Giao tiếp liên nhân cách là gì

Giao tiếp là vấn đề nghiên cứu khá cơ bản và phổ biến của một số nhà nghiên cứu Tâm lý học. Việc nghiên cứu giao tiếp đã đạt đến những thành tựu nhất định trong giai đoạn hiện nay và trong lịch sử, những nghiên cứu về giao tiếp đã hình thành từ rất sớm. Khi con người bắt đầu quan tâm đến hoạt động giao tiếp thì cũng lúc ấy, những tia sáng đầu tiên nghiên cứu về giao tiếp bắt đầu xuất hiện.

Giao tiếp không chỉ là địa hạt quan tâm của Tâm lý học mà nó còn là thành tựu của nhiều ngành khoa học như: Xã hội học, Giáo dục học, Ngôn ngữ học, Nhân học... Tuy nhiên, Tâm lý học nghiên cứu giao tiếp dưới góc nhìn giao tiếp như là một hoạt động cơ bản trong đời sống con người có màu sắc đặc trưng và độc đáo riêng.

1. Sơ lược việc nghiên cứu về giao tiếp

Những năm đầu thế kỷ XX, Tâm lý học đã bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu vấn đề giao tiếp.

Những nghiên cứu của S.Freud về sự đồng nhất hóa để lý giải, phân tích các giấc mơ và một số quá trình ở trẻ em như sự bắt chước các khuôn mẫu của “những người quan trọng khác”, sự hình thành cái “siêu tôi” tiếp nhận vai trò nam, nữ... đã cho thấy cơ chế đồng nhất hóa đảm bảo mối liên hệ qua lại giữa các chủ thể trong nhóm xã hội, từ đó tạo ra sự đồng nhất cảm xúc, thấu cảm, tiếp thu tình cảm của người khác. Trong giao tiếp, sự đồng nhất này là vô cùng quan trọng vì nó cho phép cá nhân hiểu được tâm lý của một người xa lạ với cái tôi của cá nhân. Theo Freud, trong một số trường hợp thì sự đồng nhất cảm xúc mang tính chất “truyền nhiễm tâm lý” và rất đặc trưng cho đám đông hợp quần.

Tâm lý học Gestalt quan tâm đến hiện tượng giao tiếp như một cấu trúc trọn vẹn. Họ phân tích giao tiếp thành các yếu tố và đặt chúng trong hệ thống các yếu tố rộng hơn, các quan hệ xã hội. Khi nghiên cứu các yếu tố giao tiếp, nhà tâm lý học Pháp Bateson đã phân biệt thành hai hệ thống giao tiếp là giao tiếp đối xứng và giao tiếp bổ sung. Theo ông, mọi giao tiếp đều biểu hiện ra ở một trong những phương thức ấy, nó thể hiện tính hệ thống khi thiết lập được sự bình đẳng hay sự tương hỗ và tính bổ sung khi thể hiện sự khác nhau. 

Ngành Tâm lý học của Liên Xô [cũ] cũng nghiên cứu vấn đề giao tiếp nhưng theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau:

Hướng thứ 1: Nghiên cứu lý luận chung về giao tiếp như bản chất, cấu trúc, cơ chế giao tiếp, phương pháp luận nghiên cứu giao tiếp, mối quan hệ giữa giao tiếp và hoạt động... Hướng nghiên cứu này thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô [cũ] như “Về bản chất giao tiếp người” [1973] của Xacopnhin, “Tâm lý học về các mối quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ” [1976] của I.L.Kolominxki, “Tâm lý học giao tiếp” [1978] của A.A.Leonchiev, “Giao tiếp trong tâm lý học” [1981] của K.Platonov, “Phạm trù giao tiếp và hoạt động trong tâm lý học” của B.P.Lomov. Hướng nghiên cứu này tồn tại hai luồng quan điểm khác nhau:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng giao tiếp có thể là một dạng hoạt động hoặc có thể là một phương thức, điều kiện của hoạt động. Đại diện cho quan điểm theo xu hướng này là A.A.Leonchiev.

- Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động và giao tiếp là những phạm trù tương đối độc lập trong quá trình thống nhất của đời sống con người. Phạm trù “hoạt động” phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể - khách thể, phạm trù “giao tiếp” phản ánh mối quan hệ chủ thể - chủ thể.

Hướng thứ 2: Nghiên cứu các dạng giao tiếp nghề nghiệp trong đó giao tiếp sư phạm là một loại giao tiếp nghề nghiệp được nhiều nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một vài tác giả có những nghiên cứu về giao tiếp sư phạm như A.A. Leonchiev với “Giao tiếp sư phạm” [1979], A.V.Petropxki với “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm”... và một số tác giả khác tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong giao tiếp trường học.

Tiếp theo, có thể đề cập đến học thuyết về nhu cầu của A.Maslow đưa ra hệ thống năm bậc về nhu cầu của con người: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu cái tôi, nhu cầu tự thể hiện. Trong quá trình giao tiếp, cần có khả năng nhận diện và khơi gợi ở người khác những nhu cầu vì thông qua giao tiếp các chủ thể mới có thể được thỏa mãn và làm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân.

Sơ đồ 1: Sơ đồ về mối quan hệ giữa các trạng thái bản ngã trong giao tiếp

Một trong những nghiên cứu về giao tiếp dưới góc độ tương tác tâm lý là học thuyết phân tích giao tiếp dựa trên cơ sở mọi hành vi của con người đều xuất phát từ một trong ba trạng thái bản ngã là phụ mẫu, thành niên và trẻ con. Khi giao tiếp với nhau, người này đưa ra một tác nhân từ một trong ba trạng thái bản ngã thì người kia cũng đáp lại một phản hồi từ một trong ba trạng thái bản ngã. Do đó, mối quan hệ giao tiếp giữa hai người được coi là có hiệu quả khi người đưa ra tác nhân nhận lại phản hồi như mong muốn và “đường đi” của tác nhân và phản hồi không chồng chéo lên nhau. Đó là cơ sở quan trọng để xác lập hiệu quả của giao tiếp.

Học thuyết giao tiếp liên nhân cách cho rằng giao tiếp là sự trao đổi thông tin về những quan điểm, ý kiến, cảm xúc và ngay cả những “cái tôi” của chính bản thân. Mức độ hiểu biết về bản thân, về người trong giao tiếp là yếu tố quan trọng giúp giao tiếp thành công. Sự hiểu biết người khác và hiểu biết về chính bản thân của chủ thể giao tiếp được minh họa bằng bốn khu vực khác nhau trong quan hệ giữa việc tự nhận thức về mình và nhận thức về người khác. Khoảng không nhận thức về mình rõ ràng và những khoảng không người khác hiểu về mình sẽ tạo ra hiệu ứng tương tác tâm lý tích cực trong giao tiếp.

Thông qua trao đổi thông tin với nhau, các cá nhân trong giao tiếp mới có thể hiểu biết về bản thân mình và người khác. Điều này được xây dựng trên cơ sở lòng tin trong giao tiếp giữa các chủ thể.

Học thuyết giao tiếp do Jurgen Ruesch và cộng sự phát triển nhấn mạnh vấn đề khó khăn trong giao tiếp tập trung ở những gì cá nhân suy nghĩ, không tập trung ở những gì cá nhân nói hay viết. Công việc của giao tiếp là xóa đi khoảng cách trong suy nghĩ giữa người này và người khác trong việc dùng ngôn ngữ. Các yếu tố trong giao tiếp như hoàn cảnh xã hội, vai trò, vị trí, những nguyên tắc và luật lệ, những thông điệp có tầm quan trọng giúp chủ thể hiểu được tác động của xã hội và ý định của người khác trong giao tiếp.

