành thông tin cập nhật hàng ngày về việc có bao nhiêu người có kết quả xét nghiệm dương tính với Covid-19 đã tử vong vào ngày hôm đó.

Như vậy, số liệu của Anh bao gồm tất cả các bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính với Covid-19 cho dù họ có thể tử vong vì bệnh khác [ví dụ, ung thư giai đoạn cuối].

Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh [ONS] thì lại tính toàn bộ các ca tử vong mà trong giấy chứng tử có nhắc đến Covid-19 là các ca chết vì Covid-19, bất kể là các ca đó đã được xét nghiệm chưa hay mới chỉ đơn thuần là nghi nhiễm Covid-19.

Vấn đề càng thêm phức tạp ở chỗ hai cách tính tỷ lệ tử vong lại không được thục hiện đồng bộ với nhau, bởi ONS thì tính dựa trên giấy chứng tử, tức là sẽ mất nhiều thời gian hơn mới có kết quả thống kê.

"Vấn đề không phải là đúng hay sai, mà là mỗi nguồn dữ liệu đều có những ưu, khuyết riêng," Sarah Caul, người đứng đầu bộ phận phân tích số liệu tử vong tại ONS, viết trên blog cá nhân về các cách khác nhau để tính số người chết vì Covid-19.

Tuy nhiên, đây không nhất thiết là lý do dẫn đến sự khác biệt giữa hầu hết các quốc gia, vì nhiều nước cũng đang tính số người chết theo cùng cách này.

Ý tính các ca tử vong do Covid-19 là bao gồm mọi bệnh nhân có nhiễm Covid-19 lúc qua đời; Đức và Hong Kong cũng vậy.

Ở Mỹ, các bác sĩ có nhiều quyền hơn: họ được yêu cầu ghi lại xem liệu bệnh nhân có chết vì Covid-19 hay không và báo cáo về tình hình dịch bệnh cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.

Có thể dễ nhận thấy là một bác sỹ sẽ coi việc một bệnh nhân nhiễm Covid-19 nhưng tử vong do một bệnh nào đó, như do đau tim hoặc do bị phình động mạch não, là người tử vong không phải do Covid-19, và do vậy họ sẽ không đưa ca đó vào số liệu tường trình về diễn biến Covid-19.

Tuy nhiên, điều quan trọng là tuy điều này có thể sẽ tạo ra sự khác biệt khi dữ liệu được phân tích trong vài tháng hay vài năm nữa, nhưng nó không giải thích được những khác biệt trong các số liệu thống kê vào thời điểm hiện tại.

Vào lúc này, ở Mỹ bất kỳ bệnh nhân nào nhiễm Covid-19 khi tử vong sẽ đều được tính trong báo cáo công khai là chết vì Covid-19, bất kể bác sĩ có tin rằng Covid-19 là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong hay không.

Cécile Viboud, nhà dịch tễ học tại Trung tâm Quốc tế Fogarty thuộc Viện Y tế Quốc gia, nói: "Tôi hy vọng rằng giấy chứng tử cuối cùng sẽ ghi Covid cùng với các bệnh nền khác, nếu như bệnh nhân có các bệnh đó."

"Nhưng vào lúc này, bất kỳ bệnh nhân nào dương tính với Covid-19 mà chết thì đều được tính vào số liệu tử vong do Covid-19 của Hoa Kỳ."

Như vậy, cách tính các ca tử vong như thế nào sẽ ảnh hưởng tới cách ta hiểu về mức độ chết người nghiêm trọng tới đâu của căn bệnh này, nhưng điều này không phải là yếu tố khác biệt ghê gớm giữa các nước.

Các nguyên nhân phức tạp

Tình hình càng thêm mù mờ khi có các trường hợp chưa được xét nghiệm Covid-19 nhưng đã bị nghi nhiễm.

Bởi có nhiều trường hợp nhiễm Covid-19 tử vong là những người đã có sẵn bệnh nền, các bác sĩ vẫn phải tìm hiểu về nguyên nhân thực sự gây ra tử vong.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Tình hình càng trở nên phức tạp khi có những trường hợp chưa được xét nghiệm Covid-19 nhưng bị nghi là đã lây nhiễm

Trong thời gian có dịch bệnh, các bác sĩ nhiều khả năng sẽ coi các trường hợp tử vong do nhiều nguyên nhân phức tạp là các ca tử vong do dịch bệnh đó - điều được biết đến như một thành kiến định sẵn.

"Chúng ta biết rằng trong thời gian có dịch bệnh, mọi người sẽ mặc nhiên coi mọi cái chết đều liên quan đến Covid-19. Nhưng mà không phải lúc nào cũng đúng vậy," Heneghan nói.

"Khi nhìn lại các ghi chú bệnh án và chẩn đoán nguyên nhân, họ nhận ra rằng họ sẽ đánh giá quá mức số các ca tử vong liên quan đến dịch bệnh."

Lý do dẫn đến thành kiến này là vì "có xu hướng muốn tập trung vào kịch bản xấu nhất", Heneghan nói. "Đó là thông điệp duy nhất được đưa ra từ đó."

Một ví dụ là đại dịch cúm heo H1N1 năm 2009.

Ước tính tỷ lệ tử vong trong thời gian đầu đã bị phóng đại lên đến con số hơn 10 lần.

Thậm chí ngay cả sau 10 tuần xảy ra dịch bệnh, các ước tính giữa các nước khác nhau là rất khác nhau, nằm trong khoảng từ 0,1% đến 5,1%.

Sau này, khi các chuyên viên y tế có cơ hội xem xét các bệnh án và đánh giá lại các ca bệnh, kết quả tỷ lệ tử vong do mắc bệnh cúm H1N1 thực tế thấp hơn rất nhiều, chỉ ở mức 0,02%.

Đây không phải là lý do để chúng ta chủ quan, Heneghan nói. Nhưng điều này có thể là một phép hoá giải lời báo động về tỷ lệ tử vong rất cao được báo cáo ở một số quốc gia.

Những cái chết âm thầm

Trong khi số lượng tử vong bị tính vống lên khiến tỷ lệ tử vong trong số các ca bệnh Covid-19 được ghi nhận ở mức quá cao, thì đồng thời lại có một yếu tố khác [thêm phần rối rắm] khiến cho tỷ lệ này bị giảm bớt.

Đó là chuyện có những ca tử vong không được tính đến là có liên quan tới Covid-19: những người chết vì căn bệnh này nhưng lại chưa từng được xét nghiệm.

Điều này xảy ra khi dịch vụ y tế bị quá tải, tới mức ngay cả những bệnh nhân có triệu chứng nghiêm trọng của bệnh dịch cũng không được đưa vào bệnh viện để được xét nghiệm và điều trị, bởi đơn giản là vì ngành y tế không còn khả năng nữa.

Tại thị trấn nhỏ Nembro ở Lombardy, Ý chỉ có 31 người được xác nhận chính thức chết vì Covid-19.

Nhưng một nghiên cứu sơ bộ đã phát hiện ra rằng nơi đó có khả năng nhiều người hơn đã chết vì Covid-19.

Đó là vì mức tử vong chung - không chỉ từ Covid-19 mà tính gộp tất cả các trường hợp tử vong do mọi nguyên nhân thì số người chết đầu năm nay cao gấp bốn lần so với cùng kỳ năm ngoái.

Thông thường, khoảng 35 người chết trong những tháng đầu năm ở Nembro. Năm nay, 158 người đã được xác nhận đã qua đời.

Mức tăng vọt bất thường này được tính là các trường hợp tử vong do Covid-19 nhưng không được chẩn đoán và xét nghiệm.

Số lượng giường bệnh có sẵn cũng có thể đóng một vai trò, vì các quốc gia có năng lực dịch vụ y tế kém hơn có thể phải bắt đầu đưa ra quyết định sớm hơn về ca bệnh Covid-19 nào sẽ được ưu tiên điều trị.

Điều này có thể dẫn đến nhiều cái chết do Covid-19 trong cộng đồng nhưng chưa được xác nhận [và sẽ không được thống kê], bởi có những người có triệu chứng nhưng không được đưa vào viện điều trị.

Mặc dù điều này có thể dẫn đến nhiều cái chết không được thống kê, nhưng nó không nhất thiết cần được diễn giải thành số lượng tử vong lớn hơn.

"Không thể nói rằng được đưa vào khu vực hồi sức cấp cứu [ICU] là sẽ có kết quả hồi phục tốt hơn so với chăm sóc trong cộng đồng," Heneghan nói.

Điều quan trọng hơn số lượng giường có sẵn trong bệnh viện, theo ông, là cách thức tổ chức giường bệnh.

Nếu các bệnh nhân Covid-19 ở gần các bệnh nhân khác - hoặc nếu các bác sĩ di chuyển giữa khoa điều trị bệnh Covid-19 và các khoa điều trị bệnh khác - thì điều này sẽ làm tăng nguy cơ lây lan bệnh.

