Khái niệm thuận lợi là gì

Thuận tiện và tiện lợi là hai từ có cùng ý nghĩa. Vì cả hai từ này đều rất giống nhau, nhiều người có khuynh hướng lẫn lộn chúng. Sự khác biệt chính giữa sự tiện lợi và thuận tiện nằm trong phạm vi ngữ pháp của chúng; tiện lợi là một danh từ trong khi thuận tiện là một tính từ. [Khác biệt giữa Noun và Tính Từ]

Thuận tiện nghĩa là gì?

Thuận tiện là một danh từ. Oxford từ điển định nghĩa nó là "Trạng thái của việc có thể tiến hành một cái gì đó mà không gặp khó khăn", trong khi từ điển của American Heritage xác định nó là "chất lượng phù hợp với sự thoải mái, mục đích, hoặc nhu cầu của người dùng". Danh từ này mô tả một cái gì đó làm cho cuộc sống của chúng tôi dễ dàng, và giúp chúng tôi hoàn thành công việc của chúng tôi mà không gặp khó khăn. Các ví dụ sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về ý nghĩa và cách sử dụng danh từ này.

Chủ cửa hàng đã xây dựng một thang máy mới cho sự thuận tiện của khách hàng.

Chúng tôi tận hưởng sự tiện lợi của cuộc sống bên cạnh trường học của con trai chúng tôi.

Ông ta hoãn cuộc họp để thuận tiện cho tôi.

Nhà mới của họ được trang bị mọi tiện nghi hiện đại.

Anh ấy nói với bạn để gặp anh ấy ngay lập tức.

Dân làng có tất cả các tiện nghi gia đình như máy giặt, máy sấy, lò nướng khí và máy xay điện.

Trong tiếng Anh Mỹ, một cửa hàng tiện lợi là một cửa hàng có một phạm vi hạn chế của hàng tạp hóa và hộ gia đình tốt, với giờ mở cửa mở rộng. Trong tiếng Anh Anh, sự thuận tiện [như một danh từ đếm được] có thể chỉ đến một nhà vệ sinh công cộng.

Chủ sở hữu khu mua sắm đã xây dựng một thang cuốn mới cho sự tiện lợi của khách hàng.

Thuận tiện tiện lợi

Thuận tiện là tính từ tiện dụng. Từ điển của Oxford định nghĩa thuận tiện là "phù hợp với nhu cầu, hoạt động và kế hoạch của một người", trong khi từ điển của American Heritage xác định nó là "phù hợp hoặc thuận lợi cho sự thoải mái, mục đích, hoặc nhu cầu của một người". Xem các ví dụ sau để hiểu ý nghĩa và cách sử dụng tính từ này rõ ràng hơn.

Tại sao bạn không cho tôi biết một thời gian thuận lợi để đáp ứng?

Thang máy mới làm cho việc mua sắm tại tòa nhà này thuận tiện hơn.

Tôi đã nói với anh ấy một địa điểm thuận lợi để gặp, nhưng anh ta vẫn chưa xác nhận ngày.

Phương pháp của ông thuận tiện hơn phương pháp cũ của họ.

Ông đã có một lý do thuận lợi để rời khỏi công việc sớm.

Không phải là thuận tiện hơn để viết ra những con số trên một mảnh giấy, chứ không phải là tính toán chúng bằng tâm trí?

Bà coi mì ăn liền là một bữa ăn tiện lợi và bổ dưỡng.

Như đã thấy trong những ví dụ này, thuận tiện hầu như luôn luôn được theo sau bởi một danh từ. Ví dụ, thuận tiện thời gian, vị trí thuận lợi, lý do thuận tiện, vv Nó không phải là sau bởi một danh từ khi nó được sử dụng để so sánh hai điều.

Nhà của họ ở một vị trí rất thuận tiện; nó gần các cửa hàng, trường học, và bệnh viện nhà nước.

Sự khác biệt giữa tiện lợi và thuận tiện là gì?

Loại ngữ pháp:

Thuận tiện: Thuận tiện là một danh từ.

Thuận tiện: Thuận tiện là tính từ. Nó hầu như luôn luôn theo sau bởi một danh từ.