Đề cập đến vấn đề giao tiếp trong quản lý, trong những công trình nghiên cứu về giao tiếp nổi bật lên có ba loại lý thuyết là thuyết X, thuyết Y và thuyết Z. Thuyết X và thuyết Y do Douglas McGregor đưa ra là hai hệ thống giả thuyết về bản chất con người. Theo McGregor công tác quản lý phải bắt đầu từ câu hỏi là các nhà quản lý có thể nhìn nhận bản thân họ như thế nào trong mối liên hệ với người khác. Do đó, cần nhìn nhận rõ bản chất của con người trong giao tiếp để có cách quản lý hiệu quả. Thuyết Z do Sve Lung Stendt xây dựng chủ trương phóng túng trong việc quản lý con người để giảm mức tối thiểu sự chỉ huy nhằm gây tính tự lập, tự chủ của người dưới quyền để giúp họ thi thố sáng kiến, tính sáng tạo và chịu trách nhiệm. Quan điểm của thuyết này chủ yếu dựa trên niềm tin và sự tinh tế trong quan hệ giao tiếp trong quá trình quản lý.

Học thuyết giao tiếp xã hội bắt nguồn từ tâm lý ngôn ngữ học, xã hội học và tâm lý học hiện sinh, nhấn mạnh vai trò của các năng lực giao tiếp, năng lực và cái tôi của cá nhân trong mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân trong quá trình xã hội hóa - quá trình hình thành cá thể người với tư cách là một cơ cấu sinh học mang tính người thích nghi với cuộc sống xã hội; qua đó, hấp thụ và phát triển những năng lực người đặc trưng trưởng thành như một nhân cách xã hội duy nhất không lặp lại.

Bên cạnh những nghiên cứu về giao tiếp thì những nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp cũng được quan tâm đặc biệt. Trong tâm lý học Liên Xô [cũ], nhiều nhà tâm lý học cũng quan tâm nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong các lĩnh vực nghề nghiệp.

A.A.Leonchiev đã liệt kê các kỹ năng giao tiếp sư phạm như kỹ năng điều khiển hành vi bản thân, kỹ năng quan sát, kỹ năng nhạy cảm xã hội, biết phán đoán nét mặt người khác, kỹ năng đọc, hiểu, biết mô hình hóa nhân cách học sinh, kỹ năng làm gương cho học sinh, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ, kỹ năng kiến tạo sự tiếp xúc, kỹ năng nhận thức.

Paul Ekman, tác giả cuốn sách “Emotion Revealed” nêu lên vấn đề cảm xúc biểu hiện trong giao tiếp của cá nhân thể hiện qua nét mặt, từ đó đề cập đến kỹ năng nhận diện nét mặt và các cảm xúc đi kèm trong quá trình giao tiếp như một kỹ năng giao tiếp cơ bản.

IP.Dakharov nghiên cứu và đưa ra trắc nghiệm tự đánh giá kỹ năng giao tiếp gồm các kỹ năng như kỹ năng tiếp xúc, thiết lập quan hệ, kỹ năng biết cân bằng nhu cầu bản thân và đối tượng trong quá trình giao tiếp, kỹ năng nghe đối tượng, kỹ năng tự kiềm chế, kiểm tra người khác, kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi, kỹ năng diễn dạt dễ hiểu, cụ thể, kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng chủ động điều khiển quá trình giao tiếp, kỹ năng nhạy cảm trong giao tiếp.

Vấn đề kỹ năng giao tiếp của sinh viên cũng là một hướng nghiên cứu nhận được nhiều sự quan tâm. Thông qua quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên, nhiều kỹ năng trong đó có kỹ năng giao tiếp được hình thành. Ngược lại, kỹ năng giao tiếp cũng đem lại nhiều hiệu quả cho quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Mối quan hệ giữa quá trình tiếp nhận lý thuyết và quá trình rèn luyện kỹ năng được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, ở đây, việc tiếp cận các tình huống thực tiễn, thể nghiệm việc giao tiếp cũng như rút tỉa các kinh nghiệm và đặc biệt là vận dụng những thao tác và những hành vi thuộc về kỹ năng giao tiếp được xem là con đường và cách thức cơ bản để có thể hình thành các kỹ năng giao tiếp một cách hiệu quả, sống động, xác thực và sâu sắc.

2. Lý luận về giao tiếp

2.1. Khái niệm giao tiếp

Giao tiếp là vấn đề phức tạp. Có nhiều hướng nghiên cứu về vấn đề giao tiếp, từ đó có rất nhiều quan điểm về giao tiếp, có thể điểm qua một số quan điểm về giao tiếp như sau:

Theo quan điểm của các nhà tâm lý học xã hội thì giao tiếp được xem là quá trình thông tin bao gồm việc thực hiện và duy trì sự liên hệ giữa các cá nhân.

Nhà tâm lý học xã hội Mỹ C.E.Osgood cho rằng giao tiếp bao gồm các hành động riêng rẽ mà thực chất là chuyển giao thông tin và tiếp nhận thông tin. Ông cho rằng giao tiếp là một quá trình gồm hai mặt: liên lạc và ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau.

Nhà tâm lý học xã hội người Anh M.Argule lại mô tả giao tiếp như quá trình ảnh hưởng lẫn nhau qua các hình thức tiếp xúc khác nhau. Giao tiếp thông tin được biểu hiện bằng lời hay bằng phi ngôn ngữ từ nhiều người đến một người giống như việc tiếp xúc thân thể của con người trong quá trình tác động qua lại về mặt vật lý và chuyển dịch không gian.

Nhà tâm lý học xã hội Mỹ T.Sibutanhi nghiên cứu khái niệm liên lạc như là hoạt động đảm bảo cho sự giúp đỡ lẫn nhau, phối hợp hành động và thích ứng hành vi của các cá thể tham gia quá trình giao tiếp. Ông cho rằng “Liên lạc trước hết là phương pháp hoạt động làm giản đơn hóa sự thích ứng hành vi lẫn nhau của con người. Những cử chỉ và âm điệu khác nhau trở thành liên lạc, khi con người sử dụng vào các tình thế tác động qua lại”.

Các nhà Tâm lý học Liên Xô [cũ] cũng quan tâm nghiên cứu vấn đề giao tiếp trên nhiều khía cạnh. Ở đây, có thể điểm qua một số quan điểm:

- Đề cập giao tiếp ở góc độ tiếp cận nhận thức, L.X.Vưgotxki cho rằng giao tiếp là quá trình chuyển giao tư duy và cảm xúc. K.K.Platonôv cho rằng: “Giao tiếp là những mối liên hệ có ý thức của con người trong cộng đồng loài người”.

- Xem xét giao tiếp là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người hay giữa nhân cách này với cách khác trong mối quan hệ liên nhân cách, B.Ph.Lomov cho rằng: “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tư cách chủ thể”.

- Dưới góc độ nhân cách, V.N.Miaxixev cho rằng: “Giao tiếp là một quá trình quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các nhân cách cụ thể”. Theo Ia.L.Kolôminxki thì “giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng và thông tin giữa con người với con người, trong đó những quan hệ nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành”.

- Ở góc độ tiếp cận về chức năng giao tiếp, theo B.Parưgin thì: “Giao tiếp là quá trình quan hệ tác động giữa các cá thể, là quá trình thông tin quan hệ giữa con người với con người, là quá trình hiểu biết lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và trao đổi xúc cảm lẫn nhau”.

- Ở góc độ xem xét giao tiếp là một dạng hoạt động, định nghĩa của A.N.Lêônchiev đã chỉ ra: “Giao tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích và động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lý và sử dụng những phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ”.

- L.P.Bueva coi: “Giao tiếp không chỉ là một quá trình tinh thần mà còn là quá trình vật chất, quá trình xã hội, trong đó diễn ra sự trao đổi hoạt động, kinh nghiệm, sản phẩm của hoạt động”.