"Đó là lý do tại sao bạn cần các bệnh viện riêng biệt cho các nhóm lây nhiễm riêng biệt," ông nói.

Độ tuổi đóng vai trò gì?

Bên cạnh những khác biệt trong cách định nghĩa lâm sàng để tính số lượng tử vong do Covid-19 và số người chưa được xét nghiệm, có những yếu tố khác khiến cho virus có vẻ như tấn công một số quốc gia dữ dội hơn so với các quốc gia khác.

Một trong các lý do đó đã được các bác sỹ Ý đưa ra, đó là độ tuổi của dân số mỗi quốc gia.

Năm 2019, gần một phần tư dân số Ý có độ tuổi từ 65 trở lên, trong lúc con số này ở Trung Quốc chỉ là 11%.

Tỷ lệ tử vong trên ca bệnh ở Ý tính đến giữa tháng Ba là 7,2% - cao hơn nhiều so với tỷ lệ 2,3% ở Trung Quốc trong giai đoạn tương đương của dịch bệnh.

Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong ở nhóm dân số từ độ tuổi từ 0 đến 69 ở hai nước là tương đương nhau, theo ghi nhận của các nhà nghiên cứu từ trung tâm dịch tễ trung ương Istituto Superiore de Sanità ở Rome.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Gần một phần tư dân số Ý có độ tuổi từ 65 trở lên, trong khi Trung Quốc chỉ là 11%

Tuy nhiên, trong số những bệnh nhân lớn tuổi nhất, Ý và Trung Quốc lại được chia thành các nhóm.

Nhóm tuổi 70-79 ở Ý có tỷ lệ tử vong trên ca bệnh là 12,8%, trong khi Trung Quốc là 8%.

Đối với nhóm người trên 80 tuổi, sự khác biệt còn rõ rệt hơn: Ý là 20,2% và Trung Quốc 14,8%.

Lý do cho sự khác biệt này vẫn còn chưa có lời giải đáp, các nhà nghiên cứu ghi nhận.

Heneghan nghi ngờ rằng có một yếu tố đặc thù đang diễn ra ở Ý, những con số tử vong cao có thể không liên quan đến virus, mà là với vi khuẩn.

Đất nước này có số người chết do kháng kháng sinh cao nhất châu u - trên thực tế, một phần ba số trường hợp tử vong do kháng kháng sinh ở châu u là xảy ra ở Ý.

Mặc dù kháng sinh không diệt được virus, song nhiễm virus thường mở đường cho nhiễm trùng thứ cấp hoặc biến chứng như viêm phổi do vi khuẩn. Nếu vi khuẩn không bị tiêu diệt khi áp dụng đúng phác đồ điều trị vì bệnh nhân đã kháng thuốc, thì đây có thể mới là nguyên nhân giết chết bệnh nhân chứ không phải virus.

"Đây là một phần cực kỳ quan trọng trong toàn bộ câu chuyện này," Heneghan nói. "Và nó đặc biệt phổ biến ở người cao tuổi."

Cùng với vấn đề tuổi tác, sức khỏe tổng quát của dân chúng được nhấn mạnh là một yếu tố liên quan - đặc biệt là với những người có sẵn bệnh nền dễ bị tổn thương.

Mặc dù điều đó có thể đóng một vai trò quan trọng, nhưng điều này không giải thích được tại sao một số quốc gia báo cáo số ca tử vong do Covid-19 cao hơn các nước khác: chẳng hạn, Ý luôn được xếp hạng là một trong những quốc gia lành mạnh nhất thế giới và có tuổi thọ cao hơn Trung Quốc .

Nguồn hình ảnh, Onder et al./JAMA/BBC

Chụp lại hình ảnh,

Đối với nhóm tuổi trẻ hơn, tỷ lệ tử vong trên ca dương tính ở Ý và Trung Quốc là tương đương, nhưng đối với các nhóm người cao tuổi nhất, tỷ lệ tử vong của Ý cao hơn

Việc cố gắng đánh giá chính xác mức độ gây chết người của bệnh dịch Covid-19 là điều khó khăn và cần có đủ thời gian.

Có thể chúng ta không bao giờ tính được số người chết do Covid-19 một cách xác thực, đáng tin cậy nữa, vì công tác xét nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới đã được triển khai quá chậm trễ.

Thời gian trôi qua, ước tính tỷ lệ tử vong Covid-19 có thể sẽ được cải thiện, vì các bác sĩ cuối cùng đã có thể thông qua ghi chú bệnh án và phân tách ra các yếu tố rối rắm góp phần gây ra từng cái chết của các bệnh nhân nhiễm Covid-19.

Vào lúc này, trong lúc các bệnh viện đều đang tràn ngập các bệnh nhân ốm nặng còn các bác sỹ, y tá đang phải làm việc suốt đêm ngày để chăm sóc họ, thì công tác phân tích kỹ lưỡng đó sẽ phải tạm thời xếp lại.

Tất cả các biểu đồ tương tác của chúng tôi về nguyên nhân tử vong

Định nghĩa: Nguyên nhân tử vong so với các yếu tố rủi ro

Điều quan trọng là phải hiểu những gì có nghĩa là nguyên nhân tử vong và yếu tố nguy cơ liên quan đến cái chết sớm:

Trong khuôn khổ dịch tễ học của gánh nặng toàn cầu về nghiên cứu bệnh tật, mỗi cái chết có một nguyên nhân cụ thể. Nói theo cách riêng của họ: Mỗi cái chết được quy cho một nguyên nhân cơ bản duy nhất - nguyên nhân bắt đầu một loạt các sự kiện dẫn đến cái chết.2.2

Điều này khác với những cái chết xảy ra do các yếu tố rủi ro. Những trường hợp tử vong này là ước tính giảm số người chết sẽ đạt được nếu các yếu tố nguy cơ bị phơi nhiễm sẽ bị loại bỏ [trong trường hợp hút thuốc lá, ví dụ] hoặc giảm xuống mức tối ưu, lành mạnh [ trong trường hợp chỉ số khối cơ thể]. & nbsp;

Dưới đây, trong phần của chúng tôi về đo lường, bạn tìm thấy một lời giải thích chi tiết hơn.

Mọi người chết vì điều gì?

56 triệu người đã chết trong năm 2017.3 Họ đã chết gì?

& Nbsp; gánh nặng toàn cầu của bệnh & nbsp; là một nghiên cứu toàn cầu lớn về nguyên nhân tử vong và bệnh tật được công bố trên Tạp chí Y khoa & NBSP; The Lancet.4 Các ước tính về số ca tử vong hàng năm do nguyên nhân được hiển thị ở đây. & NBSP;

Điều này được thể hiện cho những cái chết trên toàn thế giới. Nhưng bạn có thể khám phá dữ liệu về số người tử vong hàng năm theo nguyên nhân cho bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào bằng cách sử dụng chuyển đổi quốc gia thay đổi trên mạng.

Các bệnh không lây nhiễm [NCD] không chỉ thống trị các số liệu tử vong ở cấp độ toàn cầu, mà còn chiếm phần lớn các trường hợp tử vong ở các nước thu nhập cao.

Tử vong do các nguyên nhân như bệnh truyền nhiễm, suy dinh dưỡng, thiếu hụt dinh dưỡng, tử vong sơ sinh và mẹ là phổ biến- và trong một số trường hợp chiếm ưu thế- giữa các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Ở Kenya, chẳng hạn, nguyên nhân hàng đầu gây tử vong vẫn là bệnh tiêu chảy. Ở Nam Phi và Botswana, nguyên nhân hàng đầu gây tử vong là HIV/AIDS. Tuy nhiên, ở các nước thu nhập cao, tỷ lệ tử vong do những người này rất thấp.

Sử dụng dòng thời gian trên biểu đồ, bạn cũng có thể khám phá cách tử vong do nguyên nhân thay đổi theo thời gian.

Tỷ lệ tử vong liên quan đến bệnh tật, bệnh tật và các yếu tố sức khỏe khác có xu hướng thay đổi tương đối chậm theo thời gian. Trong khi tỷ lệ tử vong có thể giảm hoặc giảm từ năm này sang năm khác như một phần của xu hướng chung, những thay đổi mạnh mẽ trong những cái chết như vậy thường là rất hiếm. Thảm họa tự nhiên và những cái chết liên quan đến khủng bố là một ngoại lệ quan trọng đối với quy tắc này, vì chúng có thể thay đổi đáng kể giữa các quốc gia. Điều này có thể làm cho việc so sánh hàng năm về tử vong và tỷ lệ tử vong giữa các yếu tố liên quan đến sức khỏe và các sự kiện biến động trở nên khó khăn hơn. Hiểu rủi ro tương đối của các sự kiện này có thể đòi hỏi một cái nhìn tổng quan lâu dài hơn về những năm tử vong cao và thấp. Chúng tôi bao gồm thảo luận và phân tích về chủ đề này trong một bài viết ở đây.

