So sánh thơ đường và thơ hai-cư
Thiền và Thần đạo trong thơ Haiku. So sánh Thơ Haiku và Thơ ĐườngBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.13 KB, 17 trang ) Show
VĂN HÓA ĐÔNG Á thành một tông phái lớn, với mục đích là “hành giả trực nhận” bản thể của sự vật và đạt giác ngộ, như Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ-đề. Phật giáo được đưa đến Nhật Bản từ thế kỷ thứ 8 trong thời kỳ Nara và Hei-an và sau đó trở thành một phần quan trọng trong lịch sử và văn hóa của đất nước này. Thiền là một tông phái của Phật giáo Đại thừa để lại ảnh hưởng sâu sắc tới nghệ thuật và văn hóa truyền thống của Nhật. Thiền tông được phát triển ở Trung Hoa trong thế kỷ thứ 6 và được truyền bá tới Nhật Bản vào thế kỷ 13 trong thời kỳ Kamakura (11921233) khi một số tăng nhân người Nhật như Minh Am Vinh Tây (1141-1215), Nam Phố Thiệu Minh (1235-1308) hay Đạo Nguyên Hi Huyền (1200-1253) du hành tới Trung Hoa đại lục để tiếp thụ Thiền tông từ các thiền sư Trung Quốc trước khi trở về Nhật Bản và mở ra các thiền viện của các chi Lâm Tế và Tào Động.Văn hóa Nhật Bản thấm nhuần tinh thần thiền tông từ thơ ca,hội họa,sân khấu,kiến trúc cho đến trà đạo, hoa đạo... đều thấm nhuần tinh thần này. Không chỉ ảnh hưởng đến nghệ thuật, thiền còn đi vào đời sống thường ngày của người dân Nhật trong ăn uống nghỉ ngơi và cả trong kinh doanh. Có thể nói rằng Thiền đã trở thành sinh mệnh và cốt tủy của văn hóa Nhật. Nhiều xứ sở ở vùng Đông Á cũng chịu ảnh hưởng của phật giáo Thiền tông nhưng không nơi nào thấm nhuần đến mức độ thâm sâu và bền vững như ta thấy ở quần đảo này. b. Thiền tông Về mặt ngữ âm, Zen là cách phát âm Nhật Bản của chữ Thiền và cách gọi đó đã trở nên quen thuộc trên toàn thế giới. Người Trung Quốc đã phiên âm các chữ Dhyana,Jhana của Ấn Độ thành chữ Ch’an na, rồi gọi tắt là Ch’an. Cách gọi đó sang Nhật là “Zen” còn Việt Nam là “Thiền”. Thiền là một tông phái Phật giáo, với một đường lối thu luyện thâm tâm nhằm đạt đến giác ngộ. Thiền được xem là kết tinh của những gì tuyệt diệu nhất của phật giáo Đại thừa. Nhưng cũng có thể nói đó là kết hợp tài hoa của tư tưởng Ấn Độ và các nền văn hóa viễn Đông mà nổi bật nhất là Trung Quốc và Nhật Bản. Theo Takashima Rosen - người được xem như nhân vật phật giáo vĩ đại nhất của Nhật Bản ngày nay thì “mục tiêu của Thiền là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó không phải là nơi an trụ cuối cùng... Trên quan điểm chứng ngộ chân lí là bình thường,không có gì đặc biệt. Nơi an trụ cuối cùng của Thiền, mạch sống của Phật giáo chính là Thiền 2 VĂN HÓA ĐÔNG Á trong hoạt động, không lạc ra sinh hoạt tự nhiên của đời sống bình thường hàng ngày. Như vậy dù không để ý đến ngày và đêm, chúng ta vẫn sống trong Phật pháp và áp dụng nó. Vậy thì cần gì phải giác ngộ và tụ tập?” Đi cũng là Thiền và ngồi cũng Thiền”. Nhưng không phải thế, nước đã đun sôi và sau đó để nguội chắc chắn phải khác với nước thường mặc dù cả hai đều nguội. Phải có sự khác biệt giữa một