- Tiếp cận ở khía cạnh hệ thống, Georgen Thiner cho rằng: “Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin, qua đó các trạng thái của hệ thống phát thông tin phát huy ảnh hưởng tới trạng thái của hệ nhận thông tin”.

- David K.Berlo [1960] định nghĩa: “Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không có chủ định, có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm xúc và tư tưởng được diễn đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. Giao tiếp của con người diễn ra ở các mức độ: trong con người, giữa con người với con người và công cộng. Giao tiếp của con người là một quá trình năng động, bất thuận nghịch, tác động qua lại và có tính chất ngữ cảnh”.

Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp mới được nghiên cứu từ những năm 1970 - 1980 và cũng có những khái niệm về giao tiếp được xác lập.

- Định nghĩa về giao tiếp, Phạm Minh Hạc cho rằng: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa người ta với nhau”.

- Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện cho rằng: “Giao tiếp là sự trao đổi giữa người và người thông qua ngôn ngữ nói, viết, cử chỉ. Ngày nay, từ này hàm ngụ sự trao đổi ấy thông qua một bộ giải mã, người phát tin mã hóa một số tín hiệu, người tiếp nhận giải mã, một bên truyền một ý nghĩa nhất định để bên kia hiểu được”.

- Theo tác giả Nguyễn Thạc, Hoàng Anh thì “giao tiếp là hình thức đặc biệt cho mối quan hệ giữa con người với con người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau”.

- Tác giả Diệp Quang Ban và Đinh Trọng Lạc quan niệm: “Giao tiếp là sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể này với cá thể khác trong cộng đồng xã hội”. Hai tác giả mở rộng hơn khái niệm giao tiếp khi cho rằng: “Loài động vật cũng có thể làm thành những xã hội vì chúng sống có giao tiếp với nhau như xã hội loài ong, xã hội loài kiến”.

- Tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa đưa ra khái niệm giao tiếp là mối liên hệ và quan hệ giữa người và người trong các nhóm và các tập thể xã hội nhờ đó con người mới có thể thực hiện các hoạt động của mình nhằm cải biến hiện thực khách quan xung quanh hoặc chính bản thân.

- Còn với tác giả Nguyễn Ngọc Bích: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, hiểu biết, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau”.

- Tác giả Trần Trọng Thủy thì quan niệm: “Giao tiếp của con người là một quá trình chủ đích hay không có chủ đích, có ý thức hay không có ý thức trong đó các cảm xúc và tư tưởng được diễn đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ”.

- Với tác giả Trần Hiệp: “Giao tiếp là một trong những dạng thức cơ bản của hoạt động của con người. Nó làm tăng cường hay giảm bớt khả năng thích ứng hành vi lẫn nhau trong quá trình tác động qua lại”.

- Theo từ điển Tâm lý học: “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển tiếp xúc giữa các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao tiếp gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. Giao tiếp có ba khía cạnh chính là giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác”.

- Tác giả Nguyễn Quang Uẩn khẳng định: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói cách khác, giao tiếp xác lập và vận hành cá quan hệ người - người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác”.

- Tác giả Vũ Dũng cho rằng: “Giao tiếp là quá trình hình thành và phát triển sự tiếp xúc giữa người với người được phát sinh từ nhu cầu trong hoạt động chung, bao gồm sự trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược tương tác thống nhất tri giác và tìm hiểu người khác” hay “Giao tiếp là sự tác động tương hỗ của các chủ thể phát sinh từ nhu cầu hoạt động chung được thực hiện bằng những công cụ quen thuộc và hướng đến những thay đổi có ý nghĩa trong trạng thái, hành vi và cấu trúc ý - cá nhân của đối tác”.

- Theo tác giả Nguyễn Văn Đồng: “Giao tiếp là tiếp xúc tâm lý có tính đa chiều và đồng chủ thể giữa người với người được quy định bởi các yếu tố văn hóa, xã hội và đặc trưng tâm lý cá nhân. Giao tiếp có chức năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, trao đổi thông tin, cảm xúc định hướng và điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân và của nhau, tri giác lẫn nhau, tạo dựng quan hệ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau”.

- Dưới góc độ quản lý, giao tiếp quản lý là sự thiết lập nên những mối quan hệ hai chiều lẫn nhau về mặt tâm lý giữa chủ thể quản lý với các chủ thể được quản lý nhằm giải quyết hợp lý những nhiệm vụ giao tiếp quản lý, làm cơ sở cho việc thực thi có hiệu quả những nhiệm vụ quản lý xác định.

- Trong quản trị và kinh doanh, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ giữa người và người, hoặc giữa người và các yếu tố xã hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.

Qua các khái niệm trên có thể thấy rằng giao tiếp là quá trình tác động qua lại, trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, nhận biết lẫn nhau giữa hai chủ thể giao tiếp. Giao tiếp thường tham gia vào hoạt động thực tiễn của con người như lao động, học tập, vui chơi... bảo đảm cho sự tác động, tham gia vào quá trình thực hiện và kiểm tra hoạt động của con người. Đó là một quá trình thiết lập mối quan hệ đa chiều giữa một người với một người hoặc với nhiều người xung quanh, liên quan đến sự truyền đạt thông điệp và sự đáp ứng với sự truyền đạt ấy, là quá trình qua đó chúng ta phát và nhận thông tin, suy nghĩ, có ý kiến và thái độ để có được sự thông cảm và hành động tiến tới việc chia sẻ mà qua đó, thông điệp đáp ứng được xuất hiện. Giao tiếp là quá trình nói, nghe và trả lời để chúng ta có thể hiểu và phản ứng với nhau trải qua nhiều mức độ, từ thấp đến cao, từ sự e dè bề ngoài đến việc bộc lộ những tình cảm sâu kín bên trong.

Do vậy, quan hệ người - người được xác lập, vận hành và thể hiện trong giao tiếp. Về phương diện nhận thức, giao tiếp là một quá trình mà con người ý thức được mục đích, nội dung và những phương tiện cần thiết để đạt kết quả khi tiếp xúc với người khác. Từ cơ sở đó, giao tiếp diễn ra dưới dạng trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, nhu cầu... của các chủ thể tham gia vào quá trình giao tiếp. Qua đó, mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình và hòa nhập vào xã hội trong quá trình giao tiếp.

Giao tiếp là một biểu hiện của quan hệ xã hội, mang tính xã hội. Các quan hệ xã hội được thực hiện trong giao tiếp giữa người với người với nội dung xã hội cụ thể và thực hiện trong hoàn cảnh xã hội nhất định. Từ đó, tính chất xã hội được thể hiện qua việc kết nối các thành viên trong xã hội với nhau trong mối quan hệ giao tiếp.

Như vậy, giao tiếp là quá trình hình thành và phát triển sự tiếp xúc giữa người với người được phát sinh từ nhu cầu trong hoạt động chung, bao gồm sự trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược tương tác thống nhất tri giác và tìm hiểu người khác nhằm đạt được một mục đích nào đó. Nói cách khác, giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ xã hội giữa người và người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định và nhằm đạt mục đích nào đó.

2.2. Chức năng của giao tiếp

Nghiên cứu về vai trò, chức năng của giao tiếp, A.N.Leonchiev đã đánh giá cao vai trò của giao tiếp trong quá trình hình thành nhân cách trẻ. Ông cho rằng hoạt động của trẻ bao giờ cũng nằm trong giao tiếp. Giao tiếp dưới hình thức cùng hoạt động, hoặc dưới hình thức giao tiếp ngôn ngữ hay thậm chí giao tiếp trong ý nghĩ cũng đều là điều kiện tất yếu và chuyên biệt của sự phát triển con người trong xã hội. Theo ông, trong quá trình giao tiếp, kế hoạch hoạt động chung được hình thành và các yếu tố hoạt động chung giữa các thành viên được phân bố. Trong hoạt động chung, sự trao đổi thông tin, sự kích thích lẫn nhau, sự kiểm tra và điều chỉnh hành động được thực hiện.