Biểu đồ liên quan - Chia sẻ cái chết bởi nguyên nhân. Biểu đồ này cho thấy sự phá vỡ của những cái chết toàn cầu theo nguyên nhân, được đưa ra là tỷ lệ tử vong hàng năm, thay vì số lượng tuyệt đối. This chart shows the breakdown of global deaths by cause, given as the share of annual deaths, rather than the absolute number.

Nghiên cứu liên quan: Chúng tôi nghiên cứu sự khác biệt chính về tỷ lệ tử vong trên toàn thế giới bằng cách sử dụng các ví dụ quốc gia trong bài viết của chúng tôi ở đây. We study the major differences in mortality across the world using country examples in our post here.

Nguyên nhân tử vong theo thể loại

Trong hình dung, chúng ta thấy sự phân phối của những cái chết toàn cầu bị phá vỡ bởi ba loại rộng:

  • 1-màu vàng: thương tích do tai nạn đường bộ, vụ giết người, tử vong xung đột, chết đuối, tai nạn liên quan đến hỏa hoạn, thảm họa tự nhiên và tự tử.
  • 2-màu xanh lam: Các bệnh không lây nhiễm. Đây thường là những bệnh mãn tính, lâu dài và bao gồm các bệnh tim mạch [bao gồm đột quỵ], ung thư, tiểu đường và các bệnh hô hấp mãn tính [như bệnh phổi mãn tính và hen suyễn, nhưng không bao gồm các bệnh hô hấp truyền nhiễm như bệnh lao và cúm].
  • 3 - trong màu đỏ: Các bệnh truyền nhiễm [nghĩa là các bệnh truyền nhiễm] như HIV/AIDS, sốt rét và bệnh lao cùng với tử vong mẹ, tử vong sơ sinh và tử vong do suy dinh dưỡng.

Điều này được hiển thị cho các trường hợp tử vong toàn cầu là mặc định, nhưng có thể được xem cho bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào bằng cách sử dụng thay đổi quốc gia trên mạng trên biểu đồ tương tác.

Ở cấp độ toàn cầu, chúng ta thấy rằng phần lớn các trường hợp tử vong là do & nbsp; các bệnh không lây nhiễm & NBSP; [NCD]. Các NCD chung chiếm hơn 73% trường hợp tử vong toàn cầu. Khi thế giới đang đạt được tiến bộ trong cuộc chiến chống lại nhiều bệnh truyền nhiễm, và khi dân số tuổi, chúng tôi hy vọng rằng NCD sẽ ngày càng trở nên chiếm ưu thế như là nguyên nhân của cái chết.

Biểu đồ liên quan - Tỷ lệ tử vong do nguyên nhân tử vong. Biểu đồ này cho thấy tỷ lệ tử vong do các bệnh truyền nhiễm, các bệnh và chấn thương không lây nhiễm theo thời gian. This chart shows the death rate from infectious diseases, non-communicable diseases and injuries over time.

Sự cố tử vong theo tuổi

Ít người chết hơn khi còn trẻ

Trong bảng xếp hạng này, chúng ta thấy sự cố của những cái chết theo khung tuổi. Trên toàn cầu ngày càng ít người chết khi còn trẻ.

Trong năm 2017, đã có 56,5 triệu ca tử vong trên toàn cầu; Chỉ hơn một nửa trong số này là những người từ 70 tuổi trở lên; 26% là từ 50 đến 69 tuổi; 13% là từ 15 đến 49; Chỉ có 1% già hơn 5 tuổi và dưới 14 tuổi; và gần 9% là trẻ em dưới 5 tuổi.

Độ tuổi mà mọi người chết đã thay đổi đáng kể kể từ năm 1990. Ít người chết hơn khi còn trẻ. Vào năm 1990, gần một phần tư số ca tử vong ở trẻ em dưới 5. Năm 2019, điều này đã giảm chỉ dưới 9%. Ngược lại, tỷ lệ tử vong trong khung tuổi trên 70 đã tăng từ một phần ba lên một nửa số ca tử vong trong giai đoạn này.

Có thể thay đổi biểu đồ này thành bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào khác trên thế giới. Ở các quốc gia có sức khỏe tốt, chia sẻ chết ở độ tuổi trẻ là rất thấp. Ở Nhật Bản hơn 85% là 70 tuổi trở lên.

Nguyên nhân tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi

Biểu đồ này cho thấy số người tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi vì nguyên nhân.

Thông qua sự kết hợp của các rối loạn, trẻ sơ sinh [trẻ sơ sinh dưới 28 ngày tuổi], nhiễm trùng và khuyết tật bẩm sinh [từ khi sinh], chúng tôi thấy rằng tỷ lệ tử vong lớn nhất ở dưới 5 tuổi phát sinh từ các biến chứng khi sinh hoặc trong vài tuần đầu đời . Under-5 cũng rất dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp, bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng tiêu chảy, suy dinh dưỡng và thiếu hụt dinh dưỡng.

Điều này được thể hiện cho những cái chết trên toàn thế giới. Nhưng bạn có thể khám phá dữ liệu về số người tử vong hàng năm theo nguyên nhân cho bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào bằng cách sử dụng chuyển đổi quốc gia thay đổi trên mạng.

Tỷ lệ tử vong ở dưới 5 tuổi thường thấp hơn nhiều ở các nước thu nhập cao và bản chất của những trường hợp tử vong này khác với thu nhập thấp hơn. Ví dụ, tại Vương quốc Anh, những cái chết của trẻ em có xu hướng bị chi phối bởi các biến chứng sơ sinh. Tử vong do bệnh truyền nhiễm và bệnh tiêu chảy và suy dinh dưỡng là rất thấp. Ngược lại, các bệnh truyền nhiễm và thiếu hụt dinh dưỡng là nguyên nhân lớn gây tử vong ở các nước thu nhập thấp.

Nguyên nhân tử vong cho trẻ em từ 5 đến 14

Hình dung này cho thấy nguyên nhân cái chết của trẻ em đã chết từ 5 đến 14 tuổi.

Trên toàn cầu, cái chết ở khung tuổi 5-14 tuổi chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số [1-2%].

Có sáu nguyên nhân chi phối của tử vong trong loại tuổi này. Nguyên nhân hàng đầu trên toàn cầu ở trẻ 5-14 tuổi là tai nạn đường bộ, ung thư và sốt rét. Nhiễm trùng hô hấp thấp hơn, HIV/AIDS, bệnh tiêu chảy và chết đuối đều là những nguyên nhân chiếm ưu thế thường trong khoảng 40.000-50.000 ca tử vong trong năm 2017.

Một lần nữa, phân phối này thay đổi theo quốc gia. Ở Hoa Kỳ, ví dụ, ung thư là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Ở Ấn Độ, bệnh tiêu chảy của nó; Ở Bangladesh và Trung Quốc, nó bị chết đuối; và ở Nam Phi HIV/AIDS.

Nguyên nhân tử vong cho 15 đến 49 tuổi

Hình dung này cho thấy nguyên nhân cái chết của những người đã chết từ 15 đến 49 tuổi.

Trong loại 15 đến 49 tuổi, chúng ta thấy rằng các bệnh không lây nhiễm [NCD] bắt đầu trở nên chiếm ưu thế. Trên toàn cầu, nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở nhóm tuổi này là bệnh tim mạch, theo sau các bệnh ung thư, cả hai đều chiếm hơn một triệu ca tử vong. Tai nạn đường bộ, HIV/AIDS và tự tử đều có ý nghĩa trong nhóm này.

Đối với một số quốc gia, chẳng hạn như Nam Phi, cho đến nay, nguyên nhân gây tử vong là HIV/AIDS ở những người 15 đến 49 tuổi. Ở một số quốc gia [đặc biệt là trên khắp châu Mỹ Latinh, bao gồm Brazil và Mexico], giết người là nguyên nhân thống trị cho 15-49 tuổi.

Nguyên nhân tử vong cho những người từ 50 đến 69 tuổi

Hình dung này cho thấy nguyên nhân cái chết của những người đã chết trong độ tuổi từ 50 đến 69.

Trong những người từ 50 đến 69 tuổi, các bệnh không lây nhiễm [NCD] chiếm ưu thế mạnh mẽ-ở đây bệnh tim mạch, ung thư, bệnh hô hấp và bệnh tiểu đường là nguyên nhân hàng đầu. Ngoại trừ HIV/AIDS và bệnh lao đối với một số quốc gia leo lên các nguyên nhân hàng đầu, sự thay đổi toàn cầu về nguyên nhân tử vong đối với những người 50-69 tuổi thấp hơn nhiều so với các loại tuổi trẻ hơn.

