Máy kéo sợi của crompton có ưu điểm gì nổi bắt

[1]Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh Trường Đại Học Sài Gòn. BÀI TIỂU LUẬN CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP. Môn học : Địa lý kinh tế xã hội - thế giới Giảng Viên Hướng Dẫn: Phạm Thị Bạch Tuyết Sinh Viên Thực Hiện : Lý Lan Anh Phan Thị Hiền Trang Lớp : CDI1151. [2] C. Lời Giới Thiệu uộc cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản. xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu khoảng 1850, khi các tiến bộ kinh tế và kỹ thuật có được nhờ phát triển tàu hơi nước, đường sắt. Đến cuối thế kỷ 19, động lực của Cách mạng công nghiệp là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện. Năm 1914, giai đoạn thứ hai này kết thúc. Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1969, khi các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hoá vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính [thập niên 1960], máy tính cá nhân [thập niên 1970 và 1980] và Internet [thập niên 1990]. Cho đến cuối thế kỷ 19, quá trình này cơ bản hoàn thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc. Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư bắt đầu vào đầu thế kỉ 21, tiếp sau những thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo , IoT, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới... Hiện tại cả thế giới đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này và là chiến lược bản lề cho các nước đang phát triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới và mở ra bước ngoặt mới cho sự phát triển của con người. [3] MỤC LỤC I , Điều kiện ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp. II ,Cách mạng công nghiệp ở Anh 1 ,Điều kiện ra đời Cách mạng công nghiệp ở Anh 2, Thành tựu của Cách mạng công nghiệp 3. Đối với ngành khác. III , Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai [1871-1914] 1 ,Điều kiện ra đời Cách mạng công nghiệp lần thứ hai. 2, Nước Đức 3, Nước. Hoa K ỳ. IV, Cách mạng công nghiệp lần thứ ba. 1, Hướng tới không gian 3 chiều 2, Cú sốc đổi mới. V, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư . 1, Bối cảnh lịch sử 2, Vật lý 3, Kỹ thuật số 4, Sinh học. Nguồn : - Giáo trình Lịch sử kinh tế GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh và PGS.TS Phạm Thị Qúy - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia - //baotintuc.vn - //hame.org.vn - //www.baomoi.com. [4] I , Điều kiện ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp. 1, Nguyên nhân Vào thế kỉ 15, kinh tế hàng hóa ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông. Tại Tây Âu, tầng lớp quý tộc cũng tăng lên, do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm [dâu tằm tơ],ngà voi... đã tăng vọt. Trong khi đó, Con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế quốc Ottoman theo đạo Hồi chiếm giữ, đi qua chỉ có mất mạng, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển. Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thủy thủ dũng cảm.. 2,Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản [thế kỉ XVI – XVIII] Sự phát triển của thị trường trên quy mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc gia, trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ diễn ra là điều tất yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ 16-18 đã diễn ra nhiều cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Bước chuyển đó đã được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư sản Hà Lan [1566-1572], Cách mạng tư sản Anh [1640-1689], Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ [1775-1783], Cách mạng tư sản Pháp [1789-1799]... Các cuộc biến động xã hội đó tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế kỉ nhưng đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản, công nghiệp thương nghiệp đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh mới.. II ,Cách mạng công nghiệp ở Anh. [5] 1 ,Điều kiện ra đời Cách mạng công nghiệp ở Anh Về tự nhiên, Anh có nhiều mỏ than, sắt và các mỏ này lại nằm gần nhau, điều đó rất thuận lợi về mặt kinh tế khi khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp. Về nguyên liệu, Anh có thuận lợi là nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ Mĩ, đó là những nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt. Các dòng sông ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các máy vận hành bằng sức nước. Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hóa đi khắp thế giới. Về mặt xã hội, giai cấp quý tộc Anh sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quý tộc mới, có quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản. Nhu cầu về lông cừu đã dẫn tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quý tộc biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu. Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng đất đã cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị.. 2, Thành tựu của Cách mạng công nghiệp Năm 1733 John Kay đã phát minh ra "thoi bay". Phát minh này đã làm người thợ dệt không phải lao thoi bằng tay và năng suất lao động lại tăng gấp đôi. Năm 1764 James Hagreaves đã chế được chiếc xe kéo sợi kéo được 16 - 18 cọc sợi một lúc, giúp tăng năng suất gấp 8 lần. Ông lấy tên con gái mình là Jenny để đặt cho máy đó.. Máy kéo sợi Jenny. Năm 1769, Richard Arkwright đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.. [6] Máy kéo sợi của Arkwright Năm 1779, Cromton đã cải tiến máy với kĩ thuật cao hơn, kéo được sợi nhỏ lại chắc, vải dệt ra vừa đẹp vừa bền. Máy kéo sợi của Crompton Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh mục Edmund Cartwright. phát minh này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần. Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất tiện rất nhiều mặt.. [7] Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của trường Đại học Glasgow [Scotland] đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Không những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới hóa. Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt "puddling". Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép. Phát minh này đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó. Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1814, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở châu Âu và châu Mĩ.. Đầu máy xe lửa Stephenson. Xe lửa chạy bằng động cơ hơi nước. [8] Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm.. Tàu thủy chạy bằng hơi nước 3. Đối với ngành khác a, Thiên văn Nhà bác học Đức, Kepler đã đưa ra 3 định luật về sự chuyển động của các thiên thể. Định luật thứ nhất, ông khẳng định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời, không những thế ông còn xác định được quĩ đạo chuyển động của nó không phải là đường tròn mà là hình elíp. Định luật thứ hai, Kepler chứng minh vận tốc chuyển động của hành tinh tăng lên khi đang tới gần Mặt Trời và giảm dần khi nó chuyển động xa Mặt Trời. Định luật thứ ba, ông đã xác lập được công thức toán học giữa thời gian cần để hành tinh chuyển động hết một vòng quanh Mặt Trời và khoảng cách giữa nó với Mặt Trời. b,Vật lí Một nhà vật lí người Anh, William Gilbert trong một quyển sách xuất bản năm 1600 đã giải thích Trái Đất như một cục nam châm khổng lồ tạo ra một từ trường [nhưng không mạnh], điều đó làm kim la bàn chỉ xoay về hướng Bắc. Ông còn nghiên cứu về hiện tượng tĩnh điện. Ông thấy rằng không chỉ có hổ phách khi bị chà xát mới hút các vật nhẹ mà có những thứ khác như thủy tinh... cũng có tính chất như vậy. Ông gọi đó là "hiện tượng hổ phách" Isaac Newton là một nhà bác học người Anh, ông được coi là nhà vật lí vĩ đại nhất của thế kỉ 18. Đóng góp vĩ đại nhất của Newton nằm trong 3 định luật mang tên ông mà nổi bật là định luật Vạn