thường nhân và môn đệ đã trải qua công phu tu luyện lâu dài. Nếu không thế, tụ tập thiền định ắt là vô dụng.” Thiền không đưa ta tới một điểm nào cả. Không có không gian và không có thời gian nào để cho thiền đi tới. Nó giản dị kéo ta về với chính ta trong bản tâm thanh tịnh, về với quanh ta trong ánh sáng trí tuệ. Nhưng cả ta và đời sống quanh ta bỗng dưng mới lạ, kì diệu và ta sống trong “vĩnh cửu của từng khoảnh khắc”, một cuộc sống viên mãn và hài hòa. Xuyên suốt thời kỳ trung đại, tinh thần của Thiền tông trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ nhân Nhật Bản. Ảnh hưởng của Thiền tới văn hóa Nhật sâu rộng tới mức có thể nói “Thiền là một tính cách đặc sắc của văn hóa đất nước này” ( trích lời nhà nghiên cứu văn hóa Nhật D.T Suzuki ). 2. Thần Đạo Thần đạo (tiếng Nhật: 神 神 , Shintō) đượ xem là tín ngưỡng và tôn giáo của dân tộc Nhật Bản. Thần đạo Nhật Bản có đến 8 triệu thần (神 kami). Một số các vị thần này được nhân cách hóa, đa phần các thần liên quan đến thiên nhiên như linh hồn của đất, trời, Mặt Trăng, cây cỏ, hoa lá. Ngay cả đá, núi, hay động vật như cáo, gấu và người quá cố đã trở thành linh hồn cũng được xem là thần. Những thần trú ngụ ở tầng cao nhất trên thiên đàng gọi là "cao thiên nguyên" (神神神 takama-ga-hara), và chỉ rời khỏi đó khi được mời xuống các đền thờ trong các nghi lễ. Nghi lễ trong Thần đạo để cầu nguyện hay cảm tạ các thần thường được tổ chức tại các thần xã (神神) hoặc những nơi linh thiêng đặc biệt. Những linh vật thường được dâng lên thần linh là vải, gương hay kiếm. Nghi lễ tẩy trần rất quan trọng, người làm lễ phải giữ cho mình được trong sáng để được tĩnh tâm và có được may mắn. Ngày nay, các hoạt động nghi lễ Thần đạo thường được gắn với lễ hội, lễ cưới truyền thống hay năm mới. Tuy nhiên người ta cũng thường hay đến đền để cầu nguyện và dâng lễ (thường là chỉ 3 VĂN HÓA ĐÔNG Á bỏ vài yen vào thùng rồi cầu xin thần), hay mua bùa may mắn. Và ở nhà cũng thường có thần bằng (神神 kamidana) để thờ các linh hồn. Tư tưởng của Thần đạo khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống còn của bạn, nên trước khi ăn thường phải nói câu Itadakimasu! (神神神神) để cảm ơn những sinh linh đã chết để trở thành thức ăn, ngày nay điều này đã trở thành một phong tục. Những người hay sinh vật bị giết một cách dã man, và không được thờ cúng sẽ trở thành hoang thần dạng ( 神 神 神 aragami). Ngoài ra, còn có rất nhiều loại ma quỷ như quỷ (神 oni), yêu quái (神神 youkai), hà đồng (神神 kappa)... 3. Thơ Haiku: Haiku là thể thơ phái sinh từ tanka. Tanka là thể thơ tiêu biểu nhất của waka - tên gọi chung của thơ viết bằng tiếng Nhật để phân biệt với Hán thi, nên về sau, người ta dùng từ tanka đồng nhất với waka. Bài thơ theo thể tanka có 31 âm tiết, chia thành 5 dòng theo nhịp phách 5-7-5-7-7. Từ thế kỷ XIV - XV, khi tanka bắt đầu có dấu hiệu đi xuống, trên thi đàn Nhật Bản xuất hiện thể renga (liên ca). Renga cũng có nhịp phách 5-7-5-7-7 như tanka nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7 