Biên niên ký là gì

VHSG- Bây giờ, hầu như người yêu văn chương nào cũng ít nhiều nghe đến cái tên Lê Vũ Trường Giang…

1. So với các báo/tạp chí về văn học nghệ thuật, Sông Hương, thời nào cũng vậy, luôn là tạp chí vươn hẳn khỏi địa phương, ra với văn nghệ sĩ cả nước, thậm chí là với cộng đồng hải ngoại. Và trong lấp lánh bề dày với nhiều dấu ấn của tạp chí, chắc hẳn không nhiều người nhớ, Sông Hương từng tổ chức cuộc thi sáng tác truyện ngắn dành cho sinh viên Huế vào năm 2009 – 2010.

Đó là thời điểm những người quan tâm đến nhịp đập văn nghệ ở Cố đô bắt đầu thảng thốt hoang mang, khi những 7X như Văn Cầm Hải, Nguyễn Lãm Thắng, Đông Hà, Phạm Nguyên Tường, Lê Mỹ Ý… từng sôi lên và dần đi vào “vết lăn trầm” mà hơn 10 năm qua chưa thấy lớp kế cận.

Nhà thơ Lê Vũ Trường Giang

Thật bất ngờ, cuộc thi kiểu đóng cửa bảo nhau ở Huế ấy mà những trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa được xướng tên, đến giờ đã chững chạc giữa làng văn trẻ, là Nguyễn Lê Vân Khánh, Lê Vũ Trường Giang và Lê Minh Phong.

Ngay sau cuộc thi, cả ba cây viết trẻ đều được tòa soạn dọn đường, ngỏ lời mời về làm biên tập viên của tạp chí. Lê Vũ Trường Giang và Lê Minh Phong gật đầu, bước thẳng từ giảng đường đại học về ngôi nhà văn chương của xứ Huế, trong sự ngỡ ngàng ngưỡng mộ của nhiều người.

Chưa dừng lại. Vẫn năm đó, tin vui từ Hà Nội loang về xua tan hơi lạnh xứ Huế, khi Giang nhận tặng thưởng truyện ngắn hay năm 2010 của tạp chí Văn nghệ Quân đội. Truyện ngắn “Ngủ giữa trùng sơn” phục dựng đám tang vua Gia Long, lôi cuốn và ám ảnh.

“Văn chương “Ngủ giữa trùng sơn” già giặn, nghiêm cẩn, chi tiết chọn kĩ, sắc bén, còn nhân vật thì lạnh lùng và lồng lộng”, theo lời lão nhà văn Hồng Nhu, đã vượt qua tất cả các truyện ngắn khác trong năm của tạp chí Văn nghệ Quân đội. Với tuổi 22, mới bước vào nghề viết chưa lâu, quả là dấu ấn đặc biệt.

2. Bây giờ, hầu như người yêu văn chương nào cũng ít nhiều nghe đến cái tên Lê Vũ Trường Giang. Ít ai biết, thuở ban đầu, Giang từng cắt phăng họ Lê, chỉ để tên Vũ Trường Giang cho gọn. Rồi Giang giật mình, khi bút hiệu này dễ bị nhà văn đàn anh 7X Vũ Đình Giang đang đình đám thời điểm đó phủ lên, che lấp, nên lại “anh trở về đúng nghĩa cái tên anh”. Nhưng nhìn bạn viết ra sách và tuyên ngôn chóng mặt chỗ này chỗ kia, dường như Giang có phần phảng phất hoang mang giật mình sốt ruột.

Lần đó Giang hỏi tôi, có nên đổi bút hiệu khác không? Cảm giác tên dài quá, nặng quá, cứ trì níu Giang lại, không cất lên được. Tôi nghĩ ngay đến trường hợp anh lính Nguyễn Duy Nhuệ lột xác thành Nguyễn Duy và Thao Trường thành Nguyễn Khắc Trường, phất lên sừng sững. Nhưng tôi đã nói Giang nên “nằm im chờ trời sáng”. Vì với tôi, Lê Vũ Trường Giang đã là cái tên rất rõ ràng, đã định hình. Chưa kể, văn chương là đường dài. Vẫn biết người trẻ nào cũng rộn ràng háo hức, nhanh nhanh muốn khẳng định mình.

Cái hay cũng là cái khó của Giang, là ngay khi xuất hiện đã ra dáng, chững chạc, người lớn. Không như tôi cùng bạn bè trang lứa, đi từ văn chương tuổi mới lớn lên văn chương người lớn. Nên người khác dễ nhìn ra sự trở mình hơn. Cái hay cũng là cái khó nữa, là Giang ở Huế. Huế đủ tĩnh lặng để người viết đào sâu vào mình mà chưng cất thành văn, nhưng Huế cũng quá trầm để mở ra những cơ hội cho trang văn đến với số đông.