vật hấp dẫn. Có thể coi Newton là hòn đá tảng của nền vật lí cổ điển. T ác phẩm vĩ đại của Newton là Các nguyên lí toán học của triết học tự nhiên.. [9] Năm 1800, Alessandro Volta [Ý] đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động hóa học. Năm 1831, Michael Faraday đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện khi ta di chuyển ống dây qua một từ trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy phát điện sau này. Tới năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ khác nhau của các loại sóng điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt cho đơn vị đo chu kì. Năm 1895, một nhà khoa học người Đức khác là Wilhelm Röntgen đã tạo ra một loại tia có thể đâm xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng không thể xuyên qua được. Ông gọi đó là tia X.. Năm 1898, hai ông bà Pierre Curie và Mari Curie đã tinh chế được chất radium và phát hiện ra tính phóng xạ của nó. Năm 1860 James Clerk Maxwell, một nhà khoa học người Scotland, đã đưa ra lí thuyết giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong khoảng mắt người nhìn thấy được. C, Hóa học Joseph Priestley là một luật sư người Anh đã khám phá ra ôxy. Một phát minh vĩ đại về mặt hóa học là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học Nga. d, Y học Adreas Vesalius, một nhà khoa học người Bỉ đã cho in cuốn sách về cấu trúc cơ thể người. William Harvey, một nhà sinh lí người Anh đã nghiên cứu rất nhiều về hệ tuần hoàn của chim, cá, ếch. Ông đã mô tả về hệ tuần hoàn máu trong cơ thể người qua quyển sách Tiến hành giải phẫu đối với sự chuyển động của tim và máu trong cơ thể loài vật. Louis Pasteur, ông đã đế ra cách ngừa bệnh mới là sử dụng vaccin. e, Thông tin: Phát minh quan trọng phải kể tới là năm 1876 Alexander Graham Bell đã phát minh ra máy điện thoại đầu tiên. 1879 Thomas A. Edison đã làm cho điện phát sáng để phục vụ cuộc sống. *Sinh học: Năm 1859 Darwin đã cho ra đời tác phẩm Nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên. Trong tác phẩm đó ông trình bày 3 ý tưởng chủ yếu: đấu. [10] tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên, sự tồn tại của giống thích ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ sở của học thuyết tiến hóa cổ điển. *Di truyền học: Gregor Mendel [Áo] đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di truyền những phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, mà sau này được gọi là gen. * Tâm lí học: cuối thế kỉ 19 có hai phát minh quan trọng là của Ivan Pavlov và Sigmund Freud. Pavlov đã phát hiện ra phản xạ có điều kiện. Thử nghiệm của Pavlov đã giải thích nhiều hành vi của con người không giải thích được bằng lí trí, thực tế chỉ là sự phản ứng máy móc trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn học thuyết của Freud thì giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn. Freud đã tạo ra ngành phân tâm học. *Học thuyết chính trị: Vào thế kỉ 19 ra đời học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc *Văn học: Lịch sử thời cận đại đã được văn học châu Âu phản ánh một cách sinh động, đặc biệt là văn học Pháp. Qua các tác phẩm Victor Hugo[Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức bà Paris] , Honoré de Balzac[ Miếng da lừa], Balzac [Tấn trò đời] , Stendhl[Đỏ và Đen] , Guy de Maupassant[Viên mỡ bò], . . . . f, Nghệ thuật Âm nhạc: thời cận đại thế kỉ 18 với sự đóng góp của những nhạc sĩ lớn như Johann Sebastian Bach, Wolfgang Amadeus Mozart, thì đế thế kỉ 19 có sự đóng góp vĩ đại của Ludwig van Beethoven, Frédéric Chopin... Hội họa :danh họa người Tây Ban Nha Francisco Goya đã vẽ những cảnh tàn khốc trong cuộc chiến tranh chống Napoléon Điêu khắc: Frédéric Bartholdi đã hoàn thành bức tượng Nữ thần Tự do để chính phủ Pháp gửi tặng nước Mỹ.Khải Hoàn Môn ở Paris và nhiều dinh thự ở Paris cũng còn giữ lại được một số tác phẩm điêu khắc giá trị của thế kỉ 19. III , Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai [1871-1914] 1 ,Điều kiện ra đời Cách mạng công nghiệp lần thứ hai. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đi liền với sự nổi lên của các cường quốc công nghiệp khác bên cạnh nước Anh, đó là Đức và Hoa Kỳ, thuật ngữ này được dùng nhằm nhấn mạnh đóng góp của các quốc gia này và có thể, còn là để hạ thấp vai trò của nước Anh. Thời gian này có sự phát triển của các ngành công nghiệp hóa chất, dầu mỏ, thép và điện lực. Sản xuất hàng loạt hàng tiêu dùng được phát triển, các lĩnh vực như. [11] đồ uống và thực phẩm, quần áo, vận tải và giải trí gồm rạp chiếu phim, phát thanh, máy ghi âm được thương mại hóa đáp ứng nhu cầu dân chúng và tạo nhiều công ăn việc làm. Sự phát triển mau lẹ này, tuy vậy, là yếu tố đưa đến thời gian trì trệ những năm 18731896 và giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản tài chính độc quyền sau này.. 2, Nước Đức Đế chế Đức thay thế Anh quốc trở thành quốc gia dẫn đầu Châu Âu về công nghiệp. Có được vị trí này là nhờ ba yếu tố: .   . . Đức tiến hành công nghiệp hóa sau Anh, nên đúc rút những kinh nghiệm của nước Anh, tiết kiệm rất nhiều thời gian, tiền của và công sức. Cũng nhờ đi sau, Đức sử dụng những công nghệ mới nhất, trong khi đó, người Anh vẫn sử dụng những công nghệ đắt đỏ và lạc hậu, họ không thể [có thể cả không muốn] áp dụng những thành quả từ chính quá trình phát triển của họ. Trong lĩnh vực nghiên cứu và khoa học, người Đức đầu tư lớn hơn Anh. Hệ thống các-ten kiểu Đức – liên minh độc quyền tập trung ở mức độ rất cao cho phép sử dụng hiệu quả nguồn tư bản linh động. Một số tin rằng bồi thường chiến phí từ Pháp sau khi đánh bại nước này trong Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871 đã cung cấp vốn đầu tư cần thiết để cho phép đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng như đường xe lửa. Điều này cung cấp một thị trường rộng lớn cho các cải tiến sản phẩm thép và giao thông vận tải ngay khi hoàn thành. Sự sáp nhập vùng Alsace-Lorraine cũng mang lại cho nước Đức một số nhà máy lớn.. 3, Nước. Hoa K ỳ. Ở Hoa Kỳ, Cách mạng công nghiệp lần thứ hai thường được liên kết với sự điện khí hóa của các nhà phát minh tiên phong Nikola Tesla, Thomas Alva Edison và George Westinghouse và trường phái quản lý bằng khoa học áp dụng bởi Frederick Winslow Taylor. [12] Thomas Edison,nhà phát minh và doanh nhân Mỹ, đã được biết đến như " Thiên tài của Menlo Park"và người thúc đẩy cho sự phát triển của mạng lưới điện một chiều. George Westinghouse, kỹ sư và chủ doanh nghiệp Mỹ, người cung cấp tài chính phát triển mạng lưới điện xoay chiều thực dụng. [13] Nikola Tesla, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí điện tử và sáng chế người Secbi; ông được biết đến là " Thiên tài phương Tây"và là người thúc đẩy sự phát triển mạng lưới điện xoay chiều. a , Công nhân Giai đoạn này, gần giống như giai đoạn trước đó được đánh dấu bởi số lượng rất lớn người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, nạn thất nghiệp, thù lao ít ỏi và nạn mại dâm vì không đủ nguồn thu nhập. Nó cũng chứng kiến sự tăng lên số công nhân văn phòng và sự lớn mạnh của các tổ chức công đoàn.. b, Các phát minh Nhiều sáng chế đã được cải thiện trong Cách mạng công nghiệp thứ hai, bao gồm cả in ấn và động cơ hơi nước.. c, Truyền thông Trong thời gian này, một trong những phát minh cốt yếu nhất của việc truyền bá các ý tưởng kỹ thuật là in ấn tang quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước, một phát minh từ nhiều thập kỷ trước. Kỹ thuật này được phát triển là kết quả của phát minh máy sản xuất giấy cuộn từ đầu của thế kỷ 19. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng chứng kiến xuất hiện của kỹ thuật in Linotype và Monotype. Quy trình làm giấy từ bột gỗ thay thế nguyên liệu là bông và lanh vốn là những nguồn hạn chế. Sự truyền bá kiến thức ở nước Anh, ít nhất, cũng là kết quả của việc xóa bỏ thuế giấy trong thập kỷ 1870 khuyến khích sự phát triển của báo chí và các tạp chí kỹ thuật nhờ làm rẻ chi phí in ấn. Các sáng chế và các ứng dụng được truyền bá nhiều hơn nữa trong cuộc Cách mạng này [hoặc giai đoạn thứ hai này của Cách mạng Công nghiệp]. Trong thời gian này. [14] đã thấy sự tăng trưởng của máy công cụ tại Mỹ có khả năng chế tạo các thiết bị chính xác trong các máy khác. Nó cũng là thời gian ra đời sản xuất dây chuyền hàng tiêu dùng.. d, Động cơ Động cơ hơi nước đã được phát triển và áp dụng ở Anh trong thế kỷ 18, và được xuất khẩu chậm chạp sang châu Âu và phần còn lại của thế giới trong thế kỷ 19, cùng với các cách mạng công nghiệp. Trong thực tế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, sự phát triển động cơ đốt trong ở một số nước công nghiệp phát triển và trao đổi ý tưởng đã được nhanh hơn nhiều. Một ví dụ, động cơ đốt trong chạy trên khí than đá đầu tiên đã được phát triển do Etienne Lenoir ở Pháp, nơi mà nó đã có một số thành công hạn chế như là một động cơ nhỏ trong công nghiệp nhẹ. Động cơ đốt trong đã được thử nghiệm là một động lực cho xe ô tô sơ khai ở Pháp trong thập kỷ 1870, nhưng nó không bao giờ được sản xuất với số lượng đáng kể. Chính Gottlieb Daimler của Đức là tạo ra đột phát chỉ vài năm sau bằng việc sử dụng dầu mỏ làm nhiên liệu xe ô tô thay cho khí than. Sau đó, Henry Ford chế tạo hàng loạt ô tô với động cơ đốt trong, tạo nên tác động to lớn với xã hội. Động cơ xăng hai kỳ, ban đầu được phát minh bởi kỹ sư người Anh Joseph Day ở thành phố Bath. Ông chuyển giao phát minh cho các doanh nhân Mỹ và từ đây nó mau chóng trở thành "nguồn năng lượng của người nghèo", dẫn động máy móc nhỏ như xe máy, xuồng có động cơ và máy bơm. Nó cũng là nguồn năng lượng tin cậy của các cơ sở sản xuất nhỏ trước khi điện được phổ biến rộng rãi.. IV, Cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Hai cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên này khiến người ta giàu có hơn, “thành thị” hơn. Và giờ, một cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba cũng đang tới. Quá trình sản xuất sẽ được số hóa, điều sẽ khiến thay đổi không những hoạt động kinh doanh, mà còn nhiều vấn đề xã hội khác nữa. Một số lượng đáng kể các công nghệ đang được tích hợp với nhau: các phần mềm thông minh hơn, những vật liệu lạ, những người máy tinh vi, những dây chuyền sản xuất mới [kỹ thuật in 3D] và một loạt những dịch vụ online. Các nhà máy trong quá khứ dựa trên nền tảng sản xuất hàng tỉ tỉ sản phẩm giống nhau. Nhưng nay chi phí cho những gói sản phẩm cá biệt hóa nhằm đáp ứng từng nhu cầu của mỗi khách hàng đang giảm dần, tạo điều kiện cho các nhà máy của tương lai sẽ tập trung vào những đặc tính riêng biệt – giống như từng hộ gia đình riêng lẻ hơn là một dây chuyền sản xuất của Ford.. 1, Hướng tới không gian 3 chiều. [15] Phương thức sản xuất cũ là chế tác từng bộ phận riêng lẻ, rồi khâu, hàn hay lắp ghép lại với nhau. Giờ đây, một sản phẩm có thể được thiết kế trên máy tính và “in ra” từ một máy in 3D, chiếc máy tạo ra vật thể nguyên khối bằng cách phun từng lớp, từng lớp vật liệu nối tiếp nhau. Thiết kế điện tử có thể được chỉnh sửa chỉ với vài cái click chuột. Một máy in 3D có thể chạy tự động và tạo ra bất kì thứ gì mà có thể bị coi là quá phức tạp đối với một nhà máy. Dần dần, những chiếc máy kì diệu này có thể tạo ra gần như mọi thứ, tại mọi nơi – từ garage nhà bạn đến mội ngôi làng nhỏ ở châu Phi. Ứng dụng của in 3D là cực kì rộng lớn. Hiện tại, các loại máy trợ thính hay các bộ phận trong máy bay quân sự đã sử dụng công nghệ này để cá biệt hóa hình dạng. Bản chất của dây chuyền cung cấp sẽ thay đổi. Một kỹ sư đang làm việc giữa sa mạc, khi anh ta nhận ra thiếu một dụng cụ nào đó thì cũng không cần lao ngay tới một thành phố gần nhất nữa. Đơn giản, anh ta chỉ cần tải thiết kế