rõ rệt, số lượng câu không hạn chế. Sang thế kỉ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ nên renga trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí có nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi là haikai. Phần đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ haiku. Như vậy, haiku có nguồn gốc từ tanka, renga. Lúc đầu có tên là haikai (đến thế kỉ XIX mới có tên gọi haiku). Haiku rất thịnh hành vào thế kỉ XVII và phát triển mạnh trong thời Edo (1603 1867). Vào thời kì này, haiku đã dần mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy và thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền tông. Haiku phiên âm theo lối chữ Kanji (Hán tự) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày. Ngày nay thơ Haiku chỉ còn 17 âm tiết theo nhịp 5 – 7- 5. Các nhà thơ Haiku nổi tiếng của Nhật Bản: Matsuo Basho (1644 – 1694), Yosa Buson (1716 – 1783), Kobayashi Issa (1763 – 1827). 4. Thơ Đường 4 VĂN HÓA ĐÔNG Á Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường, Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh cổ thể (cổ phong),từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ tại chính quê hương của thể loại và lan tỏa ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này. Thơ Đường ra đời và phát triển hưng thịnh vào thời nhà Đường (618 – 907). Thời nhà Đường, trước khi thơ Đường ra đời, các thi sĩ thường sáng tác theo 2 thể chính: nhạc phủ ca hành, và cổ phong. Thơ cổ phong không hạn định về số câu, số chữ, không bị câu thúc bỡi luật lệ khắt khe niêm luật vv… Các thi sĩ đời Đường qua trải nghiệm sáng tác, và sự sáng tạo cần phải có đã cho ra đời một thể thơ được lấy từ nền thơ cổ phong, với sự hòan chỉnh về cấu trúc, âm điệu, tiết tấu vv… và như thế THƠ ĐƯỜNG được chính thức ra đời. Các nhà thơ bắt đầu thấy thú vị với luật thi, vì khi sáng tác theo lối này, bài thơ đọc lên sẽ có âm điệu nhịp nhàng, cấu trúc hài hòa, chữ nghĩa tinh lọc. Thời ấy, ở Trung Quốc những người làm thơ cũng chưa chia thơ Đường theo bố cục: “đề thực luận kết” hay “khai thừa chuyển hợp”, hoặc “Khởi kết, khởi phục, hô ứng, nhất khí”. Mặc dù trong thực tế có những bài thơ tự nhiên có được bố cục như thế. Kim Thánh Thán khi phân tích những bài thơ Đường luật cũng chỉ chia làm hai phần: “ Thượng bán tiệt ” và “ hạ bán tiệt ”mà thôi. Ngôn ngữ thơ Đường ngay từ hồi mới khai sanh thể thơ này, đã là một thứ ngôn ngữ có chọn lọc, bởi chỉ chừng ấy câu, chừng ấy chữ, tác giả phải chuyển tải cho được những nội dung mình cần truyền đạt đến người đọc. Ngôn ngữ thơ Đường được các tác giả chọn lọc và cân nhắc kĩ lưỡng khi sáng tác. 5 VĂN HÓA ĐÔNG Á Các nhà thơ Đường nổi tiếng của Trung Quốc: Lý Bạch (701- 762), Đỗ Phủ(712–770), Bạch Cư Dị (772-846), Vương Bột (647–675). II. Thiền và Thần Đạo trong thơ Haiku: 1. Thiền trong thơ Haiku: Thiền tông du nhập vào Nhật Bản trong thế kỉ 12, đầu thế kỉ 13 và đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc lên cách tư