Phương pháp sơ cứu người bị gãy xương cẳng tay

Các loại nẹp chuyên dụng: như nẹp Thomas, nẹp Diteric, nẹp Beckel… mặc dù là những loại nẹp tốt và có nhiều ưu điểm như các loại nẹp này đều cố định vững chắc, an toàn, có thể tái sử dụng nhiều lần; nẹp Thomas và nẹp Diteric còn có khả năng kéo dãn nhẹ... Tuy nhiên, về cơ bản chưa thể mua để sử dụng rộng rãi được hoặc vì lý do kinh tế [đắt tiền], hoặc vì lý do kỹ thuật [nặng, khó sản xuất, khó linh hoạt cho các nạn nhân, các tổn thương khác nhau…].

Nẹp mới dạng orbe: Nẹp này mới ra đời, được sử dụng khá rộng rãi trong lâm sàng do nẹp tương đối gọn nhẹ, cố định dễ dàng, thuận tiện, có thể tái sử dụng nhiều lần. Mặc dù có nhiều ưu điểm, song theo các nhà lâm sàng, nẹp này phù hợp hơn khi dùng để cố định tạm thời ở tuyến bệnh viện vì các lý do sau:

+ Kích thước nẹp còn hạn chế nên cố định chưa thật vững chắc, nhất là khi cố định gãy xương lớn [ví dụ, trong cố định đùi, nẹp không cố định được khớp háng và khớp cổ chân].

+ Vì bao nẹp che kín đoạn chi nên khi nạn nhân bị tổn thương kết hợp, bao nẹp sẽ che kín các kỹ thuật sơ - cấp cứu khác gây mất an toàn [ví dụ, che kín ga rô khi phải đặt ga rô, che kín băng khi phải băng vết thương...].

Nẹp Cramer: là loại nẹp tốt, làm bằng kim loại, có thể uốn theo hình dáng chi thể nên rất thuận lợi khi cố định; mang vác, cơ động dễ, có thể tái sử dụng nhiều lần... Tuy nhiên, để sử dụng nẹp cramer, chúng ta phải chuẩn bị kỹ trước khi cố định và khi dùng cố định ở chi dưới thì chưa thật vững chắc.

Nẹp ứng dụng - truyền thống

Nẹp ứng dụng - truyền thống: nẹp tre, nẹp gỗ.

Ưu điểm: Cố định vững chắc, nẹp dễ làm [tự làm được] do vật liệu là tre, gỗ rất sẵn có ở Việt Nam, giá rẻ; mang vác tương đối nhẹ, có thể ứng dụng linh hoạt trên thực tế chiến trường.

Nhược điểm: Nẹp còn khá cồng kềnh, nẹp dài nhất dài 1,2 mét đến 1,3 mét; kỹ thuật tương đối khó, phải sử dụng bông gạc để đệm lót ở nhiều vị trí và dùng băng cuộn để cố định nẹp vào chi bằng nhiều vòng băng, nhiều kiểu băng khác nhau nên có nhiều thao tác phải thực hiện [điều này rất bất lợi khi phải cấp cứu cho nhiều nạn nhân cùng một lúc, ví dụ trong cấp cứu thảm họa].

Hình minh họa [Ảnh: firstaidreddeer]

Theo các bác sĩ, gãy xương là tình trạng xương bị gãy do lực tác động bên ngoài từ tai nạn sinh hoạt, tai nạn giao thông,…Gãy xương được chia thành gãy xương kín [phần da bên ngoài nơi gãy không bị tổn thương], gãy xương hở [phần da bên ngoài bị tổn thương do đầu xương gãy đâm ra] thường xảy ra ở tay, chân; gãy xương lún [hai xương va vào nhau làm xương gãy bị ép ngắn lại] thường xảy ra ở cột sống.