Không rõ Giang có hỏi thêm ai nữa không? Nhưng Giang giữ nguyên bút hiệu theo tên khai sinh ban đầu. Và thời gian trả lời rằng tôi nghĩ đúng. Sau tập truyện đầu tay “Ngủ giữa trùng sơn” [Giải B, Giải thưởng Văn học Cố đô lần V, 2008 – 2013], đến các tập bút kí, tản văn “Đi như là ở lại”, “Nở tàn biên niên kí”, “Căn cước xứ mưa”, Lê Vũ Trường Giang đã tạc được văn của mình vào lòng độc giả cả nước.

Một số tác phẩm của Tiến sĩ- Nhà văn Vũ Trường Giang

3. Lợi thế của một người học sử, nghiên cứu sử, nhưng là sử thế giới, Lê Vũ Trường Giang soi vào sử Việt, sử Huế, sử chính ngôi làng của mình, cùng thiên tính lãng du, với thực – tế – địa – lí và thực – tế – trang – sách, để tạo ra sức nặng và dư ba cho con chữ của mình trong các sáng tác. Sức nặng này có được nhờ sự dung chứa nhiều sâu của lịch sử, văn hóa, cùng giọng văn duy mĩ, làm đẹp và sang hơn cho tiếng Việt. Tôi tự tin khi nói, ở Huế, sau bút kí văn học, theo đúng nghĩa, của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Văn Cầm Hải, thì Lê Vũ Trường Giang là người được gọi tên.

Chả thế mà giữa ngổn ngang các sáng tác hư cấu, tiểu thuyết và truyện ngắn, tập bút kí “Đi như là ở lại” đã đưa Giang chạm đến giải thưởng sách tư nhân “Chạm” năm 2018, do chính ban giám khảo là các nhà văn và nhà phê bình khó tính chọn. Có thể xếp “Đi như là ở lại” vào dạng sách du kí, nhưng ở “riêng một góc trời”. Không giống thứ du kí đang thịnh hành ra nhan nhản mấy năm vừa qua của các tác giả trẻ, đi năm châu bốn biển check in viết sách, rồi cài cắm quảng cáo trong sách. Văn của Giang không trôi tuột đi khi gấp sách lại, nó bắt độc giả phải đọc chậm, ngấm sâu rồi thành thứ gây nhớ.

Chính “Đi như là ở lại” lại đưa Lê Vũ Trường Giang đến với giải B tiếp theo của Giải thưởng Văn học Cố đô lần VI [2013 – 2018] và bút kí cùng tên đoạt giải Nhì cuộc thi bút ký – truyện ngắn 2018 – 2019 trên tạp chí Cửa Việt. Và vẫn là mạch sử, Giang nhận giải Ba cuộc thi truyện ngắn trên tạp chí Văn nghệ Quân đội 2018 – 2019 qua hai truyện “Từ bờ bên kia” và “Quẩn mãi bóng người”.

4. Nhìn lại sự vận động của các lớp tác giả trẻ hiện nay, tôi cảm giác người trẻ [trong đó có tôi] thường viết nhiều hơn nghĩ. Thời gian dành cho việc nghĩ suy, để nuôi văn trong đầu, ít hơn thời gian viết. Lê Vũ Trường Giang thuộc về số ít đi theo chiều ngược lại. Giang trăn trở, suy nghiệm nhiều về nghề viết, về văn chương. Đó không phải âm mưu để lập danh bằng chữ, thành ông nọ bà kia trong làng văn, mà cốt làm sao để con chữ thỏa mãn đam mê.

Trong nhiều lần trở lại Huế, Giang dẫn tôi ngang dọc khắp nơi, hay trong những lần Giang chớp nhoáng Sài Gòn, ngồi cà phê đâu đó nơi vòng xoay với bộn rộn nhịp thở người, tôi nhận ra mình còn hời hợt quá. Dứt khoát không phải Giang chém gió. Càng không phải kiểu tẩu hỏa nhập văn như một số người. Mà là gan ruột từ Giang. Nghe Giang nói, cảm giác như Giang đã xắn quần xắn tay áo nhảy xuống ruộng chữ từ lâu rồi mà mình còn đứng trên bờ ngó trước nhìn sau, không thể sao cũng được răng cũng ừ nữa.

