Chuyển đổi số trong ngân hàng la gì

Chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam. Chính phủ Việt nam cũng đặc biệt quan tâm đến vấn để chuyển đổi số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và giao cho Bộ Thông tin &Truyền thông xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia và trình Đề án cho Thủ tướng ngay trong năm 2019.

Vậy chuyển đổi số là gì và có tầm quan trọng như thế nào trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0? 

Chuyển đổi số là gì?

Khó có được một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về chuyển đổi số, bởi vì quá trình áp dụng chuyển đổi số sẽ có sự khác biệt ở từng lĩnh vực khác nhau.

Nhấn để phóng to ảnh

Chuyển đổi số đóng một vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

Tuy nhiên, để có thể định nghĩa một cách ngắn gọn và dễ hiểu thì chuyển đổi số [Digital Transformation trong tiếng Anh] là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới và thoải mái chấp nhận các thất bại.

Tại Việt Nam, khái niệm “Chuyển đổi số” thường được hiểu theo nghĩa là quá trình thay đổi từ mô hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn [Big Data], Internet cho vạn vật [IoT], điện toán đám mây [Cloud]… nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty.

Không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực khác của xã hội như chính phủ, truyền thông đại chúng, y học, khoa học...

“Chuyển đổi số” [Digital Transformation] có thể dễ bị nhầm lẫn với khái niệm “Số hóa” [Digitizing]. Để phân biệt hai khái niệm này, có thể hiểu rằng “Số hóa” là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số [chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...]; trong khi đó, “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Có thể xem “Số hóa” như một phần của quá trình “Chuyển đổi số”

Tại sao “Chuyển đổi số” lại quan trọng và mang lại những lợi ích gì?

Báo cáo của các công ty nghiên cứu thị trường lớn như Gartner, IDC... đều chỉ ra rằng chuyển đổi số thực sự mang lại rất nhiều lợi ích cho mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp: từ điều hành quản lý đến nghiên cứu, kinh doanh…

Những lợi ích dễ nhận biết nhất của chuyển đổi số đối với doanh nghiệp đó là cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... những điều này giúp tăng hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp được nâng cao.

Tận dụng các nền tảng công nghệ sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện được nhiều lĩnh vực và hướng đến 5 mục đích cuối cùng của chuyển đổi số

Trong khi đó đối với con người bình thường, chuyển đổi số làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao dịch với nhau. Còn đối với nhà nước, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi trải nghiệm người dùng với các dịch vụ do nhà nước cung cấp, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phương thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước.

Chuyển đổi số còn góp phần gia tăng năng suất lao động. Nghiên cứu của Microsoft cho thấy, năm 2017, tác động của chuyển đổi số tới tăng trưởng năng suất lao động ở vào khoảng 15%, đến năm 2020, con số này là 21%.

Nhìn chung, theo các chuyên gia phân tích và nghiên cứu thị trường thì 5 mục đích cuối cùng mà các doanh nghiệp chuyển đổi số hướng đến bao gồm: Tăng tốc độ ra thị trường; Tăng cường vị trí cạnh tranh trên thị trường; Thúc đẩy tăng trưởng doanh thu; Tăng năng suất của nhân viên; Mở rộng khả năng thu hút và giữ chân khách hàng

Chuyển đổi số đang được diễn ra trên thế giới và tại Việt Nam như thế nào?

Chuyển đổi số đang ngày một thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo, những người có khả năng quyết định hướng đi và khả năng chuyển đổi thành công của tổ chức. Bộ máy chính quyền của nhiều quốc gia sau khi nhận ra tầm quan trọng của chuyển đổi số trong việc gia tăng hiệu quả hoạt động và đảm bảo an ninh quốc gia, đã lập tức bước vào một “cuộc đua” mới trong việc áp dụng chuyển đổi số.

Trước đây, các công nghệ kiểu cũ thì chỉ có các công ty lớn, có rất nhiều tiềm lực kinh tế mạnh mới có thể tiếp cận được công nghệ đó. Do đó họ luôn dẫn đầu thị trường, ít nhất là một vài bước. Nhưng bây giờ, thì dù công ty nhỏ hay những startup mới đều có thể tiếp cận được công nghệ không thua kém gì các những công ty lớn.

Theo nghiên cứu năm 2017 của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, năm 2017, tác động mà chuyển đổi số mang lại cho GDP là khoảng 6%, năm 2019 là 25% và tới năm 2021 là 60%.

Kết quả nghiên cứu của McKensey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động của chuyển đổi số tới GDP của nước Mỹ là khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%, còn ở các nước Châu Âu là khoảng 36%. Từ đây, có thể thấy khả năng tác động của chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất lớn.

Tốc độ chuyển đổi số tại các khu vực và quốc gia là khác nhau, tùy thuộc vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp. Trong đó khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất, tiếp đến là Mỹ và quốc gia tại châu Á.

Các doanh nghiệp tại Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức trong cuộc đua chuyển đổi số

Tại Việt Nam, các mô hình chuyển đổi số cũng đang tạo ra những dịch vụ có ích cho người dân và tận dụng một cách hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Tuy nhiên, họ cũng tạo ra những mâu thuẫn, thay đổi cơ bản với mô hình kinh doanh truyền thống. Thế mạnh công nghệ mới đang giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giành lợi thế trên các lĩnh vực công nghiệp truyền thống. Xu thế này tạo ra những thay đổi quan trọng trong chuỗi giá trị các ngành công nghiệp cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong bối cảnh của nền kinh kế số hiện nay, đòi hỏi các tổ chức, doanh nghiệp và mô hình truyền thống phải có sự thay đổi mạnh mẽ để tiếp tục tồn tại và phát triển.

Với dân số 96 triệu người và là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất nhì khu vực, dân số trẻ năng động và có khả năng tiếp cận công nghệ cao nhanh chóng, các chuyên gia đánh giá Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong việc chuyển đổi số. Đây là những cơ hội mạnh mẽ để các doanh nghiệp Việt Nam tạo ra sự đột phá trên thị trường nhờ vào chuyển đổi số.

Thúc đẩy quá trình chuyển đổi số nhanh, an toàn và bền vững trong ngành Ngân hàng là một trong những mục tiêu tiên quyết hướng tới nền kinh tế số trong tương lai.

Ngân hàng số là gì?

Ngân hàng số [Digital Banking] là ngân hàng có thể thực hiện hầu hết các giao dịch ngân hàng bằng hình thức trực tuyến thông qua internet. Giao dịch của ngân hàng số không phải đến chi nhánh ngân hàng và giảm thiểu đến mức tối đa những thủ tục giấy tờ liên quan. Đồng thời, tính năng của ngân hàng số có thể thực hiện mọi lúc mọi nơi không phụ vào thời gian không gian nên khách hàng hoàn toàn chủ động.

Với ngân hàng số, chỉ bằng ứng dụng tài chính hoặc website, bạn có thể sử dụng tất cả các tính năng như: Chuyển tiền, thanh toán, vay nợ, tham gia các sản phẩm tài chính, quản lý DN…

Ngân hàng số khác với ngân hàng điện tử [E-Banking] gồm Internet Banking, Mobile Banking ở chỗ tuy hình thức hoạt động đều dựa trên Internet nhưng E-Banking suy cho cùng chỉ là một dịch vụ phát triển thêm của ngân hàng tập trung vào những tính năng chính như chuyển tiền, thanh toán và tra cứu số dư tài khoản.

Có rất nhiều đánh giá về lợi ích của ngân hàng số, nhưng theo tôi có 3 vấn đề lớn. Đầu tiên là tiết kiệm thời gian, chi phí. Ngân hàng số thường sẽ miễn phí mở thẻ và quy trình mở thẻ đơn giản thông qua ứng dụng trên điện thoại sẽ giúp khách hàng tiết kiệm và tối ưu chi phí cũng như thời gian so với ngân hàng truyền thống.

Đơn giản việc chuyển khoản, nạp tiền: Ngân hàng số cung cấp cho bạn nhiều sự lựa chọn để nạp tiền và chuyển khoản như nạp tiền từ ngân hàng, nạp tiền từ máy ATM, chuyển khoản cùng hệ thống ngân hàng số, chuyển khoản khác ngân hàng, chuyển khoản qua số điện thoại,

Độ bảo mật cao: Với nhiều lớp bảo mật như mật khẩu, vân tay, Face ID, mã OTP,… giúp cho mọi giao dịch trực tuyến của ngân hàng số được bảo vệ tối ưu, khách hàng có thể yên tâm sử dụng mà không lo bị mất tiền, hay lộ thông tin cá nhân,…

Xu thế và cơ hội

Hiện tại, có 59% người Việt Nam có tài khoản ngân hàng, 67% sử dụng internet và 70% sử dụng điện thoại thông minh, nhưng có chưa đến 20% các giao dịch ngân hàng thông qua trực tuyến và thanh toán kỹ thuật số. Mặc dù từ năm 2017, Chính phủ Việt Nam đã kích hoạt một xã hội không tiền mặt vào năm 2020, tập trung vào phát triển thanh toán kỹ thuật số.

So với thị trường nước ngoài ở những nước tiên tiến số lượng ngân hàng số phát triển ở Việt Nam còn ở mức khiêm tốn. Các ngân hàng chỉ mới ở giai đoạn đầu của quá trình số hóa và đang có một cơ hội lớn cho các ngân hàng ứng dụng công nghệ số để mang đến những sản phẩm và dịch vụ mới tạo tiện lợi cho khách hàng.

Dự báo dân số Việt Nam đến năm 2030 là 106 triệu người, tỷ lệ chi tiêu của khách hàng sẽ tăng lên, cùng với đó là sự tăng trưởng trong tầng lớp trung lưu. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, số lượng người dùng điện thoại thông minh gia tăng sẽ thúc đẩy nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng được phân phối qua các kênh di động.

Việt Nam có tốc độ tăng trưởng về Mobile Banking đạt là 200% và hiện có khoảng 30 triệu người sử dụng hệ thống thanh toán ngân hàng mỗi ngày. Đồng thời, Việt Nam hiện đã có 70 tổ chức tín dụng, chưa kể các đơn vị trung gian thanh toán như ví điện tử đã triển khai cung ứng các dịch vụ thanh toán qua internet, cung ứng các dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động.

Đến năm 2025, Việt Nam sẽ có một thế hệ “khách hàng số” chi phối thị trường, tệp khách hàng này có những mong muốn và kỳ vọng cao hơn về các sản phẩm, dịch vụ tài chính số. Đồng thời, với sự phát triển của mạng xã hội và công nghệ, họ hoàn toàn có thể dễ dàng so sánh độ tiện lợi của dịch vụ giữa các ngân hàng, chi phí hợp lý hơn. Chính vì vậy, các ngân hàng sẽ phải chuyển đổi từ việc lấy sản phẩm làm trung tâm, sang lấy khách hàng làm trung tâm, tập trung nâng cao trải nghiệm của người dùng.

Vì vậy, cơ hội để việc chuyển đổi số của các ngân hàng thương mại Việt Nam được đánh giá có tiềm năng vì:

Về công nghệ: Việt Nam là nước đi sau bởi ngân hàng số đã phát triển ở các nước khác và ở một tầm cao nên các ngân hàng Việt Nam chỉ cần xây dựng cơ sở hạ tầng và áp dụng công nghệ từ nước ngoài là thành công. Đi sau nên rút được nhiều kinh nghiệm cũng như khắc phục các vấn đề.

Về thị trường: Hiện nay các ngân hàng tập trung ở thành phố, và xây dựng theo cụm nên bỏ qua đối tượng khách hàng ở tỉnh lẻ và nhỏ. Vậy nên khi xây dựng ngân hàng số sẽ thu hút và tiếp cận được nguồn khách hàng đó.

Chuyển đổi như thế nào?

Nói về việc chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, ngân hàng số không chỉ đơn thuần là ứng dụng CNTT vào lĩnh vực ngân hàng mà còn là việc xây dựng nên một công ty công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng để giải quyết những "nỗi đau" trong xã hội. Chuyển đổi số trong ngân hàng là việc tích hợp số hóa và công nghệ số vào mọi lĩnh vực ngân hàng.

Việc số hóa ngân hàng giúp cho các ngân hàng đáp ứng được kỳ vọng ngày càng cao cũng như xu hướng giao dịch trên các thiết bị điện tử của khách hàng, đơn giản hóa quy trình, thủ tục xử lý, câng cao tính cạnh tranh, cắt giảm chi phí.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi số để trở thành ngân hàng số toàn diện không hề đơn giản bởi ngoài vấn đề kinh phí, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với các thách thức như: Khó thu hút nhân tài; lãnh đạo thiếu hiệu quả; sự khó khăn trong việc phối hợp giữa các đơn vị kinh doanh; kết cấu dữ liệu phức tạp; thiếu nhân tài quyết định trong DN; thay đổi văn hóa DN; hạn chế của công nghệ thông tin...

Ông Nguyễn Đình Thắng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm Việt Nam [VINASA] nhận định, ngân hàng số là cái đích, một chuyển đổi số là một quá trình. Ngân hàng số có nhiều mức độ khác ngay tùy thuộc kinh phí và chiến lược của mình.

Trong đó, 1.0 là giai đoạn ngân hàng đa kênh cung cấp nhiều dịch vụ như internet banking, mobile banking. 100% các ngân hàng Việt Nam đã trải qua bước này.

Ngân hàng 2.0 là thời kỳ hợp kênh, đưa mọi dịch vụ lên một ứng dụng, thuận tiện cho người dùng sử dụng. Đây là giai đoạn sẽ có mức phân hóa giữa các ngân hàng.

Đến giai đoạn 3.0, người dùng có thể thực hiện tất cả dịch vụ tài chính từ xa mà không cần đến ngân hàng. Nhiều ngân hàng lớn của Việt Nam đã tiếp cận đến giai đoạn này.

Giai đoạn 4.0, các ngân hàng tập trung vào trải nghiệm, cá nhân hóa người dùng. Mỗi ngân hàng sẽ chọn hướng phát triển ngân hàng số phù hợp với nhu cầu và đối tượng khách hàng hướng tới.

Với tư cách khách hàng, chúng ta đã chứng kiến Vietcombank ra mắt ứng dụng ngân hàng số Digibank; VietinBank có kế hoạch xây dựng ứng dụng "chatbot" [robot tự động nói chuyện, tương tác với khách hàng] “đa nhiệm” hơn. VietinBank trang bị camera nhận diện, thu thập thông tin, kết hợp với ứng dụng trí tuệ nhân tạo đã giúp rút ngắn thời gian giao dịch, tăng trải nghiệm cho khách hàng. TPBank có hệ thống ngân hàng tự động [LiveBank].

Ngay trong dịch Covid-19, hàng loạt ứng dụng Mobile Banking của các ngân hàng đã tích hợp dịch vụ đi chợ online [mà trước đó chưa có] để đáp ứng kịp thời và tốt nhất nhu cầu đảm bảo an toàn của thực tiễn, gia tăng sự tiện lợi cho khách hàng.

Số liệu thống kê cho thấy 94% ngân hàng thương mại Việt Nam đã đầu tư vào chuyển đổi số, 40% ngân hàng đã đưa chuyển đổi số thành tầm nhìn chiến lược trong 5 - 10 năm tới. Cơ hội chuyển đổi số của các ngân hàng thương mại đang mở rộng.

Tuy nhiên, theo đánh giá của chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa: “Trong khi các ngân hàng lớn trên thế giới đang nghiên cứu những phần mềm nhìn vào mắt khách hàng để đọc được suy nghĩ của đối tác thì chúng ta vẫn mới đang loay hoay ở đích xuất phát cuộc đua chuyển đổi số”.

Khi ngân hàng số là xu thế bắt buộc, ngân hàng nào cũng có chiến lược phát triển thì mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng lớn. Số hóa nên việc đào thải nhân viên ngân hàng sẽ là chuyện không thể tránh khỏi. Đào tạo về nguồn nhân lực cho ngân hàng số trong việc quản lý và điều hành ngân hàng số sẽ mất nhiều thời gian.

kinhtedothi.vn

Video liên quan

Chủ Đề