Ý nghĩa:

Thuận tiện: Thuận tiện được định nghĩa là chất lượng phù hợp với sự thoải mái, mục đích, hoặc nhu cầu của một người.

Thuận tiện: Thuận tiện được định nghĩa là phù hợp hoặc thuận lợi cho sự an toàn, mục đích, hoặc nhu cầu

Hình ảnh được phép bởi:

"227393" [Public Domain] qua PEXEL

"283448" ] qua Pixabay

Đã bao giờ bạn “bí” từ và không biết thuận lợi trong tiếng Anh là gì? Có bao nhiêu từ sử dụng để chỉ thuận lợi trong tiếng Anh? Nên chú ý những gì khi sử dụng từ “Thuận lợi” trong tiếng Anh? Có bao nhiêu cách sử dụng của từ này?

Trong bài viết này, chúng mình sẽ giới thiệu đến bạn từ “thuận lợi” trong tiếng Anh có nghĩa là gì? Những điểm cần phải lưu ý và cách sử dụng của nó. Bên cạnh đó, chúng mình sẽ đan xen vào bài viết những mẹo nhỏ để giúp bạn có thể học tiếng Anh tốt hơn và hiệu quả hơn. Bài viết gồm 3 phần chính. Ở phần đầu tiên, chúng mình sẽ giới thiệu đến bạn “thuận lợi” là gì? Những từ được dùng để chỉ thuận lợi trong tiếng Anh, cách phân biệt chúng. 


[Hình ảnh minh họa “thuận lợi” trong tiếng Anh.]

Tại phần 2 của bài viết: thông tin chi tiết về từ vựng. Chúng mình sẽ giới thiệu đến bạn những thông tin chi tiết như cách phát âm, cách sử dụng và những lưu ý khi sử dụng từ “Thuận lợi” trong tiếng Anh. Cuối cùng là một số cụm từ, cấu trúc bạn có thể sử dụng để miêu tả “thuận lợi” trong tiếng Anh. Hy vọng bài viết này bổ ích và có thể giúp ích được cho bạn trong quá trình học tiếng Anh. Cùng theo dõi và học hỏi qua bài viết dưới đây.

1. "Thuận lợi" trong tiếng Anh là gì?

Thuận lợi ở đây được hiểu là những yếu tố tốt, có tác dụng tốt đến một người nào đó, những mặt có lợi, tốt cho một vấn đề nào đó. Hay nói cách khác nó còn được gọi là một trạng thái tốt, thích hợp cho một sự vật, sự việc, hành động hay con người nào đó. Trong tiếng Anh, người ta thường sử dụng từ ADVANTAGE để chỉ những “thuận lợi”. Từ này có ứng dụng phổ biến và được sử dụng khá nhiều trong cả văn viết và văn nói. 

[Hình ảnh minh họa từ “thuận lợi” trong tiếng Anh]

Bạn có thể dễ dàng bắt gặp ADVANTAGE trong các bài viết writing tiếng Anh. Ngoài ra, để thay thế cho từ này, bạn có thể sử dụng những từ khác như Benefit, Positive, Usefulness, … Sự thay thế giữa các từ sẽ giúp bài văn, bài nói của bạn có độ phong phú về từ vựng và ghi điểm trong mắt ban giám khảo. Để tìm hiểu chi tiết hơn về cách dùng của các từ này, bạn có thể tìm hiểu về chúng qua các trang web, các nguồn uy tín hoặc trên từ điển Oxford hoặc Cambridge online. Trong phần 2, chúng mình sẽ giải thích chi tiết hơn về thông tin của từ Advantage.

2,Thông tin chi tiết của từ “Thuận lợi” trong tiếng Anh.

Trước hết chúng ta cần hiểu rằng Advantage là một danh từ đếm được, có dạng số nhiều là Advantages. Là một danh từ nên khi sử dụng bạn cần chú ý đến vị trí của nó trong câu. Ngoài ra, Advantageous là dạng tính từ của từ này. Bạn có thể căn cứ vào cách dùng cụ thể để lựa chọn sử dụng sao cho phù hợp. 

