Các hệ điều hành thuộc họ linux

Khởi đầu, Linux được phát triển cho dòng vi xử lý 386, hiện tại hệ điều hành này hỗ trợ một số lượng lớn các kiến trúc vi xử lý, và được sử dụng trong nhiều ứng dụng khác nhau từ máy tính cá nhân cho tới các siêu máy tính và các thiết bị nhúng như là các máy điện thoại di động.

Ban đầu, Linux được phát triển và sử dụng bởi những người say mê. Tuy nhiên, hiện nay Linux đã có được sự hỗ trợ bởi các công ty lớn như IBM và Hewlett-Packard, đồng thời nó cũng bắt kịp được các phiên bản Unix độc quyền và thậm chí là một thách thức đối với sự thống trị của Microsoft Windows trong một số lĩnh vực. Sở dĩ Linux đạt được những thành công một cách nhanh chóng là nhờ vào các đặc tính nổi bật so với các hệ thống khác: chi phí phần cứng thấp, tốc độ cao [khi so sánh với các phiên bản Unix độc quyền] và khả năng bảo mật tốt, độ tin cậy cao [khi so sánh với Windows] cũng như là các đặc điểm về giá thành rẻ, không bị phụ thuộc vào nhà cung cấp. Một đặc tính nổi trội của nó là được phát triển bởi một mô hình phát triển phần mềm nguồn mở hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện tại số lượng phần cứng được hỗ trợ bởi Linux vẫn còn rất khiêm tốn so với Windows vì các trình điều khiển thiết bị tương thích với Windows nhiều hơn là Linux. Nhưng trong tương lai số lượng phần cứng được hỗ trợ cho Linux sẽ tăng lên.
2. Các bản phân phối chủ yếu của Linux