Theo tiêu chí mục tiêu, L.A.Karpenco cho rằng giao tiếp có tám chức năng:

- Chức năng tiếp xúc - mục tiêu: việc tiếp xúc như là trạng thái chuẩn bị chung để tiếp nhận và truyền đạt thông báo, củng cố quan hệ ở hình thức định hướng lẫn nhau thường xuyên.

- Chức năng thông tin - mục đích: trao đổi các thông báo.

- Chức năng kích thích - mục đích: kích thích tích cực đối tác giao tiếp, hướng họ thực hiện hành động nhất định

- Chức năng định vị - mục đích: định hướng và thống nhất hành động trong hoạt động chung.

- Chức năng hiểu biết - mục đích: hiểu biết nội dung thông báo và hiểu biết lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp.

- Chức năng tạo động cơ - mục đích: khơi dậy ở đối tác những trải nghiệm tình cảm cần thiết đồng thời qua sự giúp đỡ của họ thay đổi trải nghiệm, trạng thái của chính chủ thể.

- Chức năng hình thành các mối quan hệ - mục đích: nhận thức và xác định vị trí bản thân trong hệ thống vai, vị thế, quan hệ.

- Chức năng gây ảnh hưởng - mục đích: thay đổi trạng thái, hành vi, cấu trúc ý hướng cá nhân của đối tác.

Theo nhà ngôn ngữ học cấu trúc Jacobson [1961], mô hình giao tiếp theo cấu trúc có 6 yếu tố: người truyền tin, người nhận tin, bản thông điệp, bộ mã, sự tiếp xúc, bối cảnh giao tiếp. Từ đó, ông nêu lên 6 chức năng của giao tiếp:

- Chức năng nhận thức [funtion cognitive]: truyền đạt và lĩnh hội các sự kiện, khái niệm, giá trị.

- Chức năng cảm xúc [funtion emotive]: tạo ấn tượng, cảm xúc tốt đẹp giữa các chủ thể giao tiếp.

- Chức năng duy trì sự tiếp xúc [function phatique]: lấp chỗ trống trong các cuộc đối thoại.

- Chức năng mơ mộng [function poétique]: sử dụng cách nói mang chất thơ, thú vị... để tạo ấn tượng khó phai mờ.

- Chức năng siêu ngữ [function métalingguistique]: chọn lọc các cách nói, diễn đạt nghĩa bóng.

- Chức năng quy chiếu [function referentielle]: tìm hiểu đặc điểm về sức khỏe, tâm lý, vị thế xã hội, hoàn cảnh riêng của người đối thoại khi giao tiếp để chọn cách tiếp cận, lời nói, cách tạo không khí phù hợp, thuận lợi cho thực hiện mục tiêu giao tiếp.

Nhà Tâm lý học Xô viết B.Ph.Lômôv cho rằng giao tiếp có ba chức năng:

- Chức năng giao tiếp - thông tin.

- Chức năng giao tiếp - điều chỉnh.

- Chức năng giao tiếp - cảm xúc.

Theo A.A.Pruzin giao tiếp có các chức năng sau:

- Chức năng công cụ của giao tiếp cần thiết cho sự trao đổi thông tin trong quá trình điều hành và trong quá trình lao động chung.

- Chức năng nghiệp đoàn thể hiện ở việc đoàn kết nhóm lớn và nhóm nhỏ có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục và truyền đạt kiến thức, phương thức hoạt động và tiêu chuẩn đánh giá.

- Chức năng tự thể hiện hướng đến việc tìm kiếm và đạt được sự hiểu biết lẫn nhau.

Các nhà tâm lí học Việt Nam cũng nghiên cứu những chức năng khác nhau của giao tiếp. Những nghiên cứu này cũng đem đến những cái nhìn mới lại về vấn đề giao tiếp.

Tác giả Nguyễn Xuân Thức phân chia chức năng của giao tiếp thành hai nhóm:

- Nhóm các chức năng thuần túy xã hội bao gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay một nhóm người để điều khiển và tác động lẫn nhau.

- Nhóm các chức năng tâm lý xã hội gồm các chức năng giao tiếp phục vụ nhu cầu của từng thành viên trong xã hội với người khác.

Tác giả Chu Văn Đức cũng chia chức năng của giao tiếp thành nhóm:

- Nhóm chức năng xã hội gồm cách chức năng

+ Chức năng thông tin

+ Chức năng tổ chức, phối hợp hành động

+ Chức năng điều khiển

+ Chức năng phê bình và tự phê bình

- Nhóm chức năng tâm lý gồm các chức năng

+ Chức năng động viên, khích lệ

+ Chức năng thiết lập, phát triển, củng cố các mối quan hệ

+ Chức năng cân bằng cảm xúc

+ Chức năng hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách.

Theo tác giả Nguyễn Văn Lê thì giao tiếp có ba chức năng:

- Chức năng thông tin.

- Chức năng biểu hiện tình cảm

- Chức năng liên kết con người, điều khiển, phối hợp hành động.

Tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng giao tiếp có các chứcnăngsau đây:

- Chức năng định hướng hoạt động

- Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi.

Tác giả Hoàng Anh cho rằng giao tiếp có các chức năng cơ bản:

- Chức năng thông tin hai chiều giữa hai người hay hai nhóm người

- Chức năng tổ chức, điều khiển, phối hợp hành động của một nhóm người trong một hoạt động cùng nhau.

- Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách.

Hai tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy trong cuốn sách “Nhập môn khoa học giao tiếp” cho rằng giao tiếp có các chức năng sau:

- Chức năng tổ chức hoạt động phối hợp cùng nhau

- Chức năng làm cho con người nhận thức được lẫn nhau

- Chức năng hình thành và phát triển các mối quan hệ liên nhân cách.

Với tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn sách “Tâm lý học đại cương” có thể chia các chức năng giao tiếp như sau:

- Chức năng thông tin hai chiều [chức năng nhận thức]

- Chức năng thể hiện và đánh giá thái độ xúc cảm

- Chức năng liên kết, phối hợp hoạt động

- Chức năng đồng nhất hóa: tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau, thông cảm, đồng cảm chung giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm, nhóm này và nhóm khác

- Chức năng giáo dục.

Theo tác giả Trần Hiệp, giao tiếp bao gồm ba cấp chức năng cơ bản:

- Chức năng thông tin liên lạc

- Chức năng điều chỉnh hành vi

- Chức năng kíchđộng liên lạc.

Ngoài ra, có thể phân chia chức năng giao tiếp thành:

- Chức năng tổ chức hoạt động chung

- Chức năng nhận thức giữa người với người

- Chức năng hìnhthành và phát triển quanhệ liên nhân cách.

Tâm lý học quản lý nhìn nhận dưới góc độ quản lý thì giao tiếp có các chức năng sau:

- Chức năng định hướng cho mọi hoạt động và cho việc thiết lập mối quan hệ.

- Chức năng thông tin, đánh giá lẫn nhau và nối mạch cho thiết lập quan hệ quan hệ.

- Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi, việc thiết lập quan hệ giao tiếp.

Dưới góc độ Tâm lý học giao tiếp, tác giả Nguyễn Văn Đồng cho rằng giao tiếp có các chức năng:

- Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người. Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp.

- Chức năng thông tin.

- Chức năng nhận thức về tự nhiên, xã hội, về bản thân [tự nhận thức] và về người khác [tri giác xã hội].

- Chức năng cảm xúc giúp con người thỏa mãn những nhu cầu xúc cảm, tình cảm.