Giang khiến tôi nghĩ về văn chương, về những người trẻ chúng tôi. Rồi chúng tôi sẽ đi đến đâu, con chữ và sức trẻ sẽ đẩy chúng tôi trôi dạt như thế nào. Ngoài kia ồn ào và náo nhiệt quá. Có ai còn đủ bình tâm để soi vào trang văn không, hay chúng tôi đang tự ảo tưởng, vẽ nên thứ vô hình để tự vui và an ủi chính mình?

5. Có lần tôi rủ Lê Vũ Trường Giang Nam tiến. Sài Gòn đủ đất để Giang bung hết sức, để quẩy đạp và tung tẩy. Tiến sĩ thật như Giang kiếm chỗ nào đó ở giảng đường đại học chắc không khó. Viết và “nhập vai” được như Giang có thể kiếm việc khác cũng dễ. Nhưng Giang lắc đầu. Gia đình lớn là thứ níu kéo Giang ở lại Huế.

Lần Giang ra mắt người yêu. Một o gái Huế nhưng không phải “Chân đi gót nhẹ xanh hồn cỏ” mà xinh xinh, năng động. O gái Huế cùng quê nhưng học đại học và bám trụ Sài Gòn. Tôi đinh ninh tình yêu có thể bốc Giang khỏi quê nhà xứ sở. Nhưng không, chính Giang làm cuộc rước nàng hồi hương.

Phải đến khi đọc “Nở tàn biên niên kí” của Giang tôi mới hiểu. Ngôi làng Thần Phù, những con người và đất quê “ăn” vào Giang thế nào. Tôi phục những người đứng ở xứ mình mà vẫn minh định nên mình, không bị ánh sáng kinh kì hút về. Xét đến cùng, người viết nào cũng đều bới quê hương bản quán và ấu thơ của mình ra mà viết cả. Dù ở nơi đâu. Nhưng không đứng từ xa nhìn về mà vẫn viết hay được thì tài hơn nhiều.

Lê Vũ Trường Giang nói: “Nghiệp viết suy cho cùng là cái duyên phú, là sự phân công của xã hội để giữ lại hồn cốt, tâm lý, thể tính của thời đại chúng ta đang sống. Ngoài kia, “những chân trời không có người bay” vẫn đang chờ chúng ta gặt mây và hái nắng. Trong sự lang thang cùng con chữ, “tìm giới hạn” và “chỗ đứng một và chỉ một” của chúng ta khả dĩ “mua vui cũng được một vài trống canh” ấy là đã vượt thoái khỏi vũ môn – cái tôi nhỏ bé của mình rồi”.

Phải, ngày ngày sông Hương vẫn dùng dằng chảy. Con đường từ làng Thần Phù lên Huế dập dìu sương sớm gió chiều, vẫn theo Giang. Và tôi biết, Giang vẫn cần mẫn cùng trang văn phía trước. Và tôi tin, Giang đang gặt mây và hái nắng. Với văn chương…

VĂN THÀNH LÊ

Tiếng hót của con chim vặn dây cót chỉ vang lên vào những thời khắc quyết định, khi con người tỉnh thức những tiếng lòng thầm kín, hay khoảnh khắc thấu suốt cảm giác về Định mệnh; tiếng chim tiên báo những thảm hoạ khốc liệt khơi nguồn từ chính con người, cũng là tiếng thúc giục âm thầm của khát vọng đi tìm chân lý. Tiếng hót của chim vặn dây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim dây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami.

Nguyễn Anh Dân

Hầu hết các thông điệp, các ý nghĩa tầng ngầm cũng như các phương thức nghệ thuật đều có mối quan hệ mật thiết với biểu tượng, thông qua biểu tượng để khám phá tác phẩm. Và quả thực, đây không phải là một tác phẩm dễ giải mã khi mà trong nó ngồn ngộn hệ thống ký hiệu quy ước của cá nhân - những biểu tượng của tác giả.

2. Biên niên ký chim vặn dây cót được bắt đầu bằng sự biến mất của con mèo Wataya Noburu, đó là dấu hiệu của sự tan vỡ hay một sự biến đổi quan trọng, đúng lúc đó Kumiko đã biến mất sau sự ra đi của con mèo - đó là sự ra đi theo tiếng gọi bầy đàn như con mèo của cô. Con mèo là biểu tượng của sự tan vỡ và thay đổi dòng chảy.