Về cách phát âm. Có một sự khác nhau về nguyên âm thứ 2 của ADVANTAGE trong ngữ điệu Anh - Anh và ngữ điệu Anh - Mỹ. Trong cách phát âm Anh - Anh, từ “thuận lợi” có phát âm là /ədˈvɑːntɪdʒ/. Bạn cần chú ý đến phụ âm cuối cùng và trọng âm hai của nó. Còn trong giọng đọc Anh - Mỹ, ADVANTAGE có phát âm là /ədˈvæntɪdʒ/. Hai từ này có cấu trúc giống nhau và hai cách đọc này hoàn toàn đúng. Bạn có thể tìm hiểu về nó tại các trang từ điển online để biết thêm chi tiết. Nghe và lặp lại cách phát âm của từ này theo những video đã được phát sẽ giúp bạn cải thiện tối đa khả năng phát âm của mình.  


[Hình ảnh minh họa từ “thuận lợi” trong tiếng Anh]

Về mặt nghĩa. ADVANTAGE có 3 cách dùng trong tiếng Anh. Đầu tiên, từ này được sử dụng để miêu tả một điều gì đó, một thứ gì đó có thể giúp bạn trở nên tốt hơn hoặc thành công hơn. Cách dùng thứ 2, bạn có thể dùng từ “thuận lợi” - ADVANTAGE để chỉ chất lượng của một cái gì đó khiến nó trở nên hữu ích hơn. Cuối cùng, từ này còn được sử dụng để miêu tả lợi thế về điểm số giữa một hiệp thi đấu của hai đội. Bạn có thể tham khảo về cách dùng này qua các ví dụ dưới đây:

Ví dụ:

  • Being tall gave him an advantage over the other players.
  • Cao lớn khiến anh ấy chiếm lợi thế hơn so với các người chơi khác.
  •  
  • A small car has added an advantage of being cheaper.
  • Chiếc ô tô nhỏ có lợi thế là rẻ hơn.
  •  
  • Advantage Miss Stephens.
  • Lợi thế nghiêng về phía các quý cô Stephen

3.Một số từ vựng có liên quan đến “thuận lợi” trong tiếng Anh.

 


[Hình ảnh minh họa từ “Thuận lợi” trong tiếng Anh]

Dưới đây là một số cụm từ liên quan đến từ “Thuận lợi” trong tiếng Anh. Bạn có thể tham khảo thêm để sử dụng.

  • Be/work to your advantage: Lợi thế nghiêng về phía bạn
  • Take advantage of something/someone: thuộc về lợi thế, sở trường của ai đó
  • Turn something to your advantage: Thay đổi tình thế từ xấu thành có lợi

Ngoài ra, khi miêu tả ý ngược lại như bất lợi hay có hại bạn có thể sử dụng những từ như Disadvantage, negative, Drawback, problem,... Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết này của chúng mình! Hy vọng bài viết hôm nay bổ ích và có thể giúp đỡ được cho bạn trong quá trình học tiếng Anh! Chúc bạn luôn may mắn, kiên trì và thành công!

Khái niệm pháp điển hóa trong hệ thống pháp luật

Hiện nay, ở nước ta và trên thế giới cũng còn có các quan niệm khác nhau và các hình thức tiến hành pháp điển hoá khác nhau. Nhưng nhìn chung về cơ bản có thể chia thành hai hình thức pháp điển hoá chính, đó là:

-Pháp điển hóa về mặt nội dung

-Pháp điển hóa về mặt hình thức

Pháp điển hóa về mặt nội dung [hay có người còn gọi theo các cách gọi khác như : pháp điển hóa lập pháp, pháp điển hóa truyền thống, pháp điển hóa có tạo ra quy phạm mới v.v….] là việc xây dựng, soạn thảo một văn bản pháp luật mới trên cơ sở hệ rà soát, thống hoá, tập hợp các quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vào văn bản đó với sự sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Việc xây dựng các Bộ luật của nước ta như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự; Bộ luật lao động…. được thực hiện theo hình thức pháp điển này. Cách thức pháp điển này giống như hoạt động lập pháp thông thường.