xuống và sử dụng máy in 3D để tạo ra nó. Sẽ không còn cái cảnh khách hàng phàn nàn vì không tìm thấy các bộ phận nhỏ, long ra từ sản phẩm. Những thay đổi khác cũng theo đó mà diễn ra. Những vật liệu mới nhẹ hơn, bền hơn. Sợi carbon đang thay thế dần nhôm, thép trong các sản phẩm từ xe đạp cho tới máy bay. Kỹ thuật mới cũng sẽ giúp định hình được những sản phẩm vi mô một cách chính xác. Công nghệ nano đang đem tới cho các sản phẩm những tính năng nâng cao, như loại băng giúp liền vết thương, động cơ chạy hiệu quả hơn hoặc bát đĩa sứ được làm sạch dễ dàng hơn. Với internet, các nhà thiết kế có thể hợp tác với nhau mà không còn gặp phải vấn đề khoảng cách. Ford thay vì xây dựng hẳn một nhà máy tại River Rouge, hoàn toàn có thể cho ra sản phẩm mới chỉ với một chiếc laptop. Như mọi cuộc Cách mạng khác, cuộc cách mạng lần này cũng sẽ tạo ra những cú sốc. Công nghệ điện tử đã làm rung chuyển ngành truyền thông và công nghiệp bán lẻ, cũng như các nhà máy dệt sợi đã từng tác động đến những khung cửi tại các hộ gia đình hay mô hình chữ T đã từng khiến những người thợ đóng móng ngựa mất việc. Rất nhiều người đang nghĩ về mô hình nhà máy mới mà rùng mình. Sẽ không còn cảnh những người thợ người đầy dầu máy, đứng cạnh những chiếc máy dệt, thay vào đó, các công xưởng vắng hoe, chẳng khác gì sa mạc. Chỉ trong một thấp kỷ, các nhà sản xuất xe hơi có thể tạo ra sản lượng gấp đôi những gì đã từng được sản xuất. Hầu hết nghề nghiệp đều làm tại các văn phòng thay vì các nhà máy, với toàn nhà thiết kế, kỹ sư, chuyên gia IT, logistics, nhân viên marketing… Những công việc liên quan tới sản xuất trực tiếp sẽ đòi hỏi những kỹ năng chuyên sâu hơn. Cuộc cách mạng này sẽ không chỉ làm thay đổi cách người ta tạo ra sản phẩm, mà còn là địa điểm sản xuất. Nếu các nhà máy từng được di dời đến các quốc gia có nguồn lao động giá rẻ thì với cuộc cách mạng này, chi phí nhân công ngày càng trở nên ít quan trọng hơn.. [16] Trong chiếc iPad đời đầu trị giá 499 USD thì chỉ có 33 USD chi phí nhân công sản xuất, trong đó 8 USD thuộc về khâu lắp ráp cuối cùng tại Trung Quốc. Các dây chuyền sản xuất thuê ngoài đang được chuyển dần về các nước giàu hơn, không phải vì giá nhân công Trung Quốc đang tăng lên, mà vì họ muốn về gần với khách hàng của mình, để có thể phản ứng nhanh nhạy với những thay đổi trong nhu cầu. Hơn nữa, có những sản phẩm có kết cấu ngày càng phức tạp đang đòi hỏi người thiết kế và sản xuất ở cùng một nơi. Tập đoàn Boston Consulting Group nhận ra rằng các lĩnh vực như giao thông vận tải, sản xuất máy tính, hợp kim và máy móc, hiện đang chiếm 10-30% giá trị hàng nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc có thể được sản xuất hoàn toàn trong nước vào năm 2020, đẩy sản lượng nền kinh tế Mỹ tăng thêm 20-55 tỷ USD mỗi năm.. 2, Cú sốc đổi mới Người tiêu dùng sẽ không mấy khó khăn để thích nghi với các sản phẩm chất lượng cao của thế hệ mới. Nhưng các chính phủ thì có. Bản năng của họ là bảo vệ những nền công nghiệp và các công ty hiện có, chứ không phải nâng cấp để phá hủy những gì đang có. Họ bơm tiền trợ cấp các doanh nghiệp cũ, kìm kẹp những ông chủ muốn đưa dây chuyền sản xuất ra nước ngoài, tiêu hàng tỷ hỗ trợ những công nghệ mới mà họ cho là sẽ thắng thế trong tương lai. Và họ đang cố níu giữ niềm tin rằng sản xuất thì tốt hơn dịch vụ. Nhưng trên thực tế lại không như mong muốn của các chính phủ. Ranh giới giữa sản xuất và dịch vụ đang dần mờ đi. Rolls-Royce đã không còn bán động cơ phản lực, mà nó bán số thời gian mà mỗi động cơ bay qua bầu trời. Chính phủ không giỏi trong việc chọn ra những xu hướng cho tương lai, đặc biệt là khi một đội quân các doanh nhân và chuyên gia trao đổi thiết kế trực tuyến, biến chúng thành sản phẩm tại nhà và quảng bá chúng trên toàn cầu chỉ từ một chiếc garage. Khi cuộc cách mạng bùng nổ, tốt hơn hết là các chính phủ dựa vào những giá trị cơ bản: tạo ra môi trường đào tạo tốt hơn cho lực lượng lao động có tay nghề, những luật lệ rõ ràng và một sân chơi công bằng cho mọi doanh nghiệp, và để phần việc còn lại cho những người cải cách.. V, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư . Ngày 20/01/2016, Diễn đàn kinh tế thế giới đã khai mạc với chủ đề “Làm chủ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” với sự tham dự của 2.500 đại biểu từ hơn 100 quốc gia, cùng nhiều quan chức lớn Phó tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Anh David Cameron, Bill Gates, CEO của Microsoft Satya Nadella, Chủ tịch của Alibaba Jack Ma.. [17] Diễn đàn kinh tế thế giới 2016 tổ chức tại Thụy Sĩ. 1. Bối cảnh lịch sử “Cuộc cách mạng” ở đây dùng để chỉ một sự thay đổi mang tính đột biến và triệt để. Nhiều cuộc cách mạng đã diễn ra trong suốt lịch sử thế giới khi các công nghệ mới và phương pháp mới nhận thức thế giới tạo ra một sự thay đổi sâu sắc trong các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840, được bắt đầu bằng việc xây dựng các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ hơi nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Tiếp theo, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào những năm thập niên 1960 và thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính [thập niên 1960], máy tính cá nhân [thập niên 1970 và 1980] và Internet [thập niên 1990]. Ngày nay chúng ta đang ở giai đoạn đầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. FIR đã bắt đầu vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ này và xây dựng dựa trên cuộc cách mạng số, đặc trưng bởi Internet ngày càng phổ biến và di động, bởi các cảm biến nhỏ và mạnh mẽ hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo và “học máy”. Các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu.. [18] Tại Đức, đã có những cuộc thảo luận về chủ đề “Industry 4.0″, một thuật ngữ được nêu ra tại Hội chợ Hannover vào năm 2011 để mô tả làm thế nào để tạo ra một cuộc cách mạng về mặt tổ chức của các chuỗi giá trị toàn cầu. Bằng cách kích hoạt các “nhà máy thông minh”, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra một thế giới mà ở trong đó các hệ thống ảo và vật lý của chuỗi sản xuất trên toàn cầu có thể hợp tác với nhau một cách linh hoạt. Điều này cho phép tùy biến sản phẩm để phù hợp với khách hàng và tạo ra các mô hình hoạt động mới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ là về các máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đồng thời là các làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử. FIR là sự dung hợp của các công nghệ này và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số và sinh học, làm cho Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư về cơ bản khác với các cuộc cách mạng trước đó. Trong cuộc cách mạng này, các công nghệ mới nổi và sự đổi mới trên diện rộng được khuếch tán nhanh hơn và rộng rãi hơn so với những lần trước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai chưa đến được với 17% dân số của thế giới, tức ước tính khoảng gần 1,3 tỷ người vẫn chưa tiếp cận với điện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba vẫn chưa đến được với hơn nửa dân số thế giới, 4 tỷ người, phần lớn đang sống trong các nước đang phát triển, thiếu tiếp cận Internet.. 2, Vật lý Có bốn đại diện chính của xu hướng lớn về phát triển công nghệ, dễ dàng nhận thấy nhất là:    . Xe tự lái. Công nghệ in 3D. Robot cao cấp. Vật liệu mới.. a, Xe tự lái Xe hơi tự lái đang chiếm ưu thế nhưng hiện nay còn có nhiều kiểu phương tiện tự lái khác bao gồm xe tải, thiết bị bay không người lái, máy bay và tàu thủy. Cùng với quá trình phát triển của cảm biến và trí tuệ nhân tạo, khả năng của các phương tiện tự hành này cũng được cải thiện với tốc độ nhanh chóng.. [19] Xe tự lái của Google b, Công nghệ in 3D Hay được gọi là chế tạo cộng, in 3D bao gồm việc tạo ra một