Nguyên nhân tử vong cho những người trên 69 tuổi

Hình dung này cho thấy nguyên nhân cái chết của những người từ 70 tuổi trở lên tại thời điểm họ qua đời.

Đối với loại tuổi lâu đời nhất [70 tuổi trở lên], các bệnh không lây nhiễm [NCD] vẫn chiếm ưu thế, tuy nhiên các nguyên nhân tử vong khác bao gồm Alzheimer,/mất trí nhớ và bệnh tiêu chảy cũng trở nên chiếm ưu thế. Các bệnh tiêu chảy vẫn còn trong một số nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở những người hơn 70 tuổi đối với nhiều quốc gia có thu nhập thấp, mặc dù tương đối thấp ở mức thu nhập cao hơn.

Các yếu tố rủi ro cho cái chết

Điều quan trọng là phải hiểu ý nghĩa của & nbsp; nguyên nhân & nbsp; của cái chết và & nbsp; yếu tố rủi ro & nbsp; liên quan đến cái chết sớm:

Trong khuôn khổ dịch tễ học của gánh nặng toàn cầu về nghiên cứu bệnh, mỗi cái chết có & nbsp; một & nbsp; nguyên nhân cụ thể. Nói theo cách riêng của họ: Mỗi cái chết được quy cho một nguyên nhân cơ bản duy nhất - nguyên nhân đã khởi xướng một loạt các sự kiện dẫn đến cái chết.

Điều này khác với những cái chết xảy ra do các yếu tố rủi ro. Những trường hợp tử vong này là ước tính giảm số người chết sẽ đạt được nếu các yếu tố nguy cơ bị phơi nhiễm sẽ bị loại bỏ [trong trường hợp hút thuốc lá, ví dụ] hoặc giảm xuống mức tối ưu, lành mạnh [ Trong trường hợp chỉ số khối cơ thể].

Tất cả các ước tính này được phát triển độc lập. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể tổng hợp tất cả các trường hợp tử vong do ’và kết luận rằng đây là số người chết thực tế. Số lượng tử vong do yếu tố rủi ro trong nhiều trường hợp vượt quá mức do nguyên nhân tử vong.

Dưới đây, trong phần của chúng tôi về đo lường, chúng tôi mô tả chi tiết hơn về cách các nhà dịch tễ học về gánh nặng toàn cầu của nghiên cứu bệnh về các yếu tố rủi ro đối với tỷ lệ tử vong.

Số người chết theo yếu tố rủi ro

Các ước tính được hiển thị trong hình ảnh này cho thấy số lượng tử vong do các yếu tố rủi ro cụ thể trong năm 2017.

Ở đây chúng ta thấy rằng có một số yếu tố nguy cơ chi phối cho cái chết: đáng chú ý, những yếu tố liên quan đến các yếu tố lối sống trong chế độ ăn uống và hoạt động [bao gồm huyết áp, hoạt động thể chất, chỉ số khối cơ thể, lượng đường trong máu và ăn kiêng]; hút thuốc; ô nhiễm không khí [cả ngoài trời và trong nhà]; Các yếu tố môi trường bao gồm nước sạch và vệ sinh; và quan hệ tình dục an toàn [để ngăn ngừa HIV/AIDS].

Điều này được thể hiện cho những cái chết trên toàn thế giới. Nhưng bạn có thể khám phá dữ liệu về số người tử vong hàng năm theo nguyên nhân cho bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào bằng cách sử dụng chuyển đổi quốc gia thay đổi trên mạng. Sự đóng góp của các yếu tố rủi ro cụ thể thay đổi đáng kể theo quốc gia.

Đối với hầu hết các quốc gia có thu nhập cao, các yếu tố rủi ro thống trị là những yếu tố liên quan đến chế độ ăn uống lành mạnh, hút thuốc và uống rượu. Các yếu tố rủi ro khác như nước sạch, vệ sinh và lãng phí trẻ em hoặc còi cọc là rất thấp. Ở các nước thu nhập thấp, nghịch đảo là đúng: ví dụ, ở Sierra Leone, các yếu tố rủi ro hàng đầu bao gồm lãng phí trẻ em, ô nhiễm không khí gia đình, nguồn nước không an toàn, vệ sinh kém và thiếu tiếp cận với các cơ sở rửa tay. Đối với các quốc gia nơi HIV/AIDS là gánh nặng sức khỏe lớn, như Nam Phi và Kenya, tình dục không an toàn là yếu tố rủi ro hàng đầu.

Dữ liệu ở đây được đo trên tất cả các nhóm tuổi và cả hai giới tính - số liệu cho các nhóm tuổi cụ thể được trình bày chi tiết dưới đây.

Các yếu tố nguy cơ tử vong theo độ tuổi

Nguyên nhân bởi nguyên nhân

  • Bệnh tim mạch
  • Ung thư
  • Chứng mất trí
  • Bệnh tiêu chảy
  • Bệnh lao
  • Suy dinh dưỡng
  • HIV/AIDS
  • Bệnh sốt rét
  • Hút thuốc
  • Tự tử
  • Vụ giết người
  • Thảm họa thiên nhiên
  • Sự cố đường bộ
  • Chết đuối
  • Ngọn lửa
  • Khủng bố
  • Cái chết của động vật

Bệnh tim mạch

Ung thư

Chứng mất trí

Bệnh tiêu chảy

Bệnh lao

Suy dinh dưỡng

Ung thư

Chứng mất trí

Bệnh tiêu chảy

Chứng mất trí

Bệnh tiêu chảy

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ chứng mất trí nhớ trên toàn thế giới. Lưu ý rằng những tỷ lệ này đã được chuẩn hóa theo độ tuổi nhằm mục đích sửa chữa sự khác biệt trong cấu trúc tuổi của dân số [khác nhau giữa các quốc gia và thay đổi theo thời gian]. Do đó, điều này cho phép chúng tôi so sánh khả năng bất kỳ cá nhân nào sẽ chết vì mất trí nhớ giữa các quốc gia và theo thời gian.

Trên hầu hết các quốc gia, tỷ lệ tử vong do bệnh liên quan đến chứng mất trí nhớ là dưới 55 trên 100.000 cá nhân. Tỷ lệ chứng mất trí nhớ ở một số quốc gia đã thay đổi một chút kể từ năm 1990, nhưng ít hơn đáng kể so với các gánh nặng bệnh khác.

Thông tin thêm

Bệnh tiêu chảy

Các bệnh tiêu chảy được gây ra chủ yếu bởi mầm bệnh virus và vi khuẩn. Chúng đặc biệt chiếm ưu thế ở thu nhập thấp hơn, nơi có khả năng tiếp cận vệ sinh an toàn, nước uống và vệ sinh an toàn. Bệnh tiêu chảy là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong do các bệnh tiêu chảy trên toàn thế giới.

Bệnh lao

Bệnh lao [TB] là một bệnh gây ra bởi sự ăn vào của vi khuẩn [Mycobacterium tuberculosis] ảnh hưởng đến phổi. Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] ước tính rằng lên đến một phần tư dân số toàn cầu có bệnh lao tiềm ẩn, có nghĩa là họ đã bị nhiễm bệnh nhưng không bị bệnh [mặc dù điều này không ức chế nó hoạt động trong tương lai ].

Những người có hệ thống miễn dịch bị xâm phạm, chẳng hạn như những người bị suy dinh dưỡng, tiểu đường hoặc là người hút thuốc có nhiều khả năng bị bệnh mắc bệnh lao. Có một liên kết mạnh mẽ giữa HIV/AIDS và TB: & NBSP; những người bị nhiễm HIV có khả năng mắc bệnh lao hoạt động hoạt động cao gấp 20-30 lần.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong do bệnh lao trên toàn thế giới.

Trên hầu hết các quốc gia, tỷ lệ tử vong từ bệnh lao là dưới 5 trên 100.000. Tỷ lệ trong năm 2017 trên khắp Đông Âu cao hơn một chút, từ 5-10 trên 100.000. Trên khắp Nam Á, chúng đạt 25-50 trên 100.000, với tỷ lệ cao nhất trên khắp châu Phi cận Sahara dao động từ 50 đến hơn 250 trên 100.000.

Thông tin thêm

Bệnh tiêu chảy

Các bệnh tiêu chảy được gây ra chủ yếu bởi mầm bệnh virus và vi khuẩn. Chúng đặc biệt chiếm ưu thế ở thu nhập thấp hơn, nơi có khả năng tiếp cận vệ sinh an toàn, nước uống và vệ sinh an toàn. Bệnh tiêu chảy là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong do các bệnh tiêu chảy trên toàn thế giới.

Bệnh lao

Thông tin thêm

HIV/AIDS

Bệnh tiêu chảy

Các bệnh tiêu chảy được gây ra chủ yếu bởi mầm bệnh virus và vi khuẩn. Chúng đặc biệt chiếm ưu thế ở thu nhập thấp hơn, nơi có khả năng tiếp cận vệ sinh an toàn, nước uống và vệ sinh an toàn. Bệnh tiêu chảy là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong do các bệnh tiêu chảy trên toàn thế giới.

Bệnh lao

Bệnh lao [TB] là một bệnh gây ra bởi sự ăn vào của vi khuẩn [Mycobacterium tuberculosis] ảnh hưởng đến phổi. Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] ước tính rằng lên đến một phần tư dân số toàn cầu có bệnh lao tiềm ẩn, có nghĩa là họ đã bị nhiễm bệnh nhưng không bị bệnh [mặc dù điều này không ức chế nó hoạt động trong tương lai ].

Những người có hệ thống miễn dịch bị xâm phạm, chẳng hạn như những người bị suy dinh dưỡng, tiểu đường hoặc là người hút thuốc có nhiều khả năng bị bệnh mắc bệnh lao. Có một liên kết mạnh mẽ giữa HIV/AIDS và TB: & NBSP; những người bị nhiễm HIV có khả năng mắc bệnh lao hoạt động hoạt động cao gấp 20-30 lần.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong do bệnh lao trên toàn thế giới.

Trên hầu hết các quốc gia, tỷ lệ tử vong từ bệnh lao là dưới 5 trên 100.000. Tỷ lệ trong năm 2017 trên khắp Đông Âu cao hơn một chút, từ 5-10 trên 100.000. Trên khắp Nam Á, chúng đạt 25-50 trên 100.000, với tỷ lệ cao nhất trên khắp châu Phi cận Sahara dao động từ 50 đến hơn 250 trên 100.000.

Suy dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng phát sinh dưới nhiều hình thức khác nhau, với định nghĩa rộng lớn nắm bắt sự thiếu dinh dưỡng, thiếu sót vi chất dinh dưỡng và béo phì. Trong trường hợp này, chúng tôi đề cập đến suy dinh dưỡng năng lượng protein ‘[PEM] đề cập đến sự thiếu hụt năng lượng hoặc protein gây ra bởi lượng thức ăn không đủ. Thiếu năng lượng protein cũng có thể làm trầm trọng thêm do nhiễm trùng hoặc bệnh, có thể có tác dụng tăng nhu cầu dinh dưỡng, và/hoặc giảm khả năng của cơ thể để duy trì năng lượng hoặc chất dinh dưỡng. Bạn có thể tìm thấy thêm thông tin về đói và thiếu dinh dưỡng trong mục nhập của chúng tôi.

Hút thuốc là một trong những yếu tố rủi ro hàng đầu thế giới cho cái chết sớm. Thuốc lá là yếu tố nguy cơ của một số nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới, bao gồm phổi và các dạng ung thư, bệnh tim và bệnh hô hấp khác. & NBSP;

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ hút thuốc lá trên toàn thế giới.

Tự tử

Mỗi vụ tự tử là một thảm kịch. & NBSP; với các can thiệp kịp thời, dựa trên bằng chứng, các vụ tự tử có thể được ngăn chặn.6

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong do tự tử trên toàn thế giới.

Vụ giết người

Các vụ giết người có chủ ý được định nghĩa là một cái chết bất hợp pháp cố tình gây ra cho một người bởi người khác .7 Bằng chứng về cái chết trong các bài báo được liên kết.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ giết người trên toàn thế giới.

Thảm họa thiên nhiên

Thảm họa tự nhiên có thể xảy ra dưới nhiều hình thức - từ động đất và sóng thần, đến các sự kiện thời tiết khắc nghiệt và sóng nhiệt.

Các sự kiện thảm họa lớn nhất thường không thường xuyên, nhưng có nghĩa là tác động cao có sự thay đổi đáng kể trong tử vong từ năm này qua năm khác.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ thảm họa tự nhiên trên toàn thế giới.

Sự cố đường bộ

Cái chết của sự cố đường bộ bao gồm những người lái xe - xe cơ giới và người đi xe máy - ngoài người đi xe đạp và người đi bộ.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ các sự cố đường bộ trên toàn thế giới.

Tỷ lệ tử vong thường thấp nhất trên khắp Tây Âu và Nhật Bản, với ít hơn 5 trường hợp tử vong trên 100.000 cá nhân. Trên khắp châu Mỹ, tỷ lệ thường cao hơn một chút ở mức 5 đến 20; Hầu hết các quốc gia ở châu Á nằm trong khoảng từ 15 đến 30; và tỷ lệ thường cao nhất trên khắp châu Phi cận Sahara với hơn 25 trên 100.000.

Thông tin thêm

Chết đuối

Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] nhấn mạnh rằng chết đuối là một trong những nguyên nhân bị bỏ qua, có thể phòng ngừa được trên khắp thế giới.8 Đối với mọi quốc gia trên thế giới, Drowning là một trong số 10 kẻ giết người hàng đầu cho trẻ em. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Bangladesh, đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu cho trẻ em dưới 15 tuổi.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ chết đuối trên toàn thế giới.

Trong năm 2016, tỷ lệ tử vong cao nhất ở Papua New Guinea và Seychelles, từ 10 đến 16 trường hợp tử vong trên 100.000. Tỷ lệ cũng có nhiều quốc gia như Bangladesh, Cộng hòa Trung Phi, Việt Nam và Haiti.

Nếu chúng ta nhìn vào tỷ lệ tử vong, chúng ta thấy sự sụt giảm đáng kể kể từ năm 1990-đặc biệt là ở các nước thu nhập thấp đến trung bình. Ví dụ, ở Bangladesh và Trung Quốc, tỷ lệ đã giảm hơn hai phần ba trong giai đoạn này.

Thông tin thêm

Chết đuối

Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] nhấn mạnh rằng chết đuối là một trong những nguyên nhân bị bỏ qua, có thể phòng ngừa được trên khắp thế giới.8 Đối với mọi quốc gia trên thế giới, Drowning là một trong số 10 kẻ giết người hàng đầu cho trẻ em. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Bangladesh, đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu cho trẻ em dưới 15 tuổi.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ chết đuối trên toàn thế giới.

Thông tin thêm

Chết đuối

Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] nhấn mạnh rằng chết đuối là một trong những nguyên nhân bị bỏ qua, có thể phòng ngừa được trên khắp thế giới.8 Đối với mọi quốc gia trên thế giới, Drowning là một trong số 10 kẻ giết người hàng đầu cho trẻ em. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Bangladesh, đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu cho trẻ em dưới 15 tuổi.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ chết đuối trên toàn thế giới.

Trong năm 2016, tỷ lệ tử vong cao nhất ở Papua New Guinea và Seychelles, từ 10 đến 16 trường hợp tử vong trên 100.000. Tỷ lệ cũng có nhiều quốc gia như Bangladesh, Cộng hòa Trung Phi, Việt Nam và Haiti.

Nếu chúng ta nhìn vào tỷ lệ tử vong, chúng ta thấy sự sụt giảm đáng kể kể từ năm 1990-đặc biệt là ở các nước thu nhập thấp đến trung bình. Ví dụ, ở Bangladesh và Trung Quốc, tỷ lệ đã giảm hơn hai phần ba trong giai đoạn này.

Ngọn lửa

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ lửa trên toàn thế giới.

Hầu hết các quốc gia trên khắp châu Mỹ, Tây Âu, Đông Á và tỷ lệ tử vong trung bình ở Châu Đại Dương dưới 2 trên 100.000. Tỷ lệ trên các khu vực khác thường cao hơn ở mức 2-6 trên 100.000. Khi được xem qua thời gian, chúng ta thấy sự suy giảm đáng chú ý về tỷ lệ tử vong do hỏa hoạn, đặc biệt là trên khắp châu Phi cận Sahara và Đông Âu. & NBSP;

Khủng bố

Khủng bố & nbsp; được xác định & nbsp; trong từ điển Oxford như là sự sử dụng bất hợp pháp của bạo lực và sự đe dọa, đặc biệt là chống lại thường dân, trong việc theo đuổi các mục tiêu chính trị. Chúng tôi nhanh chóng thấy rằng định nghĩa này là không đặc hiệu và chủ quan.9 Trong bài viết đầy đủ của chúng tôi về khủng bố, chúng tôi xem xét các định nghĩa được thông qua và cách nó phân biệt với các hình thức bạo lực khác.

Trong bản đồ, chúng ta thấy tỷ lệ tử vong từ khủng bố trên toàn thế giới.

Nhưng có bằng chứng cho thấy sự mất kết nối như vậy tồn tại giữa những gì chúng ta thấy trong tin tức và thực tế cho hầu hết chúng ta là gì?