Chiếc giếng cạn ở Nội Mông cũng như chiếc giếng trong căn nhà hoang là hai biểu tượng có mối quan hệ với nhau: một bên là điểm đến của sự mặc khải, một bên là điểm bắt đầu của sự tìm kiếm mặc khải. Nó đồng thời là một biểu tượng của sự vô cảm, của hành động tuyệt giao với thế giới bên ngoài, đó là sự phủ nhận niềm tin của tư duy vào đời sống hiện thực ngoài kia: “Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là 'sự vô cảm tuyệt đối'. Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa” [tr.80]. Xuống giếng với Toru Okada là hành trình tìm kiếm chân lý và đúng như Honda đã nói: “Hễ đi lên thì phải chọn ngọn tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy” [tr.64]. Con người ta chỉ có thể tìm được chân lý khi đã đến được với đỉnh cao tuyệt đối để quan sát hay đến tận cùng của khổ đau để chiêm nghiệm, chẳng dễ gì đạt đến đốn ngộ khi sống ở giữa lưng chừng.

Quảng cáo

Cuộc sống của những con người hiện đại trong Biên niên ký chim vặn dây cót là một cuộc sống lưng chừng như thế, họ bị bó hẹp trong khoảng không gian tù túng, chật hẹp của xã hội tựa như ngôi nhà hoang, như cái ngõ cụt mà Toru Okada đi tìm kiếm con mèo. Đó là một không gian thiếu sức sống, bị bỏ quên giữa dòng đời ồn ào, náo nhiệt - một sự lãng quên chua xót: “Nó vẫn đứng nguyên đấy, lặng ngắt như mọi khi. Trên nền trời xám trĩu nặng, căn nhà hai tầng với những cánh cửa đóng im ỉm trồi lên đen thẫm…” [tr.72]. Con người hiện đại cũng đang bị lãng quên như thế, họ cũng đang lãng quên người khác như thế, và cuối cùng số phận của họ cũng như cái tượng chim không tâm hồn, bất động trong ngôi nhà hoang ấy mà thôi.

Tất cả họ cần những ánh sáng mặc khải như thứ ánh sáng huyền nhiệm của mặt trời Nội Mông nhưng dễ gì có được với họ, nó đã trở thành quá khứ, nó không còn tồn tại ở hiện tại. Vậy nên cái biểu tượng của sự cứu rỗi ấy cũng trở nên xa vời đối với những con người đang bị kìm kẹp trong dục vọng của đời mình.

Quảng cáo

Dấu hiệu duy nhất của sự mặc khải hiện tại nằm trong vết nám trên khuôn mặt của Toru Okada. Dường như đó là sự đánh dấu của lịch sử trên gương mặt của người được lựa chọn - anh được lựa chọn để cứu rỗi con người ra khỏi những đày đọa của chính họ. Và quả thực anh đã làm được điều mà người ta trông đợi mặc dù tưởng chừng anh đã phải bỏ cả mạng sống của mình, đó là biểu hiện cao đẹp của những con người dấn thân: “…Và trong khi làm vậy, anh cũng đã cứu được nhiều người. Nhưng bản thân mình thì anh lại không cứu được. Anh đã dốc cạn sức mình, đem cả tính mạng mình ra để cứu người khác. Hạt giống của anh thảy đã gieo chỗ khác hết rồi, giờ túi anh rỗng không…” [tr.687].

Quả thực nếu viên bác sĩ thú y là tiền kiếp của Toru Okada thì chính anh chứ không phải người đàn ông kia đã thực hiện được thiên sứ của mình, có thể viên bác sĩ ý thức được sự vần chuyển của thế giới nhưng không đủ sức để vần xoay nó: “Từ khi còn trẻ anh đã có một nhận thức minh bạch kỳ lạ rằng: “Ta với tư cách cá nhân, đang sống dưới sự kiểm soát của một thế lực ở bên ngoài ta”. Đây hẳn vì vết bầm màu xanh dương sống động trên má phải của anh” [tr.592]. Còn Toru Okada với sự dấn thân của mình, anh đã chiến đấu để chống lại cái trật tự cuồng loạn của hiện thực để cứu người vợ mình, cứu thêm nhiều người khác, để cái dòng chảy bị ngăn trở trở nên khai thông.

Vấn đề là họ cần một thứ công cụ để khai thông, xét cho cùng, ngoài vết bầm trên mặt thì cây gậy bóng chày có mối quan hệ mật thiết với Toru Okada và viên bác sĩ hơn cả. Nếu trong thời điểm trước đó, cây gậy bóng chày là thứ vũ khí mà toán lính Nhật hành quyết cậu thanh niên người Mãn Châu Quốc thì sau này, nó là cây gậy để giải quyết cuộc đời của Wataya Noburu. Trước đó nó dùng để đánh vào đầu kẻ thù và viên bác sĩ thú y cũng bị kéo vào lòng cái chết. Sau này nó cũng được dùng để đánh vào kẻ thù nhưng không phải là thứ kẻ thù ngoại bang mà là đồng quốc với chính mình. Hẳn đó là một kết cục đau xót cho tội ác hay là một thứ thông điệp về quy luật nhân quả: tội ác không có biên giới và mọi tội ác đều phải trả giá.