duy và lối sống của người Nhật, như cách sống hòa hợp với tự nhiên, đơn giản cuộc sống, nhìn thấy cái đẹp trong những sự vật nhỏ bé đến tầm thường. Thiền, như các vị Thiền sư nhấn mạnh, là trở về với tự nhiên, nhìn nhận được bản thể của sự vật và đạt được “giác ngộ”. Thơ Haiku ra đời vào thế kỉ 17 đã chịu nhiều ảnh hưởng của Thiền tông. Thiền và thơ Haiku có một mối quan hệ rất sâu sắc. Nhiều nhà thơ Haiku cũng vừa là Thiền sư như Matsuo Basho (một trong Tứ trụ Haiku của Nhật Bản),… Về Thiền tông thể hiện qua văn hóa Nhật Bản, thì cảm thức wabi và sabi là những khái niệm trọng yếu của Thiền Nhật Bản. Wabi và sabi là những mỹ cảm truyền thống Nhật Bản gắn với vẻ đẹp của sự đơn sơ và hài hòa. Theo Daisetsu Teitaru Suzuki, wabi nghĩa là “đơn sơ” hay “không thuộc về sự thời thượng”. Sabi bao hàm sự khiêm nhường và sự không hoàn hảo cổ điển, biểu hiện hành động đơn giản hoặc không nỗ lực và sự phong phú của những dấu tích thời gian, chứa đựng những yếu tố tạo ra những câu hỏi không thể lý giải về bản thể tới mức độ của việc sáng tạo nghệ thuật. Ba tính chất quan trọng của wabi và sabi bao gồm vô thường, không hoàn hảo và chưa hoàn thành. Thơ Haiku chú trọng vào những sự vật, cảnh vật nhỏ bé, tầm thường, dễ bị lãng quên và tập trung ghi lại những sự việc ở ngay trước mắt. Đặc biệt thơ Haiku chỉ gợi mà không tả, do vậy, mỗi người khi đọc lên sẽ có những liên tưởng và cảm xúc khác nhau. Khi nói đến người Nhật và nền văn hóa của họ, người ta có thể thấy được một trong những đặc trưng nổi bật nhất. Đó là họ có vẻ thay vì hứng thú với những cái gì to lớn, hào nhoáng, những tư tưởng vĩ đại, thì lại đem lòng yêu mến những sự vật rất đơn sơ, giản dị, vốn rất mờ nhạt trong cuộc sống, như một bông hoa mới nở, một chú ếch, bầy đóm đóm nhỏ, chiếc lá rơi,… Thơ Haiku với mười bảy âm tiết, rất ngắn và đơn giản đến mức người ta nghi ngờ tầm vóc văn chương của nó. Nghiền ngẫm những bài thơ 6 VĂN HÓA ĐÔNG Á Haiku của Nhật Bản, hẳn ai cũng sẽ ngạc nhiên trước điều họ chưa bao giờ nghĩ tới, đó là sự xúc động của người Nhật trước những sự vật tầm thường, nhỏ bé đó. Chính những sự vật nhỏ bé, tầm thường thường bị bỏ qua trong văn học phương Tây đó đã sở hữu một mối quan hệ mật thiết với vụ trụ trên quan điểm của Thiền tông và thơ Haiku. Cụ thể thì tính thiền trong thơ Haiku được thể hiện qua những cảm thức thẩm mỹ rất tinh tế như: cái vắng lặng (sabi), đơn sơ (wabi), buồn thương (aware), nhẹ nhàng (karumi), u huyền (yugen),… Chúng ta hãy xem qua một bài thơ nổi tiếng của Basho: Furu ike ya! Ao cũ kawazu tobikomu con ếch nhảy vào mizu no oto vang tiếng nước xao (Nhật Chiêu dịch) Bài thơ bắt đầu với hình ảnh của một chiếc “ao cũ”. Chiếc “ao cũ” này gợi cho người đọc một chiếc ao với bối cảnh mang cảm giác cổ xưa, tĩnh lặng, tịch mịch. Và có một “con ếch” đã nhảy vào ao, làm nước văng tung tóe, phá tan cái khung cảnh tĩnh lặng trước đó. Tất cả những gì còn lại sau đó là tiếng vang của nước, nước sóng xao sau chuyển động của chú