Pháp điển hóa hình thức [còn được gọi là pháp điển hóa không làm thay đổi nội dung văn bản] là cách thức tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật tại nhiều văn bản khác nhau thành các bộ luật theo từng chủ đề, với bố cục logic, phù hợp, có thể kèm theo những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết nhằm làm cho các quy định này phù hợp với nhau. Về nguyên tắc, quá trình sửa đổi, điều chỉnh trong quá trình pháp điển hóa chỉ nhằm mục đích tạo nên sự hài hòa giữa các quy định, đảm bảo trật tự của bộ pháp điển mà không nhằm tới mục đích tạo ra những chính sách pháp luật mới và các quy định pháp luật đang có hiệu lực được tôn trọng một cách tối đa. Ở nhiều nước, kết quả cuối cùng của quá trình pháp điển theo hình thức này [các bộ pháp điển] được cơ quan có thẩm quyền thông qua theo hình thức tương tự như xem xét, thông qua một văn bản pháp luật. Tuy nhiên do bộ pháp điển không quy định những chính sách pháp luật mới, nên bộ pháp điển sẽ được thông qua nhanh chóng, không mất thời gian cho việc thảo luận, tranh cãi về chính sách. Việc được cơ quan lập pháp thông qua chỉ mang ý nghĩa xác nhận giá trị pháp lý thi hành của bộ pháp điển, ghi nhận bộ pháp điển bao gồm những quy định hiện hành, có hiệu lực trong lĩnh vực được xác định của bộ pháp điển và xác nhận những sửa đổi mang tính kỹ thuật nhằm đảm bảo sự hài hòa và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Cần lưu ý thêm về hình thức pháp điển không chính thức do các nhà xuất bản hoặc các công ty luật tư nhân thực hiện với kỹ thuật tương tự như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì không chính thức nên các Bộ pháp điển này chỉ có tính chất tham khảo, không có giá trị viện dẫn trước tòa. Tóm lại, về tính chất, trong khi hoạt động lập pháp mang tính chính trị thì hoạt động pháp điển hóa mang nhiều tính kỹ thuật, làm cho các chính sách pháp luật được thể hiện dưới những hình thức logic, có hệ thống và dễ tiếp cận. Vì vậy, có thể so sánh hoạt động làm luật như việc sản xuất ra các sản phẩm còn hoạt động pháp điển hóa là việc đóng gói, sắp xếp, trưng bày sản phẩm, hàng hóa sao cho tiện lợi cho việc tiêu dùng.

Theo quy định của pháp luật của Cộng hoà Pháp, thì pháp điển hoá là việc tập hợp, sắp xếp trong các bộ luật chuyên ngành tất cả các quy phạm luật và quy phạm dưới luật tản mạn có hiệu lực tại thời điểm pháp điển hoá nhằm đảm bảo cho các quy phạm đó thống nhất và có thể tiếp cận được theo một bố cục chặt chẽ. “Việc pháp điển hoá phải đảm bảo không làm thay đổi nội dung của pháp luật hiện hành, tuy nhiên có thể thực hiện những sửa đổi, bổ sung cần thiết nhằm nâng cao tính thống nhất của bộ luật, tôn trọng trật tự, thứ bậc của các quy phạm pháp luật và hài hoà hoá khung pháp luật”.

 Canada, việc pháp điển hoá hình thức được gọi là “chỉnh lý và thống nhất pháp luật quốc gia”. Công việc này được tiến hành theo chu kỳ 15-20 năm và về bản chất mục đích của nó cũng là  “để thống nhất, hợp nhất các quy định trong nhiều văn bản khác nhau  thuộc cùng một lĩnh vực điều chỉnh vẫn còn hiệu lực qua tất cả các lần sửa đổi luật cho đến lần chỉnh lý cuối cùng và để hoàn thiện pháp luật thông qua những thay đổi không mang tính nội dung như từ ngữ, văn phong hay bố cục…”

Mục đích, ý nghĩa của việc tiến hành pháp điển hoá hình thức.