Phần II: Một số hệ điều hành Linux phổ biến.
1. Ubuntu :
Ubuntu [phát âm IPA uːˈbuːntuː] là một hệ điều hành máy tính dựa trên Debian GNU/Linux, một bản phân phối Linux thông dụng. Tên của nó bắt nguồn từ "ubuntu" trong tiếng Zulu, có nghĩa là "tình người", mô tả triết lí ubuntu: "Tôi được là chính mình nhờ có những người xung quanh," một khía cạnh tích cực của cộng đồng. Mục đính của Ubuntu bao gồm việc cung cấp một hệ điều hành ổn định, cập nhật cho người dùng bình thường, và tập trung vào sự tiện dụng và dễ dàng cài đặt. Ubuntu đã được đánh xếp hạng là bản phân phối Linux thông dụng nhất cho máy tính để bàn, chiếm khoảng 30% số bản Linux được cài đặt trên máy tính để bàn năm 2007.
Ubuntu là phần mềm mã nguồn mở tự do, có nghĩa là người dùng được tự do chạy, sao chép, phân phối, nghiên cứu, thay đổi và cải tiến phần mềm theo điều khoản của giấy phép GNU GPL. Ubuntu được tài trợ bởi Canonical Ltd [chủ sở hữu là một người Nam Phi Mark Shuttleworth]. Thay vì bán Ubuntu, Canonical tạo ra doanh thu bằng cách bán hỗ trợ kĩ thuật. Bằng vệc để cho Ubuntu tự do và mở mã nguồn, Canonical có thể tận dụng tài năng của những nhà phát triển ở bên ngoài trong các thành phần cấu tạo của Ubuntu mà không cần phải tự mình phát triển.
Canonical ủng hộ và cung cấp hỗ trợ cho bốn bản phân phối dựa trên Ubuntu khác: Kubuntu và Xubuntu, vốn sử dụng KDE và Xfce như là môi trường desktop thay cho hệ thống GNOME mặc định được sử dụng bởi Ubuntu; Edubuntu, một dự án con và là phần bổ sung cho Ubuntu, được thiết kế cho môi trường học tập và sử dụng ở nhà;[3] and Ubuntu JeOS [pronounced "Juice"], một phiên bản khác của Ubuntu, thiết kế cho ác máy ảo.
a] Lược sử.
Bản phát hành đầu tiên của Ubuntu là vào 20 tháng 10 năm 2004, bắt đầu bằng việc tạo ra một nhánh tạm thời của dự án Debian Linux. Việc này đã được thực hiện để một phiên bản mới của Ubuntu có thể được phát hành mỗi 6 tháng, tạo ra một hệ điều hành được cập nhật thường xuyên hơn. Bản phát hành Ubuntu luôn gồm bản GNOME mới nhất, và được lên lịch phát hành khoảng 1 tháng sau GNOME. Khác với các nhánh có mục đích chung trước của Debian - như MEPIS, Xandros, Linspire, Progeny và Libranet, phần nhiều trong số chúng dựa vào các phần mềm bổ sung có mã đóng mô hình của một doanh nghiệp. Ubuntu lại giống với triết lý của Debian hơn và dùng các phần mềm miễn phí [libre] vào mọi thời điểm.
Các gói của Ubuntu nói chung dựa trên các gói từ nhánh không ổn định của Debian: cả 2 bản phân phối đều dùng gói có định dạng deb của Debian và APT/Synaptic để quản lý các gói đã cài. Ubuntu đã đóng góp trực tiếp và lập tức tất cả thay đổi đến Debian, chứ không chỉ tuyên bố chúng lúc phát hành, mặc dù các gói của Debian và Ubuntu không cần thiết "tương thích nhị phân" với nhau. Nhiều nhà phát triển Ubuntu cũng là người duy trì các gói khoá [gói chủ chốt] của chính Debian. Dù sao, Ian Murdock, nhà sáng lập của Debian, đã chỉ trích Ubuntu vì sự không tương thích giữa các gói của Ubuntu và Debian, ông nói rằng Ubuntu đã làm sai lệch quá xa so với Debian Sarge, do đó không còn giữ được sư tương thích.b] Các phiên bản của Ubuntu .
Phiên bản thông thường
Các phiên bản Ubuntu được đặt tên theo dạng Y.MM [tên], trong đó Y tương ứng với năm phát hành, và MM tương ứng với tháng phát hành. Tên trong ngoặc là tên hiệu được đặt cho phiên bản trước khi phát hành chính thức. Trong tháng 10 năm 2004, Ubuntu phát hành phiên bản đầu tiên, Ubuntu 4.10. Mỗi phiên bản Ubuntu thông thường được hỗ trợ trong vòng 18 tháng, chúng cũng được phát hành định kỳ 6 tháng 1 lần và việc nâng cấp lên phiên bản mới hoàn toàn miễn phí. Người dùng được khuyến khích nâng cấp lên phiên bản mới để có thể sử dụng các tính năng mới nhất mà ứng dụng cung cấp. Phiên bản Ubuntu thông thường hiện tại là Ubuntu 9.04 [Jaunty Jackalope], đã được ra mắt vào ngày 23, tháng 4 năm 2009.
Phiên bản hỗ trợ lâu dài
Ubuntu cũng có những phiên bản hỗ trợ dài hạn "Long Term Support", hỗ trợ trong vòng 3 năm đối với máy tính để bàn và 5 năm đối với máy chủ. Ubuntu 8.04 [Hardy Heron], ra mắt vào ngày 24, tháng 4 năm 2008, là phiên bản Long Term Support hỗ trợ đến hiện tại. Canonical sẽ ra mắt phiên bản Long Term Support mỗi 2 năm một lần, và dự kiến sẽ ra mắt bản Long Term Support tiếp theo vào năm 2010, 2 năm sau bản Ubuntu 8.04.
c] Đặc điểm
Ubuntu kết hợp những đặc điểm nổi bật của dòng Linux, như tính bảo mất trước mọi virus và malware, khả năng tùy biến cao, tốc độ, hiệu suất làm việc, và những đặc điểm của Ubuntu như giao diện bắt mắt, bóng bẩy, cài đặt đơn giản, và sự dễ dàng trong việc sao lưu dữ liệu.
d] Cài đặt
Ubuntu cung cấp một tập hợp đầy đủ các tính năng có thể hoạt động ngay lập tức từ bản cài đặt chuẩn, nhưng lại vừa vặn trong 1 đĩa CD. Có một đĩa chạy trực tiếp và một đĩa cài đặt truyền thống cho mỗi lần phát hành. CD chạy trực tiếp cho phép người dùng xem xét phần cứng của họ có tương thích với hệ điều hành hay không trước khi cài đặt lên đĩa cứng. Đĩa Ubuntu, Edubuntu được gửi miễn phí cho bất cứ ai yêu cầu, và tập tin ảnh đĩa cũng có sẵn để tải về. Ubuntu khi chạy cần 256 MB RAM, và khi cài đặt lên đĩa cứng, chiếm 3GB dung lượng đĩa trống.
Quá trình cài đặt Ubuntu sử dụng giao diện đồ họa, tốc độ cài đặt nhanh hay chậm sẽ tuỳ thuộc vào cấu hình máy tính, trung bình là từ 20 - 30 phút.
e] Giao diện