Một nghiên cứu đã cố gắng xem xét điều này từ quan điểm của những gì chúng ta chết từ: Có phải những gì chúng ta thực sự chết vì được phản ánh trong các phương tiện truyền thông mà các chủ đề này nhận được? 11

Để trả lời điều này, Shen và nhóm của anh ấy đã so sánh bốn nguồn dữ liệu chính:

  • Nguyên nhân tử vong ở Hoa Kỳ [Thống kê được công bố bởi Cơ sở dữ liệu về sức khỏe cộng đồng của CDC Wonder]
  • Xu hướng tìm kiếm của Google về nguyên nhân tử vong [có nguồn gốc từ Google Xu hướng]
  • Đề cập đến & nbsp; Nguyên nhân tử vong ở New York Times [có nguồn gốc từ cơ sở dữ liệu bài viết NYT]
  • Đề cập đến nguyên nhân cái chết trên tờ báo Guardian [có nguồn gốc từ cơ sở dữ liệu bài viết của người bảo vệ]

Đối với mỗi nguồn, các tác giả đã tính toán tỷ lệ tử vong tương đối, chia sẻ của các tìm kiếm của Google và chia sẻ phương tiện truyền thông. Họ đã hạn chế các nguyên nhân được xem xét đối với 10 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ và bao gồm cả khủng bố, giết người và quá liều ma túy. & NBSP; Điều này cho phép chúng tôi so sánh đại diện tương đối giữa các nguồn khác nhau.12

Những gì chúng ta chết từ; Những gì chúng tôi Google; Những gì chúng tôi đọc trong tin tức

Vì vậy, kết quả trông như thế nào? Trong biểu đồ ở đây tôi trình bày so sánh.

Cột đầu tiên đại diện cho mỗi nguyên nhân chia sẻ của chúng tôi tử vong; Phần thứ hai của Google tìm kiếm mà mỗi người nhận được; Thứ ba, bài viết tương đối đề cập trên tờ New York Times; & nbsp; và cuối cùng là bài viết đề cập đến trong & nbsp; The Guardian.

Phạm vi bảo hiểm trên cả hai tờ báo ở đây rất giống nhau. Và sự khác biệt giữa những gì chúng ta thực sự chết và những gì chúng ta nhận được thông tin trên các phương tiện truyền thông là những gì nổi bật:

  • Khoảng một phần ba các nguyên nhân được coi là tử vong do bệnh tim, nhưng nguyên nhân gây tử vong này chỉ nhận được 2-3 % tìm kiếm của Google và phương tiện truyền thông;
  • Chỉ dưới một phần ba số người chết đến từ bệnh ung thư; Chúng tôi thực sự Google Ung thư rất nhiều [37 phần trăm tìm kiếm] và nó là một mục phổ biến ở đây trên trang web của chúng tôi; Nhưng nó chỉ nhận được 13-14 phần trăm của phương tiện truyền thông;
  • Chúng tôi đã tìm kiếm các sự cố đường bộ thường xuyên hơn so với phần tử vong của họ; Tuy nhiên, họ nhận được ít sự chú ý hơn trong các tin tức;
  • Khi nói đến cái chết từ các nét, các tìm kiếm của Google và phương tiện truyền thông được cân bằng đáng ngạc nhiên;
  • Sự khác biệt lớn nhất liên quan đến các hình thức tử vong bạo lực: tự tử, giết người và khủng bố. Cả ba đều nhận được sự chú ý tương đối hơn nhiều trong các tìm kiếm và phương tiện truyền thông của Google so với phần tử vong tương đối của họ. Khi nói đến các phương tiện truyền thông về nguyên nhân tử vong, những cái chết bạo lực chiếm hơn hai phần ba phạm vi bảo hiểm trên tờ New York Times và The Guardian nhưng chiếm chưa đến 3 % tổng số ca tử vong ở Mỹ.

Điều thú vị của người Viking là những gì người Mỹ tìm kiếm trên Google là một sự phản ánh gần gũi hơn nhiều về những gì giết chết chúng ta so với những gì được trình bày trên các phương tiện truyền thông. Một cách để suy nghĩ về nó là các phương tiện truyền thông có thể tạo ra nội dung mà họ nghĩ rằng người đọc quan tâm nhất, nhưng điều này không nhất thiết được phản ánh trong sở thích của chúng tôi khi chúng tôi tìm kiếm thông tin.

.

Làm thế nào quá mức hoặc không được đại diện là những cái chết trên các phương tiện truyền thông?

Như chúng ta có thể thấy rõ từ biểu đồ ở trên, có một sự mất kết nối giữa những gì chúng ta chết và bao nhiêu bảo hiểm những nguyên nhân này có được trên phương tiện truyền thông. Một cách khác để tóm tắt sự khác biệt này là tính toán cách thức quá mức hoặc không được đại diện cho mỗi nguyên nhân trên phương tiện truyền thông. Để làm điều này, chúng tôi chỉ cần tính tỷ lệ giữa tỷ lệ tử vong và chia sẻ của phương tiện truyền thông cho từng nguyên nhân.

Trong bảng xếp hạng này, chúng ta thấy làm thế nào quá mức hoặc không được đại diện cho mỗi nguyên nhân trong các tờ báo.14 Nguyên nhân được thể hiện trong màu đỏ được thể hiện quá mức trên các phương tiện truyền thông; Những người mặc áo xanh là đại diện. Các số biểu thị yếu tố mà chúng được trình bày sai.

Nổi bật lớn ở đây-tôi đã phải phá vỡ thang đo trên trục y vì nó có nhiều thứ tự cao hơn mọi thứ khác-là khủng bố: nó được thể hiện quá mức trong & nbsp; tin tức gần như là 4000.

Các vụ giết người cũng được thể hiện rất nhiều trong các tin tức, bởi một yếu tố 31. được thể hiện nhiều nhất trong các phương tiện truyền thông là bệnh thận [11 lần], bệnh tim [gấp 10 lần], và có lẽ đáng ngạc nhiên là thuốc quá liều [gấp 7 lần] . Đột quỵ và bệnh tiểu đường là hai nguyên nhân được thể hiện chính xác nhất.

[Nhấp vào hình ảnh sẽ mở nó ở độ phân giải cao hơn].

Tiếp xúc với phương tiện truyền thông có nên phản ánh những gì chúng ta chết không?

Từ những so sánh ở trên, nó rõ ràng rằng tin tức không phản ánh những gì chúng ta chết. Nhưng có một câu hỏi quan trọng khác: & nbsp; những điều này có nên là đại diện?

Có một số lý do chúng tôi muốn, hoặc nên, mong đợi rằng những gì chúng tôi đọc trực tuyến và những gì được đề cập trên các phương tiện truyền thông sẽ tương ứng với những gì chúng tôi thực sự chết.

Đầu tiên là chúng tôi hy vọng sẽ có một số khía cạnh phòng ngừa cho thông tin chúng tôi truy cập. Có một lập luận mạnh mẽ rằng những điều chúng tôi tìm kiếm và có được thông tin về việc khuyến khích chúng tôi hành động mà & nbsp; ngăn chặn một cái chết nữa. Có một số ví dụ mà tôi có thể tưởng tượng điều này là đúng. Những người quan tâm đến ung thư có thể tìm kiếm trực tuyến hướng dẫn về các triệu chứng và bị thuyết phục khi gặp bác sĩ của họ. Một số người có suy nghĩ tự tử có thể tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ trực tuyến mà sau đó dẫn đến một cái chết bị ngăn chặn vì tự tử. Do đó, chúng tôi hy vọng rằng cả dự định hoặc không mong muốn tiếp xúc với thông tin về các chủ đề cụ thể có thể ngăn chặn cái chết từ một nguyên nhân nhất định. Do đó, một số mất cân bằng trong tỷ lệ tương đối có ý nghĩa. Nhưng rõ ràng có một số sai lệch trong mối quan tâm của chúng tôi: hầu hết mọi người chết vì bệnh tim [do đó nó phải là điều liên quan đến chúng tôi] nhưng chỉ có một nhóm thiểu số nhỏ tìm kiếm thông tin [có thể phòng ngừa] trực tuyến.

Thứ hai, nghiên cứu này tập trung vào những gì mọi người ở Hoa Kỳ chết, không phải là những gì mọi người trên khắp thế giới chết. Là phương tiện truyền thông đại diện cho cái chết toàn cầu hơn? Không thực sự. Trong một bài đăng trên blog khác, thế giới chết vì gì? ‘, Tôi đã xem xét chi tiết về thứ hạng nguyên nhân tử vong trên toàn cầu và quốc gia. Xếp hạng tương đối của các trường hợp tử vong ở Hoa Kỳ là phản ánh mức trung bình toàn cầu: hầu hết mọi người chết vì bệnh tim và ung thư, và khủng bố xếp hạng cuối cùng hoặc thứ hai cuối cùng [bên cạnh thảm họa tự nhiên]. Khủng bố chiếm 0,06 phần trăm tử vong toàn cầu trong năm 2016. Trong khi chúng tôi mong đợi các sự kiện không phải là Hoa Kỳ sẽ có trong & nbsp; Thời báo New York, & NBSP; Tin tức toàn cầu không nên ảnh hưởng đáng kể đến việc bảo hiểm đại diện cho các nguyên nhân.