Hiện nay việc nghiên cứu, tổ chức thực hiện pháp điển hoá hình thức là vấn đề đang được quan tâm tại Việt Nam và pháp luật cũng đã bước đầu đề cập đến vấn đề này. Pháp điển hoá hình thức có những lợi ích và ý nghĩa quan trọng,thể hiện ở các nội dung sau đây:

- Tập hợp được tất cả các quy phạm pháp luật đang nằm phân tán, rải rác ở nhiều văn bản trong một văn bản pháp luật duy nhất trong đó gồm những quy phạm pháp luật còn hiệu lực trong một lĩnh vực, chủ đề nhất định [hoặc ở một số nước là do một cơ quan ban hành], theo một trật tự logic, nhằm bảo đảm thuận lợi cho việc áp dụng, thực hiện văn bản pháp luật;

- Minh bạch hóa và bảo đảm tính cập nhật của các quy phạm pháp luật thông qua việc bãi bỏ các nội dung không rõ ràng, mẫu thuẫn, không phù hợp với Hiến pháp và các cam kết quốc tế; chỉ ra sự mâu thuẫn, chồng chéo, không đầy đủ trong hệ thống luật pháp và chuẩn bị đề xuất các sửa đổi, bổ sung cần thiết từ đó nâng cao tính thống nhất của các quy định pháp luật.

- Góp phần bảo đảm duy trì tính hệ thống của hệ thống pháp luật. Theo cách thức pháp điển này, phần lớn các quy phạm pháp luật sẽ được sắp xếp vào các bộ luật với phạm vi nội dung được xác định rõ ràng, ổn định, có tính hệ thống cao. Bộ Pháp điển sẽ được sử dụng như một phương tiện để thực hiện việc hệ thống hóa các quy định pháp luật một cách liên tục vì tất cả các quy định mới được ban hành đều được đưa vào Bộ pháp điển ngay lập tức và các việc thay thế các quy định cũ cũng được thực hiện ngay trên Bộ pháp điển.

- Nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. Việc xây dựng các bộ pháp điển một cách có hệ thống và toàn diện sẽ nâng cao sự ổn định và thống nhất của hệ thống pháp luật và vì vậy sẽ nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.

- Tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình làm luật. Trong bối cảnh tất cả quy phạm pháp luật đã được sắp xếp một cách hệ thống trong các bộ pháp điển thì việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn trên cơ sở các quy định của bộ pháp điển mà không phải tiến hành rà soát, kiểm tra các văn bản phân tán trong hệ thống pháp luật như hiện nay. Hơn thế nữa, trong trường hợp các bộ pháp điển đã được xây dựng ổn định, việc làm luật trong một lĩnh vực có thể chỉ dừng lại ở việc sửa đổi, bổ sung các bộ pháp điển trong lĩnh vực đó mà nhất thiết phải chỉnh sửa hay ban hành mới cả một luật hay một bộ luật như hiện nay.

Thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện pháp điển hóa hình thức

Thuận lợi

- Pháp luật đã bước đầu quy định về pháp điển hoá hình thức, tạo căn cứ pháp lý cho việc thực hiện hoạt động này.

Một trong những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật [năm 2008] là đã bước đầu có các quy định về pháp điển hoá. Theo đó, khoản 2, Điều 93 quy định: “Quy phạm pháp luật phải được rà soát, tập hợp, sắp xếp thành bộ pháp điển theo từng chủ đề”. Đồng thời, Luật cũng giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành quy định về hoạt động pháp điển hóa. Từ các quy định này, có thể nhận thấy hình thức pháp điển hóa được lựa chọn ở nước ta là cách thức pháp điển hóa về mặt hình thức.

- Đã có sẵn nhiều cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật

Hiện nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, ở nước ta đã có nhiều hệ thống cơ sở dữ liệu khá đầy đủ và toàn diện về văn bản quy phạm pháp luật như cơ sở dữ liệu của Văn phòng Quốc hội, Bộ tư pháp… Bên cạnh đó, chúng ta có hệ thống Công báo chính thức và văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo [trừ một số trường hợp đặc biệt] mới có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, trên thực tế tuy hoạt động pháp điển hoá chưa được thực hiện, nhưng một số hoạt động tập hợp, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được tiến hành. Hoạt động này có thể do các cơ quan nhà nước thực hiện hoặc do các tác giả tư nhân thực hiện. Đây là điều kiện thuận lợi và quan trọng để tiến hành pháp điển hóa.