Ubuntu sử dụng giao diện đồ họa thân thiện GNOME, qua đó hướng đến sự đơn giản hóa trong quá trình sử dụng. Đặc điểm có thể nhận thấy rõ ở giao diện mặc định của Ubuntu là các màu chuyển giữa nâu và cam. Ubuntu đi kèm với Compiz-Fusion, để tạo sự bóng bây trong quá trình sử dụng.
Cho đến tháng 4, 2005, Ubuntu có một gói tuỳ chọn được gọi là ubuntu-calendar, gói này tải về một hình nền mới vào mỗi tháng, phù hợp với chủ đề màu nâu của giao diện. Các hình nền này thể hiện những người mẫu bán khoả thân và nó bị chỉ trích như "risqué [khiêu gợi không thích hợp, thiếu tế nhị]". Điều này dẫn đến việc tạo ra những tên giễu như "Linuxxx" hay "Bản phân phối khiêu dâm".
Hơn thế nữa, Ubuntu hướng đến khả năng sử dụng cho người dùng khuyết tật và hỗ trợ nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, với mục đích có càng nhiều người dùng càng tốt. Ngay từ phiên bản 5.04, Unicode là bảng mã mặc định.

f] Ứng dụng
Mặc định, Ubuntu được thiết kế để ngay sau khi cài đặt là có thể sử dụng được ngay. Đó là bộ ứng dụng văn phòng OpenOffice.org, trình duyệt Internet Firefox, trình quản lý thư điện tử Evolution, trình gửi tin nhăn tức thời [IM] Pidgin, trình tải file torrent Tranmission và trình biên tập đồ hoạ GIMP. Về truyền thông đa phương tiện, Ubuntu tích hợp trình phát, rip CD Sound Juicer, trình quản lí thư viện nhạc Rhythmbox, trình xem phim Totem Movie Player và trình ghi âm Sound Recorder. Một số ứng dụng nhỏ như chụp màn hình, máy tính toán, các trò chơi bài và trò chơi giải đố cũng có sẵn.
Việc cài đặt ứng dụng trong Ubuntu có nhiều phương tiện, phổ biến nhất là dùng Add/Remove Application và Synaptic Package Manager. Trong đó, Add/Remove Application cho phép người dùng tìm toàn bộ các ứng dụng miễn phí Ubuntu khuyên dùng và cài đặt về máy, còn Synaptic Package Manager là công cụ nâng cao, giúp người dùng cài đặt từng gói con của ứng dụng. Ngoài ra còn một số công cụ sử dụng dòng lệnh, như apt-get, aptitude... Luôn luôn có hơn 17000 ứng dụng khác nhau luôn có sẵn trên mạng để tải về và cài đặt. Hơn nữa chúng hoàn toàn miễn phí.
g] Cấu hình tối thiểu
Phiên bản Desktop của Ubuntu hiện tại hỗ trợ các máy tính cấu trúc Intel x86, AMD, và ARM[6]. Phiên bản server cũng hỗ trợ máy SPARC architecture Unofficial support is available for the PowerPC,[9] IA-64 [Itanium] and PlayStation 3 architectures.
Cấu hình tối thiểu cho quá trình cài đặt là máy có bộ CPU 300 MHz x86, RAM 256 MB, ổ cứng còn 4 Gb chỗ trống, và card màn hình VGA hỗ trợ độ phân giải 640x480 trở lên. Cấu hình khuyên dùng cho quá trình cài đặt là máy có bộ vi xử lí 700 MHz x86, RAM 384 MB, ổ cứng còn 8 GB trống, và card màn hình VGA hỗ trợ độ phân giải 1024×768.
Cấu hình tối thiểu cho việc cài đặt phiên bản server là máy có bộ vi xử lí 300 MHz x86, RAM 64 MB , và card màn hình VGA hỗ trợ độ phân giải 640x480 trở lên.
Những máy tính không hỗ trợ đủ cấu hình tối thiểu, được khuyên dùng Xubuntu, một hệ điều hành tương tự Ubuntu nhưng dựa trên trình quản lí màn hình XFCE.
[ Còn tiếp ]

Chủ Đề