Thứ ba liên quan đến bản chất của tin tức: nó tập trung vào các sự kiện và câu chuyện. Trong khi tôi thường chỉ trích các thông điệp và câu chuyện được miêu tả trên các phương tiện truyền thông, tôi có một số thông cảm cho những gì họ chọn để trình bày. Báo cáo đã trở nên ngày càng nhanh chóng. Là người tiêu dùng tin tức, những kỳ vọng của chúng tôi đã nhanh chóng chuyển từ các bản cập nhật hàng ngày, hàng giờ, xuống từng phút về những gì mà xảy ra trên thế giới. Kết hợp điều này với sự hấp dẫn của chúng tôi với các câu chuyện và câu chuyện. Nó không có gì đáng ngạc nhiên khi các phương tiện truyền thông tập trung vào các báo cáo về các sự kiện độc thân [vô tình tiêu cực]: một vụ án giết người hoặc một cuộc tấn công khủng bố. Nguyên nhân bị đánh giá cao nhất của cái chết trong các phương tiện truyền thông là bệnh thận. Nhưng với một khán giả mong đợi một nguồn cấp dữ liệu bảo hiểm từng phút, có thể nói bao nhiêu về bệnh thận? Nếu không chinh phục sự ép buộc của chúng tôi cho câu chuyện bất thường mới nhất, chúng tôi không thể mong đợi đại diện này sẽ được cân bằng hoàn hảo.

Cách chống lại sự thiên vị của chúng tôi cho các sự kiện duy nhất

Phương tiện truyền thông và người tiêu dùng của nó bị mắc kẹt trong một chu kỳ củng cố. Các báo cáo tin tức về các sự kiện phá vỡ, thường dựa trên một câu chuyện hấp dẫn. Người tiêu dùng muốn biết những gì diễn ra trên thế giới & nbsp; - chúng tôi nhanh chóng đắm chìm trong tiêu đề mới nhất. Chúng tôi mong đợi các bản cập nhật tin tức với tần suất ngày càng tăng và các kênh truyền thông có các ưu đãi rõ ràng để cung cấp. Điều này khóa chúng ta vào một chu kỳ kỳ vọng và phạm vi bảo hiểm với sự thiên vị mạnh mẽ cho các sự kiện ngoại lệ. Hầu hết chúng ta bị bỏ lại với một nhận thức sai lệch về thế giới; chúng tôi nghĩ rằng thế giới tồi tệ hơn nhiều so với nó .15we are quickly immersed by the latest headline. We come to expect news updates with increasing frequency, and media channels have clear incentives to deliver. This locks us into a cycle of expectation and coverage with a strong bias for outlier events. Most of us are left with a skewed perception of the world; we think the world is much worse than it is.15

Trách nhiệm trong việc phá vỡ chu kỳ này nằm ở cả nhà sản xuất truyền thông và người tiêu dùng. Chúng ta sẽ ngừng báo cáo và đọc tin tức mới nhất? Không thể. Nhưng tất cả chúng ta có thể ý thức hơn về cách chúng ta để tin tức này hình thành sự hiểu biết của chúng ta về thế giới.

Và các nhà báo có thể làm tốt hơn nhiều trong việc cung cấp bối cảnh của các xu hướng rộng hơn: ví dụ: nếu báo cáo về một vụ giết người, bao gồm bối cảnh về tỷ lệ giết người đang thay đổi theo thời gian.16

Vì người tiêu dùng truyền thông, chúng ta có thể nhận thức rõ hơn về thực tế rằng chỉ dựa vào phạm vi tin tức 24/7 là hoàn toàn không đủ để hiểu về tình trạng của thế giới. Điều này đòi hỏi chúng tôi phải kiểm tra sự thiên vị [thường vô thức] của chúng tôi đối với các câu chuyện đơn lẻ và tìm kiếm các nguồn cung cấp một quan điểm dựa trên thực tế về thế giới.

Thuốc giải độc cho tin tức này là những gì chúng tôi cố gắng cung cấp tại thế giới của chúng tôi trong dữ liệu. Nó có thể truy cập được cho tất cả mọi người, đó là lý do tại sao công việc của chúng tôi hoàn toàn mở truy cập. Cho dù bạn là nhà sản xuất phương tiện truyền thông hay người tiêu dùng, hãy thoải mái lấy và sử dụng bất cứ thứ gì bạn tìm thấy ở đây.

Thông tin thêm

Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu dựa vào các ước tính được trình bày trong các nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật toàn cầu [GBD] được sản xuất dưới sự lãnh đạo của Viện số liệu và đánh giá sức khỏe. Nghiên cứu được công bố trên The Lancet tại thelancet.com/GBD và được cập nhật thường xuyên nhất; toàn diện; và hầu hết các phân tích và tổng hợp chuyên sâu về nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ của cái chết trên toàn thế giới.

Estimating the causes of death

The IHME’s Global Burden of Disease [GBD] has developed a standardized approach to the attribution of deaths to specific causes.17

Their methodology states that “each death is attributed to a single underlying cause — the cause that initiated the series of events leading to death—in accordance with ICD principles”.18 Data to estimate the causes of deaths is far from complete, particularly in poorer countries, and for this estimation the researchers therefore need to rely on various sources. These sources include vital registration [VR]; verbal autopsy [VA]; surveillance, census and survey data; cancer registries; and police records. GBD then develops a data standardization and processing methodology within which they define data quality and completeness scores, and where necessary adjust completeness to 100% using cause fractions for a given location-age-sex-year and estimated all-cause mortality for that location-age-sex-year.

The GBD assessment is strongly tied to the mortality cause categories as defined within the International Classification of Diseases [ICD] codes, as used by the World Health Organization [WHO].

An important step in the GBD methodology standardization is in reallocating deaths attributed within ICD classifications without an underlying cause of death [for example, senility] which can be an intermediate but not final cause of death. These categories are termed as ‘garbage codes’. GBD redistribute these garbage codes using a methodology explained in detail in Naghavi et al. [2010].19 Note that this redistributing of ‘garbage codes’ in some cases explains the difference in estimates between IHME and WHO, such as for road accident deaths [compared here].

Death and death rate analyses are then carried out by the GBD researchers across all locations, all ages, both sexes and for the period from 1990 onwards based on its Cause of Death Ensemble model [CODEm]. The full description of GBD methodology can be found here.

Estimating the deaths attributed to risk factors

Estimating the risk factors associated with millions of deaths around the world is a complex task — particularly when risk factors can compound and collectively influence the likelihood of disease and, eventually, death.

The Global Burden of Disease [GBD] studies – on which we largely rely on in this article – provide one of, if not the, most in-depth analysis and synthesis of relative risk factors.20

The GBD groups risk factors into four broad categories: behavioral risks, environmental risks, occupational risks, and metabolic risks.

The central tool to estimate the impact of various risk factors is the Comparative Risk Assessment [CRA] conceptual framework21 which details how various risk factors affect health outcomes and ultimately death. For example, there is evidence of links between a higher body mass index [BMI] and the risk of multiple non-communicable diseases [NCDs] including cardiovascular disease, ischemic stroke and some cancers.22

Such risk-outcome pairs [e.g. high BMI and ischemic stroke] are formed based on evidence from cohort studies, randomized trials, and case-control studies.

A key point to emphasise is that attributing deaths to risk factors necessarily implies making assumptions about the magnitude of the causal impact that each factor has on the probability of death, everything else equal. Establishing causal impacts this way is difficult. The GBD studies rely on state-of-the-art evidence from cohort, case studies and trials, but extrapolating from this evidence still requires making assumptions, with an implied margin of error. As scientific research advances, new evidence becomes available – the estimates from the GBD studies adapt, and become more precise when new academic research emerges.

The risk factor estimates presented in this entry represent the ‘attributable burden’

Once a risk-outcome pair has been identified, how does IHME begin to quantify the disease burden or number of deaths attributed to each risk?

The CRA can be used for two different types of assessment, attributable burden and avoidable burden:

  • The avoidable burden represents the potential burden avoided in the future if population exposure to a risk factor was to shift to a counterfactual level of exposure [for example, from its current level to a future scenario where tobacco smoking was eliminated].
  • The attributable burden is an estimation of the reduction of the number of deaths that would have been achieved if the risk factors to which a population is exposed had been eliminated [in the case of tobacco smoking, for example] or reduced to an optimal, healthy level [in the case of body-mass index]. It estimates the number of deaths associated with a risk factor as the difference between a hypothetical ideal world with no exposure to relevant risk factors with the actual exposure to risk factors. This methodology can be applied for the current number of deaths associated with different risk factors and in historical analyses of the past. The data presented in this article here is that of the attributable burden.