ếch. Có lẽ, Basho đã muốn lấy cái” động”, tức con ếch nhảy để miêu tả cái “tĩnh”, tức khung cảnh tĩnh lặng trước đó. Nhờ cái “động” trong tức thời ấy mà người ta mới nhận ra được cái “tĩnh” của vĩnh hằng; bài thơ có lẽ muốn ca ngợi sự tĩnh lặng trong chiều sâu thăm thẳm ẩn giấu dưới sự xô bồ của cuộc sống trần thế. Chiếc ao cũ “đơn sơ”, chú ếch nhảy vào, phá đi cái tĩnh lặng của mặt ao, như sự “vô thường” của cuộc đời, để lại một khung cảnh dang dở với những tiếng nước sóng xao. Nhưng, thay vì áp đặt cảm nhận chủ quan của mình lên một bài thơ Haiku như tôi đã bàn ở trên, chúng ta cần hiểu rằng sự sáng tạo của thơ Haiku được thể hiện một cách rất “trực quan” (nhìn thẳng). Chính từ cái nhìn “trực quan” vào một sự kiện trước mắt đó mà bài thơ sẽ đánh thức những cảm nhận riêng tư của mỗi người. Tính thiền của thơ Haiku chính là ở đây, nó hướng đến những sự vật như nó vốn có, không cố gắng áp đặt bất cứ thứ trí tuệ bóng bầy, duy lý, rập khuôn nào. Bởi nếu cố gắng đưa những trí tuệ, khái niệm, suy nghĩ duy lý để phân tích thơ Haiku thì sẽ hủy diệt đi cái hay, cái đẹp của 7 VĂN HÓA ĐÔNG Á bài thơ. Mỗi người, khi tiếp cận bài thơ này, sẽ phải để lòng mình rộng mở, đánh thức cái “vô thức vũ trụ” – cầu nối tâm linh giữa con người với vũ trụ bao la, hướng đến sự nhìn nhận rõ ràng bản thể của sự vật, đi đến “giác ngộ”, mới có thể hiểu được cái sâu sắc và tinh tế của Thiền sư Basho. Sau đây là một bài thơ Haiku nổi tiếng khác được sáng tác bởi nữ thi sĩ Chiyo (1703 – 1075): Asagao ya! Hoa triêu nhan ơi Tsurube torarete Gàu kia ai buộc cạnh Morai mizu Đành xin nước nhà người Nếu trường hợp của Basho là chính cái ao cũ đã tạo cơ hội cho ông tương giao với sự vĩnh cửu thì đây, chính bông hoa triêu nhan kia đã gặp gỡ với bà Chiyo và kết nối bà với cái đẹp của Vũ trụ. Nhìn lại bài thơ một chút, tại sao bà phải đi xin nước nhà người khác? Vào thời kỳ trước, nguồn nước sinh hoạt dự trữ cho các hộ gia đình thường được để bên ngoài ngôi nhà, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Nước được lấy lên bằng một cái gàu. Như vậy, vào một buổi sáng nọ, khi bà ra ngoài nhà múc nước thì chợt phát hiện ra trên gàu nước có một nhánh hoa triêu nhan nở rực rỡ. Dù xúc động trước vẻ đẹp của bông hoa, nhưng bà nhận ra mình vẫn cần phải lấy nước dùng. Tuy nhiên, bà không nỡ lấy chiếc gàu múc nước, vì nó sẽ làm kinh động đến đóa hoa, thế là bà đành sang nhà bên cạnh xin nước. Có lẽ sau khi đọc bài thơ xong, người ta sẽ không hiểu, không hiểu rất nhiều thứ. Chẳng hạn như tính thơ ca của nó, làm gì có tính thơ ca nào ở đây khi hoa triêu nhan lúc ấy chỉ là một loài hoa dại, dễ mọc, có thể mọc ở bất cứ đâu ở miền nông thôn Nhật. Và tính giản dị đó cũng chẳng gợi cho người ta bất cứ cảm xúc đặc biệt nào. Chuyện xin nước nhà bên cũng thật “ngớ ngẩn”, cớ gì phải phiền phức như thế? Chiyo có thể đã cắt dây leo đó đi, thả gàu nước ra. Đơn giản như vậy! Và nhiều người cũng sẽ không thấy sự lãng mạn hay cảm hứng thi ca ở đâu trong hoàn