3. Trong tác phẩm này, Murakami đã sáng tạo ra một hình tượng -biểu tượng độc đáo, xuyên suốt toàn tác phẩm, nó cũng chính là điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm: biểu tượng chim vặn dây cót. Nó hoàn toàn là một loài chim tưởng tượng, không hề tồn tại trên thế gian, nó chỉ tồn tại trong phạm vi cái ác và chỉ một vài người trong nhân loại nghe được. Tiếng kêu “quick… quick…” của nó chỉ vang lên với cậu bé trong đêm, với hai người lính trong vườn thú Tân Kinh và với Toru Okada. Nghe được âm thanh của chim vặn dây cót cũng là nghe tiếng gọi của tử thần. Hai người lính trong vườn thú năm nào đều bỏ mạng ở Siberia, một người bị đập toác sọ, một người chết đói, cậu bé trong đêm mất đi giọng nói của mình theo tiếng kêu của con chim kỳ lạ, Toru Okada thì suýt mất mạng. Tiếng chim vặn dây cót chỉ vang lên trong những thời khắc quyết định khi mà cái ác sắp thành hình, khi mà con người đang rõ ràng trượt khỏi quỹ đạo của tính thiện. Đó là tiếng kêu của ý thức để lay động những cơn vô thức tập thể đang cuồng điên trong thế giới loài người. Tiếng kêu ấy trở thành biểu tượng của sự cảnh báo để con người lập lại cân bằng cho chính mình và cho xã hội đồng thời nó cũng là tiếng thúc giục con người đi tìm chân lý, xóa bỏ đi “lời nguyền” mà chim vặn dây cót đem đến. Nó là biểu tượng của sự cứu rỗi. “Tiếng hót của chim vặn giây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim giây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami”. [Khánh Phương - eVăn].

4. Trò chơi biểu tượng còn được Murakami biểu tượng hóa trong từng nhân vật, mỗi nhân vật là một biểu tượng - trước hết là biểu tượng cho chính mình. Trong thế giới nhân vật ấy, có những con người biểu tượng cho quyền lực, cho nhục dục như Wataya Noburu, có những con người biểu tượng cho nỗi nhục quá khứ như Mamiya… Mỗi người trong số họ đều chứa những mâu thuẫn nhất định. Kumiko vừa muốn đi theo tiếng gọi của dục vọng nhưng lại từ chối giữ lại cái thai của mình, chắc chắn đó phải là đứa con của vợ chồng cô nhưng cô lo sợ những phẩm chất của mình sẽ trỗi dậy trong cái hình hài bé nhỏ kia, đó là một hành động đoạn tuyệt với cái ác. Người nghệ sĩ mang hộp đàn guitar đi truyền tải thông điệp đồng cảm đến người khác nhưng đồng thời lại tấn công Toru Okada - biểu hiện trái ngược với những gì anh đã nói, nhưng rất có thể đó là hành động để thức tỉnh cơn mê ngủ của Toru Okada - một cách thức tỉnh đầy bạo lực… Những mâu thuẫn ấy nằm trong bản chất của sự vận động và phát triển của đời sống xã hội. Thế giới của Biên niên ký chim vặn dây cót đầy rẫy những vô thức cá nhân và vô thức cộng đồng đang trỗi dậy. Nó đòi hỏi sự phá vỡ trật tự một cách không khoan nhượng để lấy lại cái phần ý thức người mà mỗi một cá nhân đang tìm kiếm. Sự mâu thuẫn là động lực để tồn tại và phát triển của con người hiện đại.

5. Hệ thống biểu tượng của Biên niên ký chim vặn dây cót đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện không gian, thời gian, nhân vật đến cấu trúc, kết cấu. Từ ngôi nhà hoang, giếng cạn, ánh sáng mặc khải, khách sạn mơ… đến quá khứ, lịch sử hay Toru Okada, Kasahara May, Kumiko, Wataya Noburu… Chúng đã tạo nên một thế giới biểu tượng nhiều màu sắc kết hợp trong những cấu trúc truyện kể độc đáo đã góp phần chuyển tải những thông điệp sâu sắc của Haruki Murakami đến với người đọc.

Video liên quan

Chủ Đề