Ước tính của gánh nặng có thể trả lời một cách hiệu quả câu hỏi: Đây là số người chết từ một nguyên nhân cụ thể của cái chết - ví dụ: Đột quỵ hoặc một bệnh ung thư cụ thể-nếu mọi người chỉ số khối lượng cơ thể [BMI] bị giảm xuống mức tối ưu, khỏe mạnh? Mức độ lành mạnh/tối ưu này được định nghĩa là mức độ phơi nhiễm rủi ro tối thiểu lý thuyết [TMREL]. Đoàn hệ, nghiên cứu trường hợp và thử nghiệm về mối quan hệ tiếp xúc với rủi ro giữa BMI và đột quỵ thiếu máu cục bộ cho phép tính toán giảm tử vong sẽ xảy ra nếu BMI giảm xuống mức khỏe mạnh trong quá trình phân phối dân số. Mối quan hệ này có thể được thiết lập bởi các nhóm nhân khẩu học cụ thể, chẳng hạn như theo giới tính hoặc tuổi tác. Sự khác biệt giữa số lượng trường hợp tử vong do đột quỵ thiếu máu cục bộ xảy ra ở TMREL và phân phối BMI thực tế được đưa ra như số ca tử vong do BMI cao từ đột quỵ do thiếu máu cục bộ.theoretical minimum risk exposure level [TMREL]‘. Cohort, case studies and trials of established risk-exposure relationships between BMI and ischemic stroke allow for the calculation of the reduction in deaths which would have occurred if BMI was reduced to a healthy level across the population distribution. This relationship can be established by specific demographic groups, such as by sex or age. The difference between the number of deaths from ischemic stroke which would have occurred at the TMREL and at the actual BMI distribution is given as the number of deaths attributed to high BMI from ischemic stroke.

Bằng cách hoàn thành quá trình này cho tất cả các cặp kết quả rủi ro, IHME có thể tổng hợp để ước tính tổng số trường hợp tử vong do BMI cao và được sao chép cho tất cả các yếu tố rủi ro bằng cách sử dụng các đường cong phơi nhiễm rủi ro cá nhân của họ.

Số lượng tử vong do các yếu tố rủi ro khác nhau không thể tóm tắt

Lưu ý rằng quá trình ước tính này không phải là phụ gia; Nói cách khác, các mối quan hệ cụ thể rủi ro này không tính đến các tác động gộp của nhiều yếu tố rủi ro. BMI cao, ví dụ, có thể có mặt với các yếu tố lối sống khác như mức độ hoạt động thể chất thấp, huyết áp cao, trái cây và rau quả thấp. Tất cả các ước tính này được phát triển độc lập. Do đó, chúng tôi không thể tổng hợp tất cả các trường hợp tử vong do ’và kết luận rằng đây là số người chết thực tế. Số lượng tử vong do yếu tố rủi ro trong nhiều trường hợp vượt quá mức do nguyên nhân tử vong.

Ví dụ, biểu đồ ở đây cho thấy các yếu tố nguy cơ của các bệnh tim mạch. 18 triệu người đã chết vì các bệnh tim mạch trong năm 2017. Tuy nhiên, nếu bạn tổng hợp các trường hợp tử vong do các yếu tố nguy cơ cá nhân, họ sẽ tăng thêm 18 triệu. Lý do là vì các yếu tố rủi ro này được tính riêng lẻ và phép đo không tính đến các tác động gộp của nhiều yếu tố rủi ro. Ví dụ. Những người ăn ít ngũ cốc và trái cây cũng có khả năng có chế độ ăn kiêng với tỷ lệ axit béo chế biến cao hơn và tỷ lệ chất xơ thấp hơn.

Có thể tìm thấy sự giải thích về phương pháp đầy đủ về cách tiếp cận của IHME, đối với sự phân bổ yếu tố rủi ro có thể được tìm thấy ở đây.

Hoàn thành việc đăng ký nguyên nhân tử vong

Bản đồ tương tác này cho thấy tỷ lệ những cái chết có nguyên nhân gây ra thông tin tử vong được ghi lại.

Nó được tính là số người chết đã được đăng ký với thông tin nguyên nhân trong một hệ thống đăng ký quan trọng của quốc gia, chia cho tổng số ca tử vong dự kiến ​​trong một năm nhất định. Những cái chết dự kiến ​​được ước tính bởi tổ chức y tế thế giới [WHO] dựa trên những thay đổi về tỷ lệ tử vong và xu hướng nhân khẩu học ở một quốc gia nhất định.

Nguồn dữ liệu

Viện nghiên cứu và đánh giá của Viện Sức khỏe [IHME], gánh nặng toàn cầu [GBD]

  • Dữ liệu: Tỷ lệ tử vong, số lượng tử vong sớm và Dalys tuyệt đối trên tất cả các yếu tố rủi ro và nguyên nhân Death rates, absolute number of premature deaths and DALYS across all risk factors and causes
  • Bảo hiểm địa lý: Toàn cầu, trên tất cả các khu vực và quốc gia Global, across all regions and countries
  • Khoảng thời gian: Hầu hết các số liệu có sẵn từ năm 1990 trở đi Most metrics available from 1990 onwards
  • Có sẵn tại: & nbsp; trực tuyến tại đâyOnline here

Đài quan sát sức khỏe toàn cầu [GHO] của Tổ chức Y tế Thế giới [WHO]

  • Dữ liệu: Nguyên nhân tử vong cụ thể theo độ tuổi và giới tính Causes-specific mortality by age and sex
  • Bảo hiểm địa lý: Toàn cầu, theo khu vực và quốc gia Global, by region and by country
  • Khoảng thời gian: Hầu hết các số liệu có sẵn từ năm 2000 trở đi trong 5 năm gia tăng Most metrics available from 2000 onwards in 5-year incrememnts
  • Có sẵn tại: & nbsp; trực tuyến tại đâyOnline here

Đài quan sát sức khỏe toàn cầu [GHO] của Tổ chức Y tế Thế giới [WHO]

  • Dữ liệu: Nguyên nhân tử vong cụ thể theo độ tuổi và giới tính: Terrorist attacks with 45-120 variables for each, including number of fatalities, injuries, weapons used, and perpetrators
  • Bảo hiểm địa lý: Toàn cầu, theo khu vực và quốc gia Global by country
  • Khoảng thời gian: Hầu hết các số liệu có sẵn từ năm 2000 trở đi trong 5 năm gia tăng 1970 onwards
  • Cơ sở dữ liệu khủng bố toàn cầu [GTD] //www.start.umd.edu/gtd/

Dữ liệu: Các cuộc tấn công khủng bố với 45-120 biến cho mỗi biến, bao gồm số lượng tử vong, thương tích, vũ khí được sử dụng và thủ phạm

  • Bảo hiểm địa lý: Toàn cầu theo quốc gia: International reports of executions
  • Bảo hiểm địa lý: Toàn cầu, theo khu vực và quốc gia Global by country
  • Khoảng thời gian: Hầu hết các số liệu có sẵn từ năm 2000 trở đi trong 5 năm gia tăng 2007 onwards
  • Cơ sở dữ liệu khủng bố toàn cầu [GTD] //www.amnesty.org/en/what-we-do/death-penalty/

Nguyên nhân hàng đầu của cái chết dưới 50 ở Mỹ là gì?

Quá liều cố ý.Như phân loại của CDC ngụ ý, quá liều thuốc và ngộ độc hầu như luôn luôn là hậu quả không lường trước của việc lạm dụng chất gây nghiện.. As the CDC's classification implies, drug overdoses and poisonings are almost always unintended consequences of substance abuse.

Điều gì gây ra cái chết nhiều nhất mỗi năm ở Mỹ?

12 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Hoa Kỳ là gì?Trong hơn một thập kỷ, bệnh tim và ung thư đã tuyên bố các điểm thứ nhất và thứ hai tương ứng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ.Cùng nhau, hai nguyên nhân chịu trách nhiệm cho 46 phần trăm tử vong ở Hoa Kỳ.heart disease and cancer have claimed the first and second spots respectively as the leading causes of deaths in America. Together, the two causes are responsible for 46 percent of deaths in the United States.

Nguyên nhân hàng đầu số 1 của cái chết ở Mỹ và toàn cầu là gì?

Bệnh tim mạch bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu. Cardiovascular disease is the top cause of death globally.

Nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ CDC là gì?

Chấn thương và bạo lực là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong |Trung tâm thương tích |CDC. Are Leading Causes of Death | Injury Center | CDC.

Chủ Đề