cảnh đó. Nhưng, liệu bông hoa đó có thật sự tầm thường không? Không phải thơ Haiku vốn chú trọng đến những vật như thế sao? Tính Thiền trong Haiku đã được thể hiện sâu sắc ở 8 VĂN HÓA ĐÔNG Á đây. Thiền là gì, là trở về với tự nhiên. Đóa hoa triêu nhan đó tượng trưng cho tự nhiên, cũng cho vũ trụ. Khi Chiyo động lòng trước vẻ đẹp đơn sơ, giản dị của đóa hoa, bà đã có một cuộc tương giao với vũ trụ, cả vũ trụ ẩn chứa trong một bông hoa tầm thường này. Khi con người ta tách riêng mình và thế giới, lắng nghe, ngắm nhìn, để tâm đến những sự vật nhỏ bé quanh mình, nhìn ra bản thể của nó, đó là lúc người ta trở thành nhà thơ, cảm nhận cái đẹp của cuộc sống. Có lẽ, chính sức sống mãnh liệt của hoa triêu nhan đã làm bà rung động, đến thốt lên “hoa triêu nhan ơi”, rồi nhận ra chiếc gàu nước hoa đng nở lên mà mình đang cần lấy nước, trong tức khác bà quyết định giữ nguyên cảnh đẹp đơn sơ đó mà sang nhà bên xin nước. Muốn hiểu được bài thơ, người ta phải thấu hiểu tâm lý và tư duy của người Nhật, bởi cảm quan thẩm mỹ của họ hướng đến tự nhiên, cảm nhận và sống hòa hợp với tự nhiên. Thơ Haiku là thể loại hồn nhiên nhất, phù hợp nhất để người Nhật giải tỏa những cảm xúc của mình. Có lẽ vì vậy chính người Nhật mới có thể cảm nhận trọn vẹn nhất cái đẹp của thơ Haiku – kiểu thơ mà thay vì cảm nhận bằng tư duy, lý trí thông thường thì chỉ có thể hiểu khi cảm nhận bằng cả trái tim. Basho còn có một bài thơ khác: Kare eda ni Trên cành khô Karasu no tomari keri Con quạ đậu Aki no kure Chiều thu Bài thơ đã vẽ lên khung cảnh tịch mịch của một chiều thu. Khi mà cây giờ đã rụng hết lá, chỉ còn những cành khô xơ xác. Trên cành cây, có một con quạ đang đậu, càng làm khung cảnh thêm vắng lặng, tiêu điều. Sự đơn sơ, dở dang của tự nhiên được thể hiện qua buổi chiều thu, kèm theo đó là sự vô thường của cuộc đời qua những “cành khô không lá”. Tâm hồn của con người như đồng điệu với cái tĩnh lặng của cả vũ trụ, cá thể như chìm đắm trong hư vô, hòa làm một với tự nhiên. Ta cảm thấy như mình đang đứng trước một cái vực sâu thăm thẳm, rồi giật mình tỉnh giấc. Thơ Haiku chỉ gợi, quả thật là như vậy, tất cả những cảm xúc và trải nghiệm của chính nhà thơ, không thể nào diễn tả được bằng con chữ. Mười bảy chữ là quá nhiều, hay là quá ít? 9 VĂN HÓA ĐÔNG Á Thiền tông coi trọng tính chất “đốn ngộ”, tức là “giác ngộ trong tức khắc” trên con đường tu học. Và Thiền trong thơ Haiku cũng chú trọng tính chất ấy. Một bài thơ Haiku có thể được coi như một sự cảm nhận đột ngột một cái đẹp nào đó hay sự cảm nắm bắt bất ngờ ý nghĩa của sự vật do vậy nó có thể được so sánh với chủ trương đốn ngộ trong Thiền tông, một thiền sư có thể đạt đến giác ngộ ngay khi ông ta thấu thị được Phật tính của mình trong một khoảnh khắc. Như Shiki (1867-1902) đã viết khi ông nhận ra cái đẹp của một bông hoa trắng: Kusau mura ya Giữa đồng cỏ xanh Na mo shiranu Một bông hoa dại Shiroku saku Nở ra trắng ngần Shiki trong một khoảnh khắc đã nhỉn thấy một bông hoa giữa đồng cỏ xanh đang nở rực rỡ, với màu trắng tinh khiết. Đó chỉ là một bông dại ven đường, nhưng chính sự nhận ra cái đẹp đơn sơ đó đã khiến tâm hồn Shiki có thể kết nối với vũ trụ, với tự nhiên, đạt được cái “giác ngộ” trong phút chốc. “Na mo shiranu” nghĩa là “không ai biết tên”, “vô danh”, “vô nghĩa”, “bé mọn”. Đây là một tính ngữ mà chúng ta dành cho vạn vật đang tồn tại theo cái lý riêng của nó, với ý nghĩa rằng chúng không là gì cả, không có bất kỳ giá trị nào; cho đến khi chúng được kết nối vào cái toàn thể của sự sống hiện tại bằng một cách nào đó. Dù là ngọn cỏ, chiếc lá, bông hoa dại,… tất cả đều mang sẵn “Phật tính” trong mình. Khi anh cảm nhận được cái đẹp của nó bằng cả tâm hồn, không gượng ép, suy nghĩ khô khan, anh đã đến thật gần với “giác ngộ”. Để hiểu thêm về thơ Haiku dưới góc nhìn của người Nhật Bản, tiếp theo xin trích dẫn một bài thơ của Buson (1716 –1783): Tsuri – gane ni Tomarite nemuru Kocho kana Trên chuông chùa ngủ say sưa một con bướm nhỏ Vấn đề của chúng ta là, tiếng chuông chùa và con bướm, có gì liên quan ở đây? Đó chính là sự sáng tạo trong thơ Haiku của Nhật mà chúng ta phải quan tâm đến. Chúng 10 VĂN HÓA ĐÔNG Á ta có thể liên tưởng đến những cánh bướm rập rờn bay trong một khuôn viên của một ngôi chùa nào đó. Ngôi chùa ở xa tắp nơi rừng núi vắng lặng, không có một thanh âm hỗn loạn, xô bồ nào của trần thế có thể vươn đến. Cứ như thế, một cánh bướm nhỏ bé, đậu lên chiếc chuông, chìm vào giấc ngủ. Chúng ta có thể thấy một hình ảnh tương phản ở đây, một chú bướm nhỏ bé, mỏng manh đối lập với chiếc chuông chùa to lớn, tối màu. Chú bướm đang ngủ say trên đó, nhưng nếu một tu sĩ nào đó gõ chuông thì sao? Theo tôi, có lẽ, qua hình ảnh chú bướm đang say ngủ trên chiếc chuông này, tác giả muốn gửi gắm niềm cảm khái trước cuộc đời vô thường, đầy biến động. Nếu chiếc chuông kia bị gõ vào, liệu con bướm đó có hoảng loạn không? Liệu nó có tiếc nuối vì đã đậu ở đây không? Chúng ta nhìn thấy những toan tính của mình qua viễn cảnh tương lai của một con bướm. Quả chuông ở đây cũng chẳng mang ý vĩnh cửu. Con bướm nhỏ, như một lẽ thường tình, sau khi rập rờn bay qua lại những cành hoa xinh đẹp đang tỏa hương thơm ngát, nó chọn một nơi để dừng chân, chẳng khác gì con người. Và khi rung động xảy ra, nó sẽ bay đi, cũng tự nhiên như khi đã đến, không mang một suy nghĩ gì cả, không một chút “phán đoán”, tự giải thoát mình khỏi những nỗi âu lo, khắc khoải trước đó. Tính Thiền thể hiện ở sự vô thường được gửi gắm qua những hình tượng đơn sơ như con bướm nhỏ, quả chuông. Cái dang dở mà bài thơ mang lại là hình ảnh một chú bướm ngủ say trên quả chuông làm người ta liên tưởng nhiều về những điều sẽ xảy ra sau đó, như, nó sẽ kinh động và bay đi nhưng cũng khiến người ta không suy nghĩ gì cả, đánh thức cái “vô thức vũ trụ” của mình, nối kết những sự vật khác nhau để đưa đến một ý nghĩa nào đó, nhận thức được cái “tĩnh” vĩnh hằng trong cái “động” tức thì, chấp nhận mọi thứ của cuộc sống một cách rất tự nhiên mà không phải suy xét, phán đoán. Không phải bất cứ bài thơ nào cũng có yếu tố Thiền nhưng ảnh hưởng của Thiền tông đến thơ Haiku, có thể dễ dàng thấy được, là rất sâu sắc. Có thể nói, việc nghiên cứu Thiền học giúp chúng ta dễ dàng thấu hiểu được những cảm thụ mỹ học của Haiku và ngược lại, thơ Haiku là một cách tiếp cận đầy tính thẩm mỹ đến chân lý của Thiền. 