- Chức năng định hướng, tổ chức, phối hợp hoạt động và điều chỉnh hành vi của bản thân và của người khác.

- Chức năng hình thành và phát triển các quan hệ liên nhân cách.

Trên cơ sở các quan điểm trên có thể thấy giao tiếp có vai trò, chức năng cụ thể như sau:

* Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người

Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp và cũng là chức năng mà con người sử dụng sớm nhất trong giao tiếp. Giao tiếp không chỉ đáp ứng các nhu cầu đơn giản của con người như ăn, mặc, ở, tự vệ... mà còn cả các nhu cầu cao hơn như nhu cầu nhận thức, nhu cầu tình cảm, nhu cầu truyền đạt kinh nghiệm... Các nhu cầu đó được thỏa mãn trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua giao tiếp. Do vậy, giao tiếp là điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển.

* Chức năng thông tin hai chiều giữa các chủ thể tham gia giao tiếp

Đây là chức năng có vai trò quan trọng thứ hai sau chức năng thỏa mãn nhu cầu của giao tiếp. Chức năng này biểu hiện ở khía cạnh truyền thông của giao tiếp thể hiện qua hai mặt truyền tin và nhận tin. Qua giao tiếp mà con người trao đổi với nhau những thông tin nhất định, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm... cho nhau. Mỗi cá nhân trong giao tiếp vừa là nguồn phát thông tin vừa là nguồn thu thông tin.

* Chức năng tổ chức, điều khiển, phối hợp hành động của một nhóm người trong cùng một hoạt động cùng nhau

Đây là chức năng dựa trên cơ sở xã hội. Trong một nhóm, một tổ chức có nhiều cá nhân, nhiều bộ phận nên để có thể tổ chức hoạt động hiệu quả, phối hợp nhịp nhàng thì các cá nhân phải có sự tiếp xúc với nhau để trao đổi, bàn bạc, phân công công việc cũng như phổ biến tiến trình, cách thức thực hiện công việc thì mới có thể tạo sự thống nhất, hiệu quả trong công việc chung. Nhờ chức năng này, con người có thể phối hợp cùng nhau để giải quyết một nhiệm vụ nhất định đạt tới mục tiêu đề ra trong quá trình giao tiếp.

* Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi

Chức năng này thể hiện ở sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong giao tiếp. Đây là một chức năng quan trọng trong giao tiếp vì trong quá trình giao tiếp, cá nhân có thể tác động, gây ảnh hưởng đến người khác đồng thời người khác cũng có thể tác động, gây ảnh hưởng đối với cá nhân đó. Qua đó, cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của mình cũng như điều khiển hành vi của người khác trong giao tiếp. Trong giao tiếp, cá nhân có thể tác động đến động cơ, mục đích, quá trình ra quyết định và hành động của người khác.

* Chức năng xúc cảm

Chức năng này giúp con người thỏa mãn những nhu cầu xúc cảm, tình cảm. Trong giao tiếp, cá nhân có thể biểu lộ thái độ, tâm trạng của mình đối với người khác cũng như có thể bộc lộ quan điểm, thái độ về một vấn đề nhất định. Ngược lại, từ giao tiếp cá nhân cũng có thể nhận biết những xúc cảm, tình cảm nhất định của các cá nhân khác. Vì vậy, giao tiếp cũng là một trong những con đường hình thành tình cảm con người.

* Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau

Trong quá trình giao tiếp, các chủ thể luôn diễn ra quá trình nhận thức tri thức về tự nhiên, xã hội, nhận thức bản thân và nhận thức về người khác nhằm hướng tới những mục đích khác nhau trong giao tiếp. Giao tiếp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho con người trong quá trình nhận thức tri thức về tự nhiên, xã hội giúp con người lĩnh hội được khôi lượng kiến thức khổng lồ của nhân loại. Bên cạnh đó, giao tiếp là phương tiện giúp cá nhân tự nhận thức bản thân. Qua đó, cá nhân tiếp thu những đánh giá của mình về bản thân mà từ đó có sự đối chiếu và tự nhận thức, tự đánh giá lại, tự điều chỉnh bản thân. Ngược lại, cá nhân cũng có sự nhận thức người khác qua giao tiếp nhằm tìm hiểu, đánh giá về đối tượng mình giao tiếp từ đó mà có sự định hướng phù hợp trong giao tiếp.

* Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách

Thông qua giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội mà từ đó hình thành, phát triển nhân cách của mình do đó giao tiếp là điều kiện để tâm lý, nhân cách cá nhân phát triển bình thường và thông qua giao tiếp nhiều phẩm chất của con người, đặc biệt là các phẩm chất đạo đức được hình thành và phát triển. Nói cách khác, giao tiếp giúp con người tiếp nhận những kinh nghiệm và những chuẩn mực thông qua đó có sự hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện trên bình diện con người - cá nhân.

Chính những chức năng này của giao tiếp cũng ảnh hưởng và tạo nên vai trò hết sức độc đáo của giao tiếp. Giao tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của cá nhân cũng như ảnh hưởng đến đời sống xã hội của con người và là điều kiện của sự tồn tại và phát triển xã hội.

2.3. Phân loại giao tiếp

Dựa trên những tiêu chí khác nhau thì cách phân loại giao tiếp cũng khác nhau:

* Căn cứ vào phương tiện giao tiếp

- Giao tiếp bằng ngôn ngữ

Giao tiếp bằng ngôn ngữ là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người bằng cách sử dụng những tín hiệu chung là từ, ngữ. Đây là hình thức giao tiếp phổ biến nhất và đạt hiệu quả cao. Ngôn ngữ là các tín hiệu được quy ước chung trong một cộng đồng nhằm chỉ các sự vật hiện tượng gọi chung là nghĩa của từ. Người ta dùng từ ngữ để giao tiếp theo một ý nhất định. Tiếng nói và chữ viết trong giao tiếp ngôn ngữ thể hiện cả ý và nghĩa khi giao tiếp tạo ra hiệu ứng tổng hợp.

- Giao tiếp phi ngôn ngữ

Là hình thức giao tiếp không lời khi sử dụng các cử chỉ, điệu bộ và những yếu tố phi ngôn ngữ khác. Giao tiếp phi ngôn ngữ thực hiện những hành động, cử chỉ - điệu bộ, những yếu tố thuộc về sắc thái, hành vi, những phương tiện khác đòi hỏi người giao tiếp phải hiểu về nhau một cách tương đối.

* Căn cứ vào khoảng cách giao tiếp

- Giao tiếp trực tiếp là hình thức giao tiếp mặt đối mặt khi các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu của nhau.

- Giao tiếp gián tiếp là hình thức giao tiếp qua thư từ, phương tiện kỹ thuật hoặc những yếu tố đặc biệt khác.

* Căn cứ vào quy cách giao tiếp

- Giao tiếp chính thức là hình thức giao tiếp diễn ra theo quy định, theo chức trách. Các chủ thể trong giao tiếp phải tuân thủ những yêu cầu, quy định nhất định.

- Giao tiếp không chính thức là hình thức giao tiếp không bị ràng buộc bởi các nghi thức mà dựa vào tính tự nguyện, tự giác, phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú, cảm xúc của các chủ thể.

2.4. Cấu trúc của hành vi giao tiếp

Ở một góc độ nhất định, giao tiếp là hành vi truyền thông. Lẽ đương nhiên, dưới góc độ Tâm lý học thì hành vi truyền thông này là truyền thông mang tính chất tâm lý. Có thể nhìn nhận về hành vi giao tiếp như một quá trình truyền thông phong phú và phức tạp.

Có thể đề cập đến một số mô hình truyền thông cơ bản như sau để thông qua đó có thể nhìn về cấu trúc của hành vi giao tiếp.