Dấu hiệu gãy xương là sưng, đau, bầm tím, biến dạng, mất chức năng vùng bị thương, xương nhô ra ngoài... Ngay khi phát hiện nạn nhân có dấu hiệu gãy xương, cần đưa ra khỏi vùng nguy hiểm và tiến hành sơ cứu người bị nạn. Việc sơ cứu ban đầu kịp thời và đúng cách sẽ giảm được 70% biến chứng do gãy xương.

Đối với trường hợp gãy xương tay

Nếu gãy xương cánh tay, cần để cánh tay bị gãy sát thân mình nạn nhân, cẳng tay vuông góc với cánh tay. Tiếp theo đặt 2 nẹp, nẹp trong từ hố nách tới quá khuỷu tay, nẹp ngoài từ bả vai đến quá khớp khuỷu. Dùng 2 dây rộng bản buộc cố định nẹp ở trên và ở dưới ổ gãy. Dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực, cẳng tay vuông góc với cánh tay, bàn tay cao hơn khuỷu tay, bàn tay để ngửa. Dùng băng rộng bản băng ép cánh tay vào thân mình. Thắt nút phía trước nách bên lành.

Nếu gãy xương cẳng tay, cần để cẳng tay bị gãy sát thân mình, cẳng tay vuông góc cánh tay. Lòng bàn tay ngửa. Dùng hai nẹp, nẹp trong từ lòng bàn tay đến nếp khuỷu tay, nẹp ngoài từ đầu các ngón tay đến quá khuỷu. Dùng 3 dây rộng bản buộc cố định nẹp bàn tay, thân cẳng tay [trên, dưới ổ gãy]. Dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực.

Nếu không thể gấp khuỷu tay được, không nên cố dùng sức để gấp khuỷu tay. Đặt nạn nhân nằm xuống và đặt tay bị thương dọc theo thân. Ðặt một miếng đệm dài vào giữa tay bị thương và thân. Buộc tay bị thương vào cơ thể bằng 3 dải băng rộng bản ở các vị trí quanh cổ tay và đùi, quanh cánh tay và ngực, quanh cẳng tay và bụng.

Đối với trường hợp gãy xương chân

Nếu gãy xương cẳng chân, đặt nạn nhân nằm trên mặt phẳng, chân duỗi thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng hai nẹp đặt ở mặt trong và mặt ngoài chân gãy. Nẹp ngoài từ mào chậu[gờ trên cùng của xương chậu] đến quá gót chân, nẹp trong từ bẹn đến quá gót chân. Độn bông vào hai đầu nẹp và phía trong, ngoài của các đầu xương. Buộc cố định hai nẹp với nhau ở các vị trí trên và dưới vùng gãy, trên khớp gối khoảng 3 – 5cm và băng số 8 ở cổ chân để cố định bàn chân vuông góc với cẳng chân.Vị trí buộc cần chắc chắn nhưng không quá chặt để đảm bảo lưu thông máu.

Nếu gãy xương đùi, đặt nạn nhân nằm trên mặt phẳng, chân duỗi thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng hai nẹp đặt ở mặt trong và mặt ngoài chân gãy. Nẹp ngoài từ hố nách đến quá gót chân, nẹp trong từ bẹn đến quá gót chân. Độn bông vào hai đầu nẹp và mấu lồi của các đầu xương cả bên trong và bên ngoài. Buộc cố định hai nẹp với nhau lần lượt ở các vị trí trên và dưới ổ gãy, dưới khớp gối, ngang mào chậu,ngang ngực, băng số 8 để giữ bàn chân vuông góc với cẳng chân, 3 dây để cố định hai chân vào với nhau ở các vị trí: cổ chân, gối, sát bẹn. Lưu ý, vị trí buộc cần chắc chắn nhưng không quá chặt để đảm bảo lưu thông máu.