2. Thần đạo trong thơ Haiku: Với thơ haiku, yếu tố thần thoại không chỉ là những mô tuýp “vật hóa” mà phần lớn là “thần hóa”. Với sức mạnh của cú pháp tư duy ẩn dụ, haiku đã chuyển tải thần 11 VĂN HÓA ĐÔNG Á thoại Nhật Bản lên mức độ “thần thánh” với những câu chuyện về các vị thần, phủ lên nó không khí thần linh – tôn giáo đậm chất Thiền tông Nhật Bản. Thần thoại về thần của Nhật Bản có thể còn là những yếu tố có trong tự nhiên và trong con người. Là một xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ, với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ như những đám mây hoa. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho văn học Nhật, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca. Thơ ca Nhật là nơi thiên nhiên sống trầm lặng với bao ý nghĩa sâu lắng. Thơ haiku Basho đã ngâm mình trong thiên nhiên và đưa vẻ đẹp của thiên nhiên đến với con người Nhật và cả thế giới. Từ những cái nhỏ bé đơn sơ, làm rung động từng cảm giác tinh vi nhất của con người. Đó là những giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của thiên nhiên mà Basho đã đưa vào thơ. Con người cũng nhờ đó mà gần nhau hơn bằng những xúc cảm qua “thiên nhiên”. Thiên nhiên đẫm màu sắc Thơ haiku được ví như bức tranh bốn mùa của Nhật Bản, mỗi bài thơ đều gắn liền với hình ảnh thiên nhiên. Và thiên nhiên trong thơ Haiku cũng thật đa dạng và phong phú, khi thì nó được hiện lên và khắc họa rất rõ nét, khi thì lại lung linh, mờ ảo như những con sóng mặt hồ. Mỗi bài thơ là một bức tranh tuyệt mỹ, những tác phẩm kiệt xuất ấy là kết quả của một đời lãng du trên bước đường hành giả, làm lữ nhân phù thế. Thiên nhiên trong thơ Basho thật tươi đẹp hồn nhiên trữ tình nồng thắm. Điều này đã được thể hiện rõ trong những bức tranh thiên nhiên mang đậm màu sắc luân chuyển theo từng mùa: “Một đám mây hoa Chuông đền Ueno vang vọng Hay đền Asakasa” Thần thoại về thần của Nhật Bản có thể còn là những yếu tố có trong tự nhiên và trong con người. Chúng quẩn quanh với những câu chuyện thần thoại được lấy từ Thần đạo và sau này từ đạo Phật. Đó là những câu chuyện giải thích, lý luận về sự xuất hiện của các hiện tượng thiên nhiên và lý giải cho tình yêu và sự sùng bái thiên nhiên vô bờ bến của người Nhật Bản nói chung và nhà thơ lỗi lạc Basho nói riêng.Bài thơ về mùa xuân chỉ với 3 câu ngắn gọn ở trên đã lột tả hết ý thơ mà nhà thơ Basho muốn nói : Chuông chùa vang vọng gợi cho người đọc thấy đựơc sự trang nghiêm, cổ kính, trầm mặc và có phần cô tịch của những ngôi đền nằm trên đỉnh núi vào mùa xuân. Tiếng chuông vang lên phá tan sự ngưng đọng, yên tĩnh của không gian