Có thể nói đây là mô hình truyền thông đơn giản nhất nhưng chính nó cũng bộc lộ một cách khá đầy đủ cấu trúc của hành vi giao tiếp. Thông tin giao tiếp được truyền đi mang tính chất đa dạng được chuyển tải thông qua những kênh khác nhau và hiệu quả giao tiếp được xác lập dựa trên mối quan hệ tương tác tâm lý. Có thể nhận thấy cấu trúc hành vi giao tiếp này bộc lộ những ưu nhược điểm sau:

- Giao tiếp trực tiếp nên truyền thông tin chính xác, ít nhiễu.

- Hành vi giao tiếp chủ động có thể lấy ngay được phản hồi.

- Hành vi giao tiếp có thể được kiểm soát dẫu là tương đối.

Ngoài ra, có thể đề cập thêm đến mô hình hành vi giao tiếp một chiều hoặc mô hình hành vi giao tiếp được mã hóa và giải mã mang tính chất đa cấp... Những mô hình này hay những cấu trúc hành vi này tồn tại khá đa dạng và phong phú trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, chính những mô hình này cũng thể hiện khá nhiều ưu điểm cũng như những hạn chế của nó khi xét trên bình diện truyền thông.

* Mô hình truyền thông một chiều

- Gần giống mô hình đơn giản nhưng không có phản hồi.

- Có thể cùng lúc truyền tin cho rất nhiều người.

- Hay gặp trong hoạt động tuyên truyền trên phương tiện truyền thông đại chúng [đài, báo] hoặc báo cáo / thuyết trình một chiều. 

Hình 1: Mô hình truyền thông một chiều

* Mô hình truyền thông mã hóa và giải mã đa cấp

- Đây là mô hình truyền thông phức tạp, thường là doanh nghiệp, cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó có nhu cầu gửi thông tin cho đối tượng của mình.

- Nhờ mã hóa thành thông điệp mà nội dung truyền thông có thể tăng sức thuyết phục, hoặc xúc tích hơn.

- Tuy nhiên, do đã mã hóa nên quá trình giải mã có thể sai lệch với ý tưởng ban đầu.

- Nhờ phương tiện truyền thông mà thông điệp có thể chuyển tải dưới nhiều cách khác nhau, vượt qua nhiều khoảng cách khác nhau.

- Nhìn chung, mô hình này khá phức tạp nên sự điều khiển và kiểm soát thông tin cũng như những mối quan hệ cắt là điều rất quan trọng và trở thành yêu cầu cơ bản.

3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học giao tiếp

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học giao tiếp là bản chất, cấu trúc, cơ chế và những quy luật của giao tiếp. Ngoài ra, các nguyên tắc giao tiếp, phong cách giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, các mối quan hệ giao dịch trong giao tiếp dưới góc độ tâm lý học cũng như mối quan hệ giữa giao tiếp và hoạt động cũng là đối tượng của Tâm lý học giao tiếp.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tâm lý học giao tiếp tiếp cận vấn đề giao tiếp trong đời sống cũng như trong hoạt động của con người. Tâm lý học giao tiếp thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Nghiên cứu bản chất, cấu trúc, cơ chế và những quy luật của giao tiếp, hoạt động giao tiếp dưới góc nhìn tâm lý.

- Tìm hiểu vai trò, ý nghĩa và chức năng của giao tiếp trong cuộc sống và trong một số hoạt động cơ bản của con người.

- Tìm hiểu những vấn đề về giao dịch tâm lý, các kỹ năng giao tiếp, các thủ thuật giao tiếp để định hướng ứng dụng vào cuộc sống và nghề nghiệp của con người…

4. Phương pháp nghiên cứu tâm lý học giao tiếp

4.1. Phương pháp luận của việc nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp

Phương pháp luận của việc nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:

4.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan khi nghiên cứu

Các hiện tượng tâm lý trong giao tiếp, hoạt động giao tiếp, các tình huống giao tiếp là đối tượng nghiên cứu chính. Các hiện tượng này được nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, có nghĩa là nghiên cứu trong trạng thái tự nhiên nhất, thật nhất và tiêu chí trung thực, chính xác phải luôn luôn được đảm bảo.

4.1.2. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng khi nghiên cứu

Việc nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp phải nhìn nhận rằng những biểu hiện tâm lý trong hoạt động giao tiếp luôn chịu ảnh hưởng một cách đồng bộ bởi những yếu tố khác tác động đến tâm lý người. Từ những điều kiện sinh học đến những điều kiện xã hội hay vai trò đặc biệt quan trọng của chủ thể cùng với hoạt động của chủ thể đều được xem xét trong việc nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp. Đặc biệt, giao tiếp gắn chặt với đời sống tâm lý của con người khi giao tiếp trở thành phương cách thể hiện đời sống con người thông qua kênh thực tế.

4.1.3. Nguyên tắc thống nhất tâm lý, ý thức với hoạt động khi nghiên cứu

Nguyên tắc này khẳng định tâm lý, ý thức không tách rời khỏi hoạt động con người. Tâm lý, ý thức được hình thành, bộc lộ và phát triển trong hoạt động đồng thời định hướng điều chỉnh hoạt động. Các hiện tượng tâm lý của giao tiếp đều được nghiên cứu thông qua hoạt động của con người trong thực tế.

4.1.4. Nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp trong cái nhìn vận động và phát triển

Tâm lý người có sự nảy sinh, vận động và phát triển. Sự phát triển tâm lý người nói chung và giao tiếp của con người nói riêng là không ngừng nên khi nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp phải đảm bảo một cách nghiêm túc, tính thực tế nhưng có đảm bảo tính dự kiến, dự phòng. Điều này làm cho việc nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp sẽ mang tính thực tiễn và ứng dụng cao để hướng đến việc cải thiện thực tế trong cuộc sống dựa trên hoạt động giao tiếp của cá nhân cũng các quan hệ tương tác giữa con người và con người trong giao tiếp.

4.2. Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp

4.2.1. Phương pháp quan sát

* Khái niệm

Quan sát là hình thức tri giác chủ định bằng cách sử dụng các giác quan để thu thập thông tin về đối tượng, vấn đề nghiên cứu nhằm thực hiện các mục đích đã đặt ra phục vụ cho công tác nghiên cứu. Trong nghiên cứu về giao tiếp, quan sát hành vi giao tiếp là một yêu cầu rất thú vị.

* Hình thức

Quan sát có ba hình thức sau: quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp và tự quan sát.

- Quan sát trực tiếp là quá trình tri giác một cách trực tiếp đối tượng không sử dụng phương tiện trợ giúp.

- Quan sát gián tiếp là quá trình tri giác có sử dụng các công cụ và phương tiện như: máy ghi âm, camera...

- Tự quan sát là quá trình nghiệm thể lấy chính các hiện tượng quá trình tâm lý của mình làm đối tượng tri giác.

* Yêu cầu

Để đảm bảo việc quan sát có hiệu quả, nhà nghiên cứu cần phải thực hiện các yêu cầu sau:

- Người quan sát phải xác định mục tiêu, kế hoạch và cách thức tiến hành.

- Phải đảm bảo tính hệ thống, tính liên tục của quan sát. Trong quá trình nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào đó cần phải kết hợp nhiều giác quan để tri giác đối tượng và đảm bảo tính liên tục về mặt thời gian.

- Phải nắm được các vấn đề trước khi tiến hành quan sát. Một trong các yêu cầu khi tiến hành quan sát là người nghiên cứu phải hiểu biết và nắm chắc vấn đề cần quan sát, có như vậy mới giúp họ chủ động trong quá trình nghiên cứu.

- Cần chuẩn bị chu đáo các phương tiện trước khi quan sát như: bút, giấy, camera, máy ghi âm... để ghi nhận được đầy đủ kết quả quan sát.

* Ưu và nhược điểm

+ Ưu điểm

- Đây là phương pháp dễ tiến hành, và có thể quan sát được nhiều đối tượng trong cùng một lúc.

- Thông tin quan sát được rất phong phú về đối tượng [cả thông tin ngôn ngữ và thông tin phi ngôn ngữ].

- Chi phí tiến hành đỡ tốn kém so với các phương pháp nghiên cứu khác. + Nhược điểm

- Người quan sát đóng vai trò thụ động, không chủ động gây ra được các hiện tượng nghiên cứu.

- Kết quả thu được mang tính chất chủ quan vì thế hạn chế tính khách quan của kết quả nghiên cứu.

Điểm đặc trưng của việc quan sát trong nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp là:

+ Quan sát cử chỉ, hành vi và thái độ của các cá nhân trong những tình huống giao tiếp khác nhau và mối quan hệ khác nhau.

+ Quan sát quá trình giao tiếp, các diễn tiến tâm lý thông qua các hành động và thái độ.

+ Quan sát những biểu hiện tâm lý khi tiếp cận đối tượng giao tiếp, thực hiện quan hệ giao tiếp, giải quyết mâu thuẫn - xung đột.

Phương pháp quan sát phải được kết hợp chặt chẽ với phương pháp đối thoại, trò chuyện,...

4.2.2. Điều tra bằng bảng hỏi [Ankét]

Điều tra là phương pháp dễ áp dụng, trong thời gian ngắn có thể thu được nhiều thông tin rất phong phú về đối tượng nghiên cứu. Người ta có thể sử dụng điều tra để thu ý kiến của nghiệm thể nhằm mục đích nghiên cứu thái độ, nhận thức, tình cảm... của họ đối với vấn đề nào đó như với một dạng khuôn mặt, một kiểu lời nói, một cách thức mở đầu câu chuyện...

* Khái niệm

Ankét là phương pháp sử dụng bảng hỏi được thiết kế sẵn từ trước, nhằm thu thập ý kiến chủ quan của một số đông nghiệm thể về một vấn đề hoặc hiện tượng nghiên cứu nào đó. Bằng cách yêu cầu nghiệm thể lựa chọn phương án trả lời phù hợp nhất với quan điểm của mình [đối với câu hỏi kín] hoặc đưa ra ý kiến chủ quan [đối với câu hỏi mở] cho các vấn đề đặt ra, phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

* Phân loại: gồm điều tra trực tiếp và điều tra gián tiếp.

+ Điều tra trực tiếp là nhà nghiên cứu trực tiếp thiết kế bảng hỏi, trực tiếp đi điều tra và thu hồi kết quả nghiên cứu cũng như xử lý các kết quả nghiên cứu.

+ Điều tra gián tiếp là điều tra qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài, internet, ti vi... hoặc người nghiên cứu có thể sử dụng người khác thay mình đi phát phiếu điều tra đã được soạn thảo sẵn theo những chỉ báo nghiên cứu...

* Yêu cầu

- Các câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu và phải phù hợp với trình độ của nghiệm thể.

- Cần phải kết hợp giữa câu hỏi kín và câu hỏi mở trong bảng hỏi, việc kết hợp này cho phép nghiên cứu sâu các động cơ, nhu cầu và mong muốn của khách thể nghiên cứu.

- Phải tạo bầu không khí chân thành hiểu biết lẫn nhau giữa người nghiên cứu và người được nghiên cứu, có như vậy mới thu được các thông tin khách quan, trung thực về đối tượng nghiên cứu.

- Phải chuẩn bị chu đáo, chính xác câu hỏi, phương án trả lời khi soạn bảng hỏi và phải tiến hành nghiên cứu thử trước khi nghiên cứu trên diện rộng.

- Cần hướng dẫn khách thể một cách chi tiết cách thức lựa chọn hoặc trả lời cho các câu hỏi.

* Ưu và nhược điểm

+ Ưu điểm

- Trong một thời gian ngắn mà thu thập được các thông tin phong phú về đối tượng.

- Có thể nghiên cứu nhiều khách thể trong cùng một lúc.

- Phương pháp này dễ tiến hành, có thể nghiên cứu ở trong hội trường, hay trên đường phố…

+ Nhược điểm

- Đây là phương pháp chi phí cao [cho soạn thảo câu hỏi, phương tiện đi điều tra, in ấn bảng hỏi, xử lý kết quả...].

- Các thông tin thu được vẫn còn mang tính chủ quan của nhà nghiên cứu [kết quả của việc thiết kế câu hỏi].

- Thông tin thu được rất phong phú, đa dạng cho nên rất khó xử lý...

Nên kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác làm tăng độ khách quan của kết quả nhận được.

4.2.3. Phỏng vấn

* Khái niệm

Phỏng vấn là phương pháp thăm dò ý kiến của nghiệm thể bằng cách trao đổi trực tiếp giữa người phỏng vấn và nghiệm thể, nhằm thu thập ý kiến chủ quan của nghiệm thể về một vấn đề hoặc hiện tượng tâm lý nào đó phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trong nghiên cứu về giao tiếp, phỏng vấn được sử dụng để khái thác về một quan niệm nào đó trong giao tiếp, những kỹ thuật sử dụng trong quá trình giao tiếp....

* Phân loại

- Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa:

Là loại phỏng vấn trực tiếp giữa người phỏng vấn và nghiệm thể theo quy trình và nội dung và các câu hỏi đã được chuẩn bị từ trước.

- Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa:

Là loại phỏng vấn trực tiếp không theo một quy trình và kế hoạch cụ thể, người phỏng vấn có quyền đặt ra các câu hỏi tùy theo tình huống và thời cơ phỏng vấn.

- Phỏng vấn sâu:

Là loại phỏng vấn được tiến hành giữa nhà nghiên cứu và một nghiệm thể về một vấn đề nào đó. Phỏng vấn sâu có thể giúp nhà nghiên cứu đi sâu vào các tầng bậc sâu của các hiện tượng tâm lý như: động cơ, sở thích, niềm tin, lý tưởng... Phỏng vấn sâu thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác, giúp chúng ta khẳng định vấn đề hoặc hiện tượng nghiên cứu nào đó.

* Yêu cầu

Người phỏng vấn phải hiểu biết tốt vấn đề nghiên cứu. Thông thường, trước khi tiến hành phỏng vấn, người phỏng vấn phải nắm chắc vấn đề nghiên cứu để có thể thực hiện tốt nội dung phỏng vấn.

- Câu hỏi đưa ra phải ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trình độ của nghiệm thể. Khi tiến hành phỏng vấn, người phỏng vấn cần biết trước nghiệm thể là ai, ở lứa tuổi nào và trình độ của họ ra sao... để đưa ra câu hỏi cho phù hợp.

- Phải tạo ra bầu không khí thân mật, chân thành và hiểu lẫn nhau giữa người phỏng vấn và nghiệm thể.

- Chuẩn bị tốt các phương tiện cần thiết để cho buổi phỏng vấn có kết quả tốt. Ví dụ: máy ghi âm, camera, giấy, bút...

* Ưu và nhược điểm

+ Ưu điểm

- Đây là phương pháp nghiên cứu dễ tiến hành và chi phí không nhiều so với các phương pháp nghiên cứu khác.

- Thông tin thu được rất phong phú về nghiệm thể nghiên cứu [cả thông tin ngôn ngữ và thông tin phi ngôn ngữ] và cách trả lời của họ rất tự nhiên, vì vậy kết quả có tính khách quan.

- Có thể giúp nhà nghiên cứu đi sâu vào các cơ chế tâm lý bên trong của các hiện tượng tâm lý nghiên cứu [với loại phỏng vấn sâu].