Đối với trường hợp gãy xương cột sống

Nếu gãy xương cột sống vùng cổ, đặt nạn nhân nằm ngửa trên cáng cứng, cố định nạn nhân vào cáng tại các vị trí trán, qua hàm trên, qua ngực, qua hông, qua đùi, qua khớp gối, qua cẳng chân, hai bàn chân.Giữ thẳng đầu và dùng gối mềm chèn hai bên cổ nạn nhân.

Nếu gãy xương cột sống vùng lưng, đặt nạn nhân nằm ngửa trên cáng cứng, giữ đầu nạn nhân nằm thẳng, hai chân thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng dây cố định nạn nhân vào cáng và cố định hai chân của nạn nhân vào nhau ở các vị trí: hông, đùi, đầu gối, cẳng chân và bàn chân. Dùng gối mềm hoặc chăn chèn hai bên hông nạn nhân.

Tất cả các trường hợp gãy xương, sau khi sơ cứu cố định vùng xương bị gãy, cần nhẹ nhàng và nhanh chóng vận chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để được điều trị kịp thời.

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online!

Sơ cứu gãy xương cũng tuân thủ theo nguyên tắc cấp cứu ban đầu chung.

>> Xem Nguyên tắc cấp cứu ban đầu tại đây

Sơ cứu gãy xương tốt sẽ góp phần đắc lực cho quá trình điều trị thực thụ sau này. Vì vậy, sơ cứu cho một bệnh nhân gãy xương phải làm tốt việc sau đây:

Phải vô cảm thật tốt cho bệnh nhân nhất là đối với bệnh nhân gãy xương lớn.

Tùy từng trường hợp mà dùng các loại thuốc: Morphinclohydrat 0,01g, Diclofenac 75mg, Paracetamol 0,25g; 0,5g, Dolagan,…

– Cần phải bất động trên nguyên tắc: Bất động trên một khớp và dưới một khớp của đoạn xương gãy. Bất động không được quá lỏng cũng không được quá chặt.

– Đối với gãy xương kín cần bất động theo tư thế cơ năng. Gãy xương hở thì bất động theo tư thế gãy xương.

– Dụng cụ bất động: Nẹp tre, nẹp gỗ, nẹp kim loại,…

Nếu không có các dụng cụ thì cần bất động tùy ứng:

+ Cho bệnh nhân nằm trên ván cứng với gãy cột sống và khung chậu.

+ Treo cao tay gãy áp sát vào thân.

+ Buộc chân đau vào chân lành…

Cần dùng kháng sinh sớm, không nên băng quá kín và thăm khám nhiều lần.

Nếu có shock phải dùng thuốc giảm đau theo đúng chỉ định như tiêm Rogam, Diclofenac, Feldene,… hoặc tối thiểu cho bệnh nhân uống Paracetemol, tiêm thuốc trợ tim, truyền dịch NaCl 0.9%, Glucose 5%.

2. Sơ cứu gãy xương hở tại chỗ:

– Cầm máu: Quan sát xem mức độ và tính chất chảy máu như thế nào để có phương pháp cầm máu phù hợp.

+ Nếu máu chảy thành tia màu đỏ tươi tức là đứt động mạch lớn, phải garo cầm máu theo đúng nguyên tắc ngay. Chú ý garo bằng băng cao su to bản sát ngay phía trên tổn thương. Garo đủ chặt, đánh dấu bằng băng đỏ và ghi phiếu ngày giờ garo.

Garo cầm máu trong sơ cứu gãy xương
Các bước Garo cầm máu trong sơ cứu gãy xương

+ Nếu máu chảy ít hơn có thể cầm máu bằng băng ép, băng nhồi.

– Đảm bảo vô trùng khi sơ cứu gãy xương bằng cách thực hiện các bước sau:

+ Nếu vết thương bẩn thì phải lau rửa xung quanh vết thương từ trong ra ngoài bằng băng vô khuẩn có tẩm dung dịch NaCl 0,9%, thuốc tím 0,1%. Không được xối rửa vết thương vì sẽ đưa vi khuẩn vào sâu.