đối tượng vật lý bằng cách in theo các lớp từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước. Công nghệ này khác hoàn toàn so với chế tạo trừ, lấy đi các vật liệu thừa từ phôi ban đầu cho đến khi thu được hình dạng mong muốn. Ngược lại, công nghệ in 3D bắt đầu với vật liệu rời và sau đó tạo ra một sản phẩm ở dạng ba chiều từ mẫu kỹ thuật số.. Một sản phẩm in 3D c, Khoa học robot cao cấp Ngày nay, các robot đang được sử dụng nhiều hơn ở tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp chính xác cho đến chăm sóc người bệnh. Sự phát triển nhanh công nghệ robot làm cho sự hợp tác giữa người và máy móc trở thành sớm trở thành hiện thực. Hơn nữa, do tiến bộ công nghệ khác, robot đang trở nên thích nghi và linh hoạt hơn, với thiết kế cấu trúc và. [20] chức năng của nó được lấy cảm hứng từ các cấu trúc sinh học phức tạp [mở rộng của quá trình mô phỏng sinh học, trong đó mô hình và các chiến lược của tự nhiên được bắt chước lại].. Robot giúp chăm sóc người bệnh. d, Vật liệu mới: Với thuộc tính mà mà chỉ cách đây vài năm vẫn còn được coi là viễn tưởng, những vật liệu mới đang được đưa ra thị trường. Về tổng thể, chúng nhẹ hơn, bền hơn, có thể tái chế và dễ thích ứng. Hiện nay có các ứng dụng cho các vật liệu thông minh tự phục hồi hoặc tự làm sạch, các kim loại có khả năng khôi phục lại hình dạng ban đầu, gốm sứ và pha lê biến áp lực thành năng lượng và nhiều vật liệu khác nữa.. 3. Kỹ thuật số Từ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự hội tụ giữa ứng dụng vật lý và ứng dụng kỹ thuật số là sự xuất hiện Internet của vạn vật [Internet of Things, IoT]. Mô tả đơn giản nhất, có thể coi IoT là mối quan hệ giữa vạn vật [các sản phẩm, dịch vụ, địa điểm, v.v…] và con người thông qua các công nghệ kết nối và các nền tảng khác nhau.. Internet của vạn vật. [21] Cảm biến và các giải pháp kết nối thế giới thực vào mạng không gian ảo đang phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc. Các cảm biến nhỏ hơn, rẻ hơn và thông minh hơn đang được lắp đặt trong nhà, quần áo, phụ kiện, các thành phố, mạng lưới giao thông và năng lượng cũng như các quy trình sản xuất. Ngày nay, có hàng tỷ thiết bị trên toàn thế giới như điện thoại thông minh, máy tính bảng và máy tính được kết nối internet. Số lượng thiết bị được dự kiến sẽ tăng đáng kể trong vài năm tới, ước tính vài tỷ đến hơn một nghìn tỷ thiết bị. Điều này sẽ thay đổi hoàn toàn cách thức mà chúng ta quản lý chuỗi cung ứng bằng cách cho phép chúng ta giám sát và tối ưu hóa tài sản và các hoạt động đến một mức rất chi tiết. Trong quá trình này, IoT sẽ tác động làm biến đổi tất cả các ngành công nghiệp, từ sản xuất đến cơ sở hạ tầng đến chăm sóc sức khỏe.. 4. Sinh học Những đổi mới trong lĩnh vực sinh học nói chung và di truyền nói riêng thật sự đáng kinh ngạc. Trong những năm gần đây, chúng ta đã và đang thành công trong việc giảm chi phí và dễ dàng hơn trong việc giải trình bộ gen và mới đây là việc kích hoạt hay chỉnh sửa gen. Phải mất hơn 10 năm, với chi phí 2,7 tỉ USD để hoàn thành Dự án Hệ gen người. Hiện nay, một gen có thể được giải mã trong vài giờ với chi phí không tới một ngàn USD. Với sức mạnh của máy tính, các nhà khoa học không còn phải dùng phương pháp thử, sai và thử lại; thay vào đó họ thử nghiệm cách thức mà các biến dị gen gây ra các bệnh lý đặc thù .. Công nghệ sinh học giúp con người chỉnh sửa mã gen mình Sinh học tổng hợp là bước tiếp theo. Công nghệ này sẽ giúp chúng ta có khả năng tùy biến cơ thể bằng cách sửa lại DNA. Đặt những vấn đề đạo đức qua một bên, sinh học tổng hợp sẽ phát triển hơn nữa, những tiến bộ này sẽ không chỉ tác động sâu và ngay tức thì về y học mà còn về nông nghiệp và sản xuất nhiên liệu sinh học.. [22] KHÁI QUÁT CHUNG: Trên thế giới đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiêp.. Bốn cuộc cách mạng công nghiệp. ----- HẾT-----. [23]

Video liên quan

Chủ Đề