+ Nhược điểm

- Mất nhiều thời gian cho việc nghiên cứu, vì thường là phải phỏng vấn từng người một.

- Số lượng nghiệm thể được phỏng vấn thường không nhiều vì thế tính khách quan của các kết quả sẽ không cao.

- Kết quả phỏng vấn phụ thuộc vào trình độ của người phỏng vấn [cách thức đặt câu hỏi, khả năng linh hoạt và am hiểu vấn đề] vì vậy mang tính chủ quan rất cao. Đặc biệt, trong quá trình phỏng vấn những cá nhân có kỹ năng giao tiếp đặc biệt là bản lĩnh giao tiếp, những thông tin hồi cố có thể không chính xác hoặc dễ dàng bị cảm xúc chi phối.

4.2.4. Phương pháp thực nghiệm

Có thể sử dụng phương pháp thực nghiệm trong Tâm lý học để nghiên cứu các đặc điểm tâm lý chủ thể giao tiếp. Bằng phương pháp thực nghiệm người ta có thể phát hiện cơ chế, tính quy luật và đánh giá, định tính và định lượng một cách khách quan các hiện tượng tâm lý trong giao tiếp cần nghiên cứu.

* Khái niệm

Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu được thực hiện bằng cách tạo ra các điều kiện khách quan [có thể khống chế được] để tạo ra các hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu, nhằm phát hiện các quy luật và cơ chế bên trong của chúng phục vụ cho mục đích đặt ra.

* Phân loại: gồm thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và ngoài tự nhiên.

- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm:

Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện nhân tạo [trong phòng thí nghiệm] để có thể chủ động tạo ra được các hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu, nhằm tìm hiểu các quy luật, cơ chế bên trong của chúng.

- Thực nghiệm tự nhiên:

Thực nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện tự nhiên, nhằm phát hiện các cơ chế, quy luật bên trong của hiện tượng tâm lý nào đó cần nghiên cứu. Đây cũng là loại thực nghiệm rất lý thú khi nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp nhưng tần suất lặp lại là khá thấp nếu như không nói là rất hiếm khi.

* Yêu cầu

- Phải có mục đích, kế hoạch thực nghiệm cụ thể. Đơn cử như: nghiên cứu thực nghiệm để làm gì? Tiến hành ở đâu, trên nghiệm thể nào?

- Phải tạo ra các điều kiện có thể can thiệp được vào tình huống làm nảy sinh vấn đề hay hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.

- Cần có các nhóm đối chứng khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm nhằm so sánh, tìm ra được sự khác biệt hoặc lý giải các quy luật, cơ chế tâm lý trong hiện tượng, vấn đề cần nghiên cứu.

- Thực nghiệm phải bảo đảm nguyên tắc có thể lặp lại kết quả nghiên cứu khi cần thiết.

* Ưu nhược điểm

+ Ưu điểm

- Đây là phương pháp nghiên cứu cho thấy kết quả một cách tương đối khách quan so với các phương pháp nghiên cứu khác [do yêu cầu là có thể lặp lại được kết quả nghiên cứu].

- Phương pháp này cho phép nghiên cứu nhiều hiện tượng tâm lý trên cùng một nghiệm thể.

+ Nhược điểm

- Tốn kém nhiều thời gian và chi phí cao so với các phương pháp nghiên cứu khác.

- Kết quả nghiên cứu phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của người thiết kế thực nghiệm.

- Thực nghiệm khó có độ khách quan cao nếu không không chế được các biến số hay các yếu tố nhiễu.

4.2.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động

* Khái niệm

Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động là phương pháp nghiên cứu nhằm tìm hiểu và đánh giá trình độ phát triển khoa học công nghệ và các giá trị văn hóa, tinh thần của con người hay nhóm người, thông qua các sản phẩm của giao tiếp, nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu đặt ra từ trước.

* Yêu cầu

- Người nghiên cứu phải nắm chắc vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó có thể trình diễn, phân tích, đánh giả sản phẩm một cách trung thực khách quan.

- Phải phân tích cụ thể, sâu sắc các giai đoạn, thời gian và điều kiện xuất hiện sản phẩm, đồng thời phải so sánh với các sản phẩm cùng loại đã có trên thị trường.

* Ưu nhược điểm

+ Ưu điểm

- Đây là phương pháp nghiên cứu cung cấp các số liệu rất phong phú về đối tượng nghiên cứu.

- Phương pháp này cho phép nghiên cứu không chỉ đặc điểm tâm lý, trình độ, kỹ năng giao tiếp của những người đang sống mà còn cả các thế hệ trước đây nữa.

- Phương pháp này nếu được kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác sẽ cho kết quả khách quan hơn.

+ Nhược điểm

- Nhà nghiên cứu phải nắm chắc vấn đề nghiên cứu.

- Chi phí tốn kém hơn so với các phương pháp nghiên cứu khác.

- Kết quả nghiên cứu phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của nhà nghiên cứu [mang tính chủ quan].

- Kết quả nghiên cứu sẽ không thực sự được kiểm soát nếu nghiên cứu không chính xác về nguồn gốc, người thực hiện sản phẩm...

4.2.6. Phương pháp trắc nghiệm

* Khái niệm

Phương pháp trắc nghiệm hay còn gọi là test [phương pháp nghiên cứu theo mô hình] là phương pháp nghiên cứu Tâm lý học nói chung và Tâm lý học giao tiếp nói riêng dựa trên các kết quả đáng tin cậy từ một mẫu khá lớn các cá nhân khác nhau từ đó rút ra một mô hình mang tính chuẩn hóa làm cơ sở để đánh giá những vấn đề tâm lý nói chung hay những vấn đề có liên quan đến giao tiếp nói riêng của một con người.

* Phân loại

Phương pháp trắc nghiệm được sử dụng theo các hình thức đa dạng như trắc nghiệm nhóm, trắc nghiệm cá nhân, trắc nghiệm tiêu chuẩn hóa hoặc trắc nghiệm được thiết kế. Tuy vậy, trắc nghiệm được sử dụng để đo lường các vấn đề liên quan đến giao tiếp thường là trắc nghiệm tiêu chuẩn. Có thể đề cập đến việc sử dụng trắc nghiệm để nghiên cứu các vấn đề sau trong giao tiếp: nhu cầu giao tiếp, kiểu khí chất trong giao tiếp, các kỹ năng cụ thể trong các nhóm kỹ năng giao tiếp...

* Yêu cầu

- Trắc nghiệm đối tượng lựa chọn phải là trắc nghiệm khách quan.

- Các câu hỏi - bài tập trong trắc nghiệm phải khoa học và hợp lý.

- Trắc nghiệm phải đo đúng cái cần đo, các tiêu chí đo lường phải rõ ràng.

* Ưu điểm và nhược điểm

+ Ưu điểm

- Dễ sử dụng đại trà.

- Kết quả định lượng khá chi tiết.

+ Khuyết điểm

- Chỉ thấy kết quả mà không thấy cả quá trình.

- Kết quả trắc nghiệm nếu không chính xác sẽ dẫn đến đánh giá sai.

Như vậy, phương pháp trắc nghiệm trong nghiên cứu Tâm lý học giao tiếp được sử dụng với những gợi ý sau:

- Phải thực sự chú ý đến dạng thức của trắc nghiệm đặc biệt là tính chất của trắc nghiệm.

- Nên quan tâm một cách nghiêm túc đến kỹ thuật đánh giá vì đây là một thách thức rất lớn khi sử dụng trắc nghiệm.

- Trắc nghiệm khi được sử dụng trong việc nghiên cứu về giao tiếp cũng chỉ là một kiểu đo lường mang tính chất định lượng cần được bổ sung bởi các kiểu nghiên cứu định tính.

Video liên quan

Chủ Đề