- Thuận lợi trong  việc nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế

Pháp điển hoá hình thức đã được nhiều nước trên thế giới thưc hiện; trong quá trình thực hiện các nước này cũng gặp phải nhiều khó khăn. Việt Nam là nước thực hiện sau, do đó chúng ta hoàn toàn có thể nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước, vận dụng phù hợp với thực tiễ của Việt Nam.

Khó khăn

- Pháp điển hóa về hình thức còn là vấn đề mới ở Việt Nam

Từ trước tới nay, ở Việt Nam chỉ có hình thức pháp điển hoá về nội dung [với việc pháp điển hoá, xây dựng các bộ luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hình sự…]. Do đó khi nói đền pháp điển hoá, nhiều người nghĩ ngay tới việc tập hợp tất cả các vấn đề về cùng một lĩnh vực được quy định rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau trong những bộ luật có kết cấu chặt chẽ, với sự sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên nếu thực hiện pháp điển hóa theo hình thức này thì công cuộc pháp điển hóa là một quá trình lâu dài và thậm chí có thể là một quá trình “không bao giờ hoàn thành”. Do đó, để thực hiện mục đích đảm bảo cho người dân và các chủ thể khác có thể dễ dàng tiếp cận với các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành theo các lĩnh vực khác nhau, thì cần tiến hành cách thức pháp điển hóa về mặt hình thức với những ưu thế về tính thực dụng của nó. Đây là vấn đề mới ở Việt Nam và tuy Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã ghi nhận rõ chủ trương sử dụng cách thức pháp điển hóa về mặt hình thức để tiến hành pháp điển hóa tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam, nhưng nhiều người, kể cả trong giới luật gia còn chưa hình dung rõ hoặc có những quan niệm rất khác nhau về khái niệm cũng như cách thức tiến hành pháp điển hoá. Nói cách khác là cách hiểu về hình thức pháp điển hóa hình thức có thể chưa thống nhất và chưa nhận được sự ủng hộ rộng rãi ở nước ta. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành hoạt động pháp điển hóa, việc đầu tiên là cần phải làm rõ và thống nhất cách hiểu về cách thức pháp điển hóa theo hình thức và các lợi ích mà nó đem lại. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp trong vấn đề này cũng cho thấy điều đó. Sau hơn 10 năm tiến hành pháp điển hóa về theo hình thức thì ở Cộng hòa Pháp vẫn có những quan điểm quay về với truyền thống pháp điển hóa theo nội dung.

- Chưa có quy định đầy đủ làm cơ sở pháp lý cho việc pháp điển hoá

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 chỉ mới dừng lại ở việc quy định: “quy phạm pháp luật phải được rà soát, tập hợp, sắp xếp thành bộ pháp điển theo từng chủ đề” mà chưa quy định cụ thể cách thức, trách nhiệm và quy trình, thủ tục tiến hành pháp điển hóa. Hơn thế nữa, pháp điển hóa theo nghĩa sắp xếp các quy phạm hiện hành thành các bộ pháp điển theo chủ đề là một công việc hoàn toàn chưa có tiền lệ ở Việt Nam nên chắc chắn việc thực hiện trên thực tế sẽ gặp nhiều lúng túng.

- Số lượng văn bản cần pháp điển hoá lớn, trong khi đó các văn bản này có nhiều chồng chéo, mâu thuẫn,thiếu đồng bộ, kỹ thuật soạn thảo chưa hoàn thiện

 Theo thống kê từ Cơ sở dữ liệu của Văn phòng Quốc hội thì hiện tại, tổng số lượng văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật là 19.095 văn bản. Với lượng văn bản lớn như vậy thì khối lượng công việc pháp điển hóa sẽ rất phức tạp. Công việc này càng trở nên khó khăn hơn do kỹ thuật lập pháp trong rất nhiều văn bản pháp luật còn hạn chế. Điều này có nguyên nhân từ việc do trước đây chúng ta chưa có những quy chuẩn chung trong hoạt động soạn thảo các quy phạm pháp luật. Trong thời gian vừa qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Quy chế về kỹ thuật trình bày dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng văn bản này vẫn chỉ mới dừng lại với các quy định nguyên tắc và nhiều quy định không được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Một số điểm chưa thống nhất trong kỹ thuật soạn thảo văn bản có thể nhận thấy như bố cục văn bản; các quy định chung, quy định về thanh tra, kiểm tra, về khen thưởng, xử lý vi phạm; vấn đề tên gọi của Điều, Chương; quan niệm về khoản và điểm trong một điều; vấn đề xác định rõ các văn bản hoặc điều khoản của các văn bản ban hành trước bị huỷ bỏ khi có một văn bản mới ban hành [liên quan tới việc xác định giá trị hiệu lực của từng quy phạm trong tổng số hơn 19 nghìn văn bản] …. Những hạn chế này sẽ gây ra những khó khăn cho quá trình xây dựng các chú thích cũng như thực hiện việc kết hợp các điều khoản trong tiến trình pháp điển hóa.

Bên cạnh những tồn tại về kỹ thuật lập pháp thì những mâu thuẫn về nội dung giữa các văn bản pháp luật cũng là một hạn chế lớn của hệ thống pháp luật. Sự mâu thuẫn giữa Luật nhà ở và Luật đất đai về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giữa Luật nhà ở và Bộ luật Dân sự về thời điểm chuyển quyền sở hữu; giữa Luật nhà ở và Luật kinh doanh bất động sản về thời điểm đặt cọc tiền mua nhà. ..đã thể hiện sự chưa thống nhất của hệ thống pháp luật. Vấn đề này sẽ tạo ra những khó khăn cho hoạt động pháp điển hóa vì khi pháp điển hóa phải lựa chọn một trong những phương án có sự mâu thuẫn, chồng chéo trong khi về nguyên tắc trong pháp điển hoá chỉ nên can thiệp về mặt kỹ thuật các quy phạm pháp luật được pháp điển. Tuy nhiên, đây cũng chính là lợi ích của việc pháp điển hoá vì qua hoạt động này sẽ góp phần quan trọng làm hạn chế các điểm mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật.

- Có nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản và có nhiều đầu mối thực hiện chức năng hệ thống hóa văn bản

Mặc dù đã được sửa đổi theo hướng giảm bớt đi, nhưng  theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, hiện nay vẫn có hơn 15 loại văn bản do các cơ quan có thẩm quyền thuộc các cấp độ khác nhau ban hành. Với số lượng các cơ quan được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quá lớn, việc tiến hành pháp điển hóa về mặt hình thức cũng sẽ trở nên khó khăn, vì một trong những nguyên tắc cơ bản của cách thức pháp điển hóa này là phải tôn trọng thức bậc pháp lý của các văn bản, tránh tình trạng xảy ra sự xung đột về thẩm quyền ban hành sau khi các bộ pháp điển đã được phê chuẩn.

Bên cạnh đó, để đảm bảo thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng và thực hiện pháp luật, ở nước ta cũng đã giao cho các cơ quan hữu quan tiến hành hệ thống hoá pháp luật. Tuy nhiên do có nhiều đầu mối thực hiện [như Công báo của Chính phủ; Bộ tư pháp; Văn phòng Quốc hội…] nên hoạt động này chưa thống nhất. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động pháp điển hóa, cần phải xác định cơ chế thống nhất cho hoạt động này, tránh tình trạng có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước.

- Thời gian và kinh phí dành cho hoạt động pháp điển hóa

Việc xây dựng các Bộ pháp điển hoá đầu tiên bao giờ cũng đòi hỏi một lượng chi phí lớn cả về thời gian, tài chính và nhân sự. Quá trình đó bao hàm một chuỗi các hoạt động khác nhau từ việc xây dựng các chương trình tiến hành pháp điển hóa; lựa chọn nhân sự, xây dựng các tổ chức bộ máy phục vụ cho việc tiến hành pháp điển hóa; đào tạo kỹ thuật; tiến hành các hoạt động pháp điển hóa cụ thể; rà soát, giám sát kỹ thuật; trình và thông qua các bộ pháp điển... Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có sự đầu tư thích đáng cho chương trình này tập trung trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi các Bộ pháp điển được ban hành thì việc cập nhật liên tục nó sẽ được thực hiện đơn giản hơn rất nhiều. 

Video liên quan

Chủ Đề