+ Sát khuẩn quanh vết thương bằng một trong các thuốc sau: Thuốc đỏ, cồn 70 độ, cồn iot 1%, Betadin 10%….

+ Gắp bỏ những mảnh dị vật lớn ở ngoài nếu có.

+ Đặt lên vết thương 1 lớp gạc vô khuẩn rồi băng ép lại. Việc băng vô khuẩn lên vết thương có vai trò quan trọng ngăn chặn sự bội nhiễm và bất động vết thương.

– Bất động xương gãy bằng nẹp gỗ, nẹp tre hoặc các phương tiện tùy ứng hiện có ở tư thế xương gãy. Không được kéo tụt đầu xương gãy lộ ra ngoài vào trong vết thương vì nó sẽ đưa bẩn vào trong vết thương.

– Khi bệnh nhân không có sốc thì di chuyển bệnh nhân đến cơ sở điều trị thực thụ.

– Chọn nẹp: dùng hai nẹp: nẹp 1 dài khoảng 35 cm; nẹp 2 dài khoảng 40 cm.

– Đặt nẹp: Nẹp 1 ở mặt trước cẳng tay, từ nếp gấp khuỷu đến khớp bàn ngón. Nẹp 2 ở mặt sau cẳng tay, từ quá mỏm khuỷu đến khớp bàn ngón.

– Đệm lót: ở 4 đầu nẹp, khuỷu tay, mặt trước cổ tay, mu tay.

– Cố định nẹp vào chi bằng hai đường băng:

Đường băng cố định ở cổ tay băng theo kiểu băng số 8 [như băng vết thương gan tay]. Tuy nhiên, cần tăng cường các vòng băng tròn quanh nẹp để cố định nẹp được chắc chắn.

Đường băng cố định ở khuỷu tay băng theo kiểu băng số 8 kép [giống như băng vết thương nếp gấp khuỷu].

– Treo tay trước ngực ở tư thế cẳng tay tương đối vuông góc với cánh tay, bàn tay ở tư thế chức năng.

Cố định gãy xương cẳng tay trong sơ cứu gãy xương

– Chọn nẹp: dùng hai nẹp: nẹp 1 dài khoảng 20 cm; nẹp 2 dài khoảng 40 cm.

– Đặt nẹp: Nẹp 1 ở mặt trong cánh tay, từ đỉnh hõm nách đến nếp gấp khuỷu. Nẹp 2 ở mặt ngoài cánh tay, từ quá mỏm cùng vai đến quá mỏm khuỷu.

– Đệm lót ở 4 đầu nẹp, mỏm khuỷu, nếp gấp khuỷu, mỏm cùng vai.

– Cố định nẹp:

Đường băng ở 1/3 trên cánh tay và khớp vai băng theo kiểu băng cơ delta

Đường băng ở khuỷu theo kiểu băng số 8 kép giống như băng vết thương nếp gấp khuỷu.

– Băng ép cánh tay vào thân người bằng đường băng tròn.

– Treo tay ở tư thế cơ năng.

Cố định gãy xương cánh tay trong sơ cứu gãy xương

– Chọn nẹp: dùng hai nẹp bằng nhau, dài khoảng 80 cm.

– Đặt nẹp: Nẹp ở mặt trong cẳng chân, từ giữa đùi tới quá gan chân khoảng 1cm. Nẹp ở mặt ngoài cẳng chân, từ giữa đùi tới quá gan chân khoảng 1cm.

– Đệm lót: ở 4 đầu nẹp, 2 lồi cầu xương đùi, chỏm xương mác, 2 mắt cá.

– Cố định nẹp vào chi ở ba vị trí:

Đường băng ở gối theo kiểu băng số 8 kép [băng vết thương vùng khoeo].

Đường băng ở cổ – bàn chân theo kiểu băng số 8 [băng vết thương mu chân].

Đường băng giữa đùi cố định đầu trên hai nẹp vào đùi bằng đường băng tròn.

– Cố định 2 chân vào nhau bằng các vòng băng tròn quanh cả 2 cổ chân.

Cố định gãy xương cẳng chân trong sơ cứu gãy xương

– Chọn nẹp: dùng 3 nẹp kích thước dài kho 80 cm, 100 cm và 120 cm.

– Đặt nẹp: Đặt nẹp dài 100 cm ở mặt sau, từ ngang mào chậu đến quá gót chân khoảng 1cm; tiếp theo đặt nẹp 120 cm ở mặt ngoài, từ hố nách đến quá gan chân khoảng 1cm; cuối cùng đặt nẹp 80 cm ở mặt trong, từ nếp bẹn đến quá gan chân khoảng 1cm.

– Đệm lót: ở 4 đầu nẹp, 2 mấu chuyển lớn, 2 lồi cầu, chỏm xương mác, 2 mắt cá.

Cố định nẹp vào chi bằng các đường băng theo thứ tự như sau:

Đường băng ở gối theo kiểu băng số 8 kép [băng vết thương vùng khoeo].

Đường băng ở sát nếp bẹn theo kiểu băng vòng tròn.

Đường băng ở cổ – bàn chân băng kiểu băng số 8 [băng vết thương mu chân].

Đường băng ngang qua hai gai chậu trước trên băng theo kiểu băng vòng tròn.

Đường băng ngang ngực băng vòng tròn.

– Cố định 2 chân vào nhau bằng các vòng băng tròn quanh 2 gối và 2 cổ chân.

Cố định gãy xương đùi trong sơ cứu gãy xương

Dùng băng cuộn để cố định xương đòn gãy theo kiểu băng số tám.

Cố định gãy xương đòn trong sơ cứu gãy xương

Áp dụng đường băng vết thương ngực hở để cố định [có thể cố định bằng băng dính to bản].

Áp dụng đường băng vết thương cằm.

– Nếu gãy xương cột sống vùng cổ:

đặt nạn nhân nằm ngửa trên cáng cứng, cố định nạn nhân vào cáng tại các vị trí trán, qua hàm trên, qua ngực, qua hông, qua đùi, qua khớp gối, qua cẳng chân, hai bàn chân.Giữ thẳng đầu và dùng gối mềm chèn hai bên cổ nạn nhân.

– Lưu ý trong quá trình sơ cứu gãy xương cột sống phải giữ người nạn nhân theo một trục thẳng, tốt nhất không nên dịch chuyển. Trường hợp dịch chuyển nạn nhân cần phải có ít nhất 6 người hỗ trợ: 1 người giữ phần đầu, 4 người giữ hai bên lưng và một người giữ chân. Tất cả phải đồng thời cùng một lúc giữ cho cột sống, đầu cổ, chân của nạn nhân theo một trục thẳng rồi mới có thể dịch chuyển. Như vậy mới tránh được những chấn thương đáng tiếc cho nạn nhân.

Tuyệt đối không được tự đưa nạn nhân vào viện cấp cứu bằng xe máy, vô tình khiến chấn thương cổ và cột sống thêm trầm trọng, ảnh hưởng đến khả năng hồi phục, thậm chí bại liệt về sau. Nếu sơ cứu người bị chấn thương cổ và cột sống không đúng cách có thể gây đứt tủy cổ dẫn đến nạn nhân choáng tủy có thể chết ngay hoặc bị liệt cơ hô hấp, liệt tứ chi không hồi phục.

– Nếu gãy xương cột sống vùng lưng:

Đặt nạn nhân nằm ngửa trên cáng cứng, giữ đầu nạn nhân nằm thẳng, hai chân thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng dây cố định nạn nhân vào cáng và cố định hai chân của nạn nhân vào nhau ở các vị trí: hông, đùi, đầu gối, cẳng chân và bàn chân. Dùng gối mềm hoặc chăn chèn hai bên hông nạn nhân.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề