Đặc điểm nổi bật của quá trình cảm thụ văn học

44
454 KB
7
288

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 44 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ CẢM THỤ VĂN HỌC VÀ VIỆC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HSTH 1.1. Khái quát về cảm thụ văn học 1.1.1. Khái niệm cảm thụ văn học 1.1.1.1. Cảm thụ văn học là gì? “Cảm thụ văn học là một quá trình tiếp nhận, hiểu, cảm được văn chương, tính hình tượng của văn chương, đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, đặc trưng phản ánh nghệ thuật của văn chương” [Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999]. “Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm [cuốn truyện, bài văn, bài thơ…] hay một bộ phận của tác phẩm [đoạn văn, đoạn thơ… thậm chí một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ]” [Luyện tập về cảm thụ văn học, Nxb Giáo dục, 2003]. Cảm thụ văn học [CTVH] là hoạt động thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học bằng nhiều năng lực tinh thần: tri giác, xúc cảm, liên tưởng, tưởng tượng... nhằm phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, tạo được mối giao cảm đặc biệt giữa tác giả và bạn đọc. - Cấu trúc của CTVH: Là sự đan xen phức tạp các yếu tố: tri giác, lí giải, xúc cảm, liên tưởng, tưởng tượng... - Mục đích của CTVH: Cảm nhận, phát hiện, khám phá và chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, nhằm bồi dưỡng mĩ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. - Yêu cầu của CTVH: + Phải có xúc cảm, suy ngẫm, tưởng tượng, thực sự gần gũi, "nhập thân" vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học + Cảm nhận được những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ nhất của văn học thể hiện trong tác phẩm hay một bộ phận của tác phẩm. + Phương thức chiếm lĩnh đối tượng chủ yếu là bằng tình cảm, những xúc động mang tính trực quan, trực cảm, những liên tưởng, suy luận... + Cảm thụ đặc biệt cần đến sự tinh tế, nhạy cảm, sâu sắc của tâm hồn, cần đến vốn sống, vốn văn hoá, sự trải nghiệm của con người. 1.1.1.2. Cảm thụ văn học và tiếp nhận văn học 1 - Tiếp nhận văn học là hoạt động “tiêu dùng”, “thưởng thức”, “phê bình” văn học của độc giả. Nó góp phần làm thoả mãn nhu cầu tinh thần, nhu cầu thẩm mỹ của con người trong cuộc sống. Nó giúp hoạt động sáng tạo nghệ thuật trở nên có ý nghĩa, có mục đích và những giá trị chân chính của tác phẩm được bảo tồn, được phát triển phong phú. - CTVH là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. 1.1.1.3. Cảm thụ và đọc - hiểu tác phẩm văn học - Phân biệt cảm thụ và đọc - hiểu tác phẩm văn học: Đọc - hiểu Cảm thụ - Là đọc và nắm bắt thông tin, là - Là đọc-hiểu ở mức độ cao nhất, hiểu sâu quá trình nhận thức để có khả năng sắc tác phẩm, khám phá, chiếm lĩnh bản thông hiểu những gì được đọc. chất thẩm mĩ của văn chương. - Hiệu quả: hiểu được ý nghĩa của - Hiệu quả: đánh giá khả năng sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật; nắm bắt nội ngôn ngữ nghệ thuật, thẩm thấu thông tin, dung thông tin của văn bản → thiên cảm nhận ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, tạo về tri giác. mối giao cảm tác giả - bạn đọc → huy động cả tri giác, xúc cảm, tưởng tượng… - Đọc hiểu tất cả các loại văn bản. - Cảm thụ văn bản nghệ thuật. - Mối quan hệ giữa đọc - hiểu và cảm thụ văn học: Đọc - hiểu và cảm thụ đều là những hoạt động thâm nhập vào tác phẩm văn chương. Chúng có sự tác động qua lại, thống nhất nhưng không đồng nhất. Có thể nói từ đọc - hiểu đến cảm thụ là một tiến trình chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật. Nếu coi đọc hiểu là bước khởi đầu, là nền móng thì cảm thụ văn học là bước cuối cùng hoàn thành quá trình thâm nhập một văn bản nghệ thuật. Đầu tiên là đọc để hiểu nội dung tác phẩm, nắm bắt các thông tin mà tác giả gửi gắm, nhận diện các yếu tố nghệ thuật đã được sử dụng nhằm chuyển tải thông tin tới người đọc một cách ấn tượng. Cảm thụ là quá trình người đọc nhập thân đầy cảm xúc vào tác phẩm, suy tư về một số các câu chữ, hình ảnh, lập luận và sống cùng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nông sâu khác nhau: hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật, còn cảm thụ là việc nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản từ những gì mà 2 ngôn từ gợi ra. Ví dụ: Văn bản Mùa xuân đến [Nguyễn Kiên, Tiếng Việt 2, tập 2]. Để hiểu bài văn này, người đọc chỉ cần quan tâm đến các thông tin: dấu hiệu của mùa xuân, những thay đổi của bầu trời và mọi vật khi mùa xuân đến; hương vị của mỗi loài hoa, vẻ riêng của mỗi loài chim... cuối cùng khái quát nội dung bài: mùa xuân làm cho cảnh vật thêm đẹp đẽ và sinh động. Nhưng để cảm thụ nó, người đọc phải có một thứ mẫn cảm riêng, có thể đó là sự nhạy cảm của tâm hồn, là sự thành tâm chú ý, là chút thắc mắc mang tính thẩm mĩ... miễn là không dễ dàng đi qua câu chữ của bài văn này. Người đọc có thể dừng lại ở đâu đó. Chỗ khiến người ta dễ chú ý ở đây chính là câu văn đầu và câu văn cuối, bởi nó đã thông báo những điều khác thường. Câu đầu cho biết hoa mận có một cách thức rất khác lạ để báo hiệu mùa xuân: sự tàn lụi - hoa mận dùng cái chết của mình để báo hiệu sự bừng nở của sức sống mới, vì vậy, nó trở thành loài hoa hiếm hoi không có mặt trong mùa xuân. Câu cuối, miêu tả tâm trạng chú chim sâu [đây là loài chim duy nhất trong bài được miêu tả tâm trạng]. Một chữ "nhưng" đã đủ tạo ra sự khác biệt giữa loài chim này với các loài chim bạn: nó không vô tư mà bị ám ảnh bởi hình ảnh cánh hoa mận trắng biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới. Nó biết nhớ tới một vẻ đẹp đã tàn phai, biết đánh giá ý nghĩa của vẻ đẹp ấy, đã coi vẻ đẹp ấy là bất tử. Có thể gọi chim sâu là tri âm của hoa mận. Tuy không được góp mặt với mùa xuân nhưng hoa mận không phải buồn tủi. Màu trắng mong manh mà chứa đựng sức sống mãnh liệt của nó sẽ được người ta trân trọng và tiếc nuối. Mấy chữ "còn mãi sáng ngời" có sức lay động sâu sắc. Tuy nhiên, ranh giới giữa hai cấp độ này đôi khi khó phân biệt. Hiểu một cách sâu sắc thì chạm đến cảm thụ, cảm thụ xuất phát từ đọc-hiểu và bao hàm cả đọc-hiểu... Mỗi người đều có thể rèn luyện, trau dồi cách đọc để từng bước nâng cao trình độ cảm thụ văn học cho bản thân, từ đó có thể cảm nhận cuộc sống tốt hơn. Đọc có suy ngẫm, tưởng tượng [hay liên tưởng] và rung cảm thực sự chính là người đọc biết cảm thụ văn học. Đúng như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: “ Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất xa, vẽ thêu ra lắm điều thú vị”. 1.1.2. Các cấp độ cảm thụ văn học Có bốn cấp độ cảm thụ văn học: 1. Cảm thụ ngôn từ: cảm thụ về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các biện pháp tu từ... 3 2. Cảm thụ hình tượng: hình tượng nhân vật, hình tượng tác giả, chi tiết, hình ảnh, kết cấu, không gian, thời gian... 3. Cảm thụ ý nghĩa tác phẩm: nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn, ý nghĩa lịch sử - xã hội, ý nghĩa nhân văn - thẩm mĩ... 4. Cảm thụ tư tưởng của tác giả: tư tưởng, quan niệm, chính kiến của nhà văn về con người, xã hội, đạo đức, nghệ thuật, thẩm mĩ Ví dụ: Các cấp độ cảm thụ bài thơ Cây dừa của Trần Đăng Khoa: - Cảm thụ ngôn từ: + Dùng nhiều động từ: dang tay, gật đầu, đón, gọi, múa reo, đánh nhịp... + So sánh: tàu dừa - chiếc lược, quả dừa - đàn lợn con... + Nhân hóa: cây dừa - con người... → Miêu tả cây dừa chân thực, sống động mà tinh tế, ấn tượng. - Cảm thụ hình tượng: hình tượng cây dừa: + Gắn bó chan hòa với thiên nhiên [gió, trăng, mây, nắng, đàn cò] + Làm công việc có ích, cao cả: canh giữ đất trời + Phong thái: vui tươi, chan hòa, từng trải, ung dung. → Cây dừa vừa như một người bạn hào phóng, vừa như một người lính trang nghiêm... - Cảm thụ ý nghĩa tác phẩm: + Nghĩa đen: miêu tả cây dừa + Nghĩa bóng: hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Nam. + Ý nghĩa nhân văn - thẩm mĩ: cây dừa - biểu tượng đẹp của đất nước và con người Việt Nam, vừa trẻ trung, vừa thâm trầm, bình thản. - Cảm thụ tư tưởng của tác giả: Quan niệm về thiên nhiên: thân thương, bình dị, chan hòa, gần gũi với con người, Bộc lộ cái nhìn vừa trẻ thơ, vừa già dặn về thế giới xung quanh. 1.1.3. Quá trình cảm thụ văn học Quá trình CTVH là quá trình đi từ đọc - hiểu đến cảm thụ, thâm nhập vào thế giới nghệ thuật, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, đảm bảo mối quan hệ giữa nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Đặc điểm nổi bật của quá trình CTVH là đọc văn bản trong nhận biết và rung động. Người đọc có thể tạo nên những liên tưởng thẩm mỹ giữa bản thân mình với văn bản tác phẩm. Người đọc không chỉ lĩnh hội đầy đủ các thông tin được truyền đạt mà 4 còn sống đời sống của các nhân vật, của câu chữ, hình ảnh… Nghĩa là, nếu tác giả sử dụng tư duy nghệ thuật để sáng tạo tác phẩm, thì người đọc cũng phải sử dụng cùng loại tư duy ấy để lĩnh hội tác phẩm. Đó chính là tư duy hình tượng, loại tư duy dựa trên cơ sở tiếp xúc cảm tính với đối tượng, làm sống dậy toàn vẹn đối tượng đó bằng nghe, nhìn, tưởng tượng, không sao chép đối tượng một cách bàng quan mà còn bao hàm thái độ của con người với chính đối tượng đó. Để đảm bảo yêu cầu của CTVH, người đọc cũng phải thể nghiệm cùng với các nhân vật, tức là phải nhập thân bằng tưởng tượng vào các nhân vật để hình dung các biểu hiện của chúng, từ đó khái quát đặc điểm, tính cách… Người đọc cũng cần dùng tưởng tượng, trực giác để cảm nhận ý nghĩa biểu cảm của ngôn từ, từ đó chia sẻ, đồng sáng tạo với tác giả. Quá trình CTVH chính là việc đảm bảo hiệu quả nhất mối quan hệ giữa nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Đến với tác phẩm văn học, người đọc muốn được hưởng thụ và bồi đắp những tình cảm thẩm mĩ, muốn được mở mang trí tuệ, bồi dưỡng thêm về tư tưởng, đạo đức, lí tưởng, học hỏi kinh nghiệm sống hoặc nhận xét, đánh giá. Bằng việc cảm thụ, người đọc đã chuyển hóa văn bản thứ nhất của tác giả thành văn bản thứ hai của mình. Bởi vì, trong khi đọc tác phẩm văn học, người đọc vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng tới các hiện tượng ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lí giải của mình, mà hình dung, tưởng tượng ra con người, sự vật, sự việc được miêu tả. Khi mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - bạn đọc được đảm bảo thì người đọc sẽ có được sự đồng cảm với với tác giả, yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét. Trên cơ sở của sự đồng cảm, nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp với chân lí của tác phẩm, liên hệ với thực tế, với bản thân, sẽ đưa đến những nhận thức mới. Cảm thụ văn học là bước cuối cùng của chặng đường đọc hiểu, là đọc hiểu ở mức độ cao nhất. Vì vậy, sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung một tác phẩm văn học, người đọc cần tiếp tục phát hiện các tín hiệu thẩm mĩ của văn bản nhằm tiếp cận tác phẩm ở một mức độ cao hơn, tạo mối giao tiếp gần gũi hơn với tác giả. Các tín hiệu đó có thể rất nhỏ bé, nhưng có sức khơi gợi sâu xa, đem lại những rung cảm thực sự cho người đọc. Sau khi phát hiện, bước tiếp theo là phân tích, bình giảng làm nổi bật vẻ đẹp đó để người khác có thể chia sẻ, thưởng thức. 1.1.4. Năng lực cảm thụ văn học Năng lực CTVH là khả năng nắm bắt một cách nhanh, nhạy, chính xác các đặc điểm, đặc trưng, bản chất của tác phẩm về nội dung và nghệ thuật; là khả năng hiểu, 5 rung cảm một cách sâu sắc, tinh tế với những điều tâm sự thầm kín nhất của tác giả gửi gắm qua hình tượng; là khả năng đánh giá chính xác và sâu sắc tài năng cũng như sự độc đáo trong phong cách nhà văn. Năng lực cảm thụ văn học ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố qui định như: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, tình cảm và thái độ, sự nhạy cảm khi tiếp xúc với tác phẩm văn học… Ngay cả ở một người, sự cảm thụ một bài văn, bài thơ trong những thời điểm khác nhau cũng khác nhau. 1.2. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học 1.2.1. Ý nghĩa của việc bồi dưỡng năng lực CTVH cho HSTH - Việc rèn luyện để năng cao năng lực cảm thụ văn học là một nhiệm vụ rất cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt sẽ cảm nhận được các giá trị nhân văn, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của các em. - Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học nhằm giúp các em có những nhận thức ban đầu về văn học và cuộc sống, biết cách đọc các tác phẩm nghệ thuật, nhận biết nhanh nhạy và chính xác các tín hiệu nghệ thuật, hình thành một số kỷ năng đơn giản trong phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. - Ngữ liệu dạy học các phân môn tiếng Việt đa phần là các văn bản có giá trị nghệ thuật, cần được khám phá cả nội dung tư tưởng và vẻ đẹp ngôn từ. Việc rèn luyện, trau dồi để nâng cao trình độ cảm thụ văn học không những giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương mà còn giúp các em học tốt môn Tiếng Việt, nói và viết Tiếng Việt ngày càng trong sáng, sinh động hơn... 1.2.2. Đặc điểm cảm thụ văn học của học sinh tiểu học Trẻ em rất say mê văn học, nghệ thuật; có những cảm nhận, suy nghĩ theo lối riêng của mình, ngoài tính chất trẻ thơ, thơ ngây, ở từng mặt, từng khía cạnh cụ thể, nhiều khi cũng rất sâu sắc và đầy chất trí tuệ. Đây là những nguyên nhân dẫn đến những đặc trưng trong cảm thụ văn học ở lứa tuổi này: - Dễ nhập thân vào tác phẩm, có khả năng liên tưởng, tưởng tượng sinh động về thế giới trong tác phẩm. - Có khả năng nhạy cảm, tinh tế trong cảm thụ cái đẹp: dễ rung động trước những kích thích thẩm mỹ, dễ xúc động với những sự kiện, nhân vật, hình ảnh trong tác phẩm. 6 - Cảm thụ thường mang tính trực tiếp, cảm tính, trong sáng, yêu cái thiện, ghét cái ác... - Cảm nhận mang tính hồn nhiên, ngây thơ, dễ tin những gì diễn ra trong tác phẩm là có thực, chưa phân biệt thế giới trong tác phẩm và hiện thực ngoài đời. - Hứng thú tiếp nhận thường thiên về những tác phẩm có cốt truyện rõ ràng, có tình tiết li kì, lôi cuốn, các nhân vật không có sự nhập nhoà, pha trộn về tính cách... - Một số nhược điểm: + Do tư duy logic chưa phát triển như người trưởng thành nên các em gặp khó khăn trong việc phát hiện những nội dung trừu tượng, khái quát, thường sa vào những chi tiết cụ thể, thiếu khả năng tổng hợp vấn đề; không biết lật trở vấn đề, sự khái quát thường vội vã, thiếu chiều sâu đồng thời chưa thấy được hết các mối quan hệ giữa các sự kiện diễn ra trong tác phẩm... + Ít cảm thụ bằng trải nghiệm cá nhân, chưa biết lí giải một cách tường tận, thấu đáo các cung bậc, trạng thái tình cảm của mình. + Ít đánh giá với óc phê phán tác phẩm và nhà văn, thường chỉ nhận xét về nhân vật, và những nhận xét này cũng dễ cực đoan, một chiều; + Không hiểu và không thích những nhân vật mâu thuẫn, phức tạp, giàu suy tư; những truyện kết thúc theo lối để ngỏ cũng không được trẻ ưa thích... 1.2.3. Năng lực cần thiết của giáo viên tiểu học khi bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh 1.2.3.1. Có sự hiểu biết sâu sắc về nội dung, nghệ thuật tác phẩm Trước hết, giáo viên cần có sự hiểu biết sâu sắc về nội dung, nghệ thuật tác phẩm. Đó là sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc những thông tin cơ bản về tác phẩm, bao gồm: tác giả, thời đại, hoàn cảnh sáng tác, nội dung tư tưởng, ý đồ nghệ thuật... Để mở rộng hiểu biết và nâng cao nhận thức đối với tác phẩm, cần tìm hiểu những thông tin bên ngoài tác phẩm: sự bình giá của xã hội đối với tác phẩm, sự phân tích, đánh giá, khen, chê của bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình được đăng tải trên sách báo. Các nguồn thông tin đó khơi gợi cho giáo viên nắm bắt nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm một cách chính xác, rõ ràng hơn, giúp họ có cái nhìn cập nhật, hiện đại về đời sống văn học, có cách đánh giá tác phẩm từ nhiều góc độ trên tinh thần khách quan, khoa học. Sự hiểu biết, nhận thức, cảm thụ của giáo viên về tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình cảm thụ văn học của học sinh. Giáo viên có kiến thức và cảm nhận sâu 7 sắc mới có thể phân tích, bình giá hay, thuyết phục về tác phẩm, khiến các em đồng cảm và "tái cảm thụ"; có cơ sở để điều chỉnh hoặc phát huy những phát hiện của học sinh, đưa ra những định hướng cho các em cảm nhận được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm... 1.2.3.2. Có khả năng rung động trước vẻ đẹp tinh tế của hình tượng văn chương Yêu cầu cao hơn đối với giáo viên trong việc bồi dưỡng năng lực CTVH cho học sinh là phải có được khả năng rung cảm trước vẻ đẹp tinh tế của hình tượng văn học. Mặc dù trong thực tế, sự rung cảm này là “muôn hình muôn vẻ”, nhưng nó vẫn có những điểm chung, được cụ thể hoá thành hai năng lực cơ bản sau: - Phát hiện ra những tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm: Giáo viên tiểu học phải là những độc giả có trình độ thẩm mỹ cao, để không chỉ nhận thức đúng, mà còn biết rung động, phát hiện những tín hiệu thẩm mỹ một cách chính xác và cảm thụ một cách hoàn hảo vẻ đẹp tinh tế của hình tượng văn chương. Để phát hiện được những tín hiệu nghệ thuật của tác phẩm, giáo viên cần biết lựa chọn những cái quan trọng, bỏ qua những cái thứ yếu, lựa chọn những gì tinh tế, gạt bỏ những gì thô tục, tầm thường… Muốn vậy, giáo viên không có con đường nào khác là phải nâng cao vốn văn hoá, văn học cho mình. Tích cực rèn luyện khả năng cảm thụ văn học của bản thân để tâm hồn luôn nhạy cảm trước những tín hiệu thẩm mỹ rất khó nắm bắt. - Khả năng bình giá và chiêm nghiệm đối với các tín hiệu nghệ thuật: Khi hướng dẫn học sinh CTVH, giáo viên cần phải biết thể hiện ý kiến của mình về tác phẩm trên cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật; đồng thời phải biết chiêm nghiệm, liên hệ với bản thân và đời sống để đồng cảm hay phản ứng. Đó là thái độ tích cực và chủ động của người cảm thụ đối với hình tượng văn chương. Bình văn là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với tác phẩm. Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện CTVH cho học sinh. Trước hết, nó có khả năng đánh thức liên tưởng, dẫn các em thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật, có những ấn tượng sâu sắc, khó phai về vẻ đẹp của văn chương; sau đó, góp phần nâng cao khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao cảm trong giờ văn. 8 Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của tác phẩm, nhưng giáo viên không được lạm dụng biện pháp này. Bởi lẽ, nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ không phải là trổ tài trình diễn để “thôi miên” các em. Do đó, giáo viên chỉ đưa ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho các em, tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ. Giáo viên phải chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật, và chọn được cách nói ấn tượng, độc đáo, nhằm tác động mạnh đến cảm xúc của học sinh, giúp các em nắm được thần thái, linh hồn của tác phẩm. 1.2.3.3. Am hiểu tâm lý tuổi thơ, biết tôn trọng cách nghĩ, cách cảm riêng của học sinh CTVH là hoạt động mang tính chủ động, tích cực nên trong việc bồi dưỡng năng lực CTVH, giáo viên cần có năng lực quan sát tâm lý để hiểu được những suy nghĩ, cảm xúc riêng tư của từng học sinh. Giáo viên cần tạo điều kiện để từng học sinh trở thành những chủ thể đích thực của quá trình cảm thụ. “Thầy giáo phải biết chấp nhận những ý kiến lạ, những cá tính khác, không lấy mình làm mẫu, không áp đặt…, vì mỗi trẻ em cần trở thành chính mình, thành một cá nhân độc đáo” [Hoàng Hoà Bình - Dạy văn cho học sinh tiểu học]. 1.2.3.4. Có giọng đọc, giọng kể hấp dẫn Giọng đọc và giọng kể là nhân tố quan trọng trong việc dẫn truyền tư tưởng, tình cảm của tác giả đến người nghe. Toàn bộ nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đều phải thông qua giọng đọc và giọng kể của giáo viên để chuyển đến học sinh. Đọc, kể diễn cảm hay, có hồn trước hết xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc tác phẩm, đồng điệu với tác giả, có xúc cảm thật sự với tình tiết, nhân vật, hình ảnh... Bên cạnh đó cũng cần chất nghệ sĩ, năng khiếu và sự khổ công rèn luyện nhất định. Do vậy, giáo viên cần rèn luyện về cách đọc, giọng đọc, cách biểu cảm của ánh mắt, điệu bộ; khắc phục những âm thanh chưa chuẩn, hoặc thiếu sức hấp dẫn; đồng thời giúp học sinh phát hiện những yếu kém của mình trong cách đọc, cách kể để từng bước khắc phục. Đó cũng là một trong những yêu cầu để bồi dưỡng năng lực CTVH cho học sinh. 1.2.3.5. Có khả năng diễn đạt mạch lạc, trong sáng, giản dị Giáo viên cần phải có năng lực diễn đạt tốt. Năng lực diễn đạt nói chung là năng lực ngôn ngữ - tư duy, thể hiện rõ nhất trong việc sử dụng từ ngữ trong sáng, giản 9 dị, giàu sức gợi cảm, gợi tả; biết khơi gợi ý tứ, và biết trình bày mạch lạc các ý, các đoạn… Lời diễn giảng của giáo viên phải xác đáng, trong sáng và trôi chảy, song sức mạnh của lời nói còn phụ thuộc nhiều vào cảm xúc của người nói. Cảm xúc đó phải là thứ cảm xúc chân thực xuất phát từ bài văn. Không có cảm xúc thực sự thì lời nói sẽ giả tạo. Muốn tăng sức truyền cảm thì lời nói cũng cần sự hỗ trợ bằng cử chỉ, nét mặt của giáo viên. Trong trường hợp này, hình ảnh người giáo viên lên lớp cũng là một trực quan sinh động. Giáo viên nói không chỉ bằng giọng nói. Nét mặt, điệu bộ và cả đôi tay cũng tham gia vào câu nói. Đôi khi một cánh tay giơ lên, một bàn tay nắm chặt hay một cử chỉ tương tự khác lại có giá trị hơn cả một câu nói. Song cử chỉ, điệu bộ phải phù hợp với ý nghĩa của lời nói và tình cảm của người nói. Muốn có được năng lực này, giáo viên thường xuyên trao dồi ngôn ngữ, rèn giũa tư duy, sao cho cách nói, cách viết đạt tới trình độ trong sáng, giản dị, phù hợp với nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực CTVH cho học sinh. 1.2.4. Đặc trưng cảm thụ văn học ở trường Tiểu học Trong nhà trường nói chung, khái niệm CTVH được giới hạn ở cách hiểu trong ý nghĩa sư phạm. Đó là cách cảm thụ mang tính phổ cập, phù hợp với nhiều loại đối tượng chứ không chỉ dành riêng cho những cá nhân có năng khiếu. Đây là sự cảm thụ bao hàm những đặc điểm cơ bản, dễ nhận thấy nhất. Đặc trưng CTVH ở trường tiểu học bao gồm: - Tác phẩm được cảm thụ là những tác phẩm đã được chọn lọc, có giá trị nhân văn rõ rệt, tương đối ổn định về sự đánh giá của xã hội, có hình thức nghệ thuật độc đáo nhưng không quá khó với bạn đọc lứa tuổi tiểu học. - Nếp cảm, nếp nghĩ, phương pháp tư duy của nhà văn đa số mang tính truyền thống, dân tộc và đại chúng, gần gũi, phù hợp với học sinh tiểu học. Có những giá trị cách tân, hiện đại nhưng không đến mức quá xa lạ với các em, không mang màu sắc cá tính đặc biệt đến mức quá khó để cảm thụ hoặc còn gây nhiều tranh cãi. - Tất cả những giá trị nội dung và hình thức của tác phẩm đều có xu hướng “định lượng” hoặc “mô phạm hoá”, tức có thể dùng sự phân tích lí tính là chủ yếu trong việc khám phá cái hay, cái đẹp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi tương đối cho quá trình nhận thức và vận dụng. - Do tính chất sư phạm nên cảm thụ trong nhà trường nói chung là hoạt động “tái cảm thụ” và “ tập cảm thụ”. Trong quá trình dạy học, tất nhiên không nên bắt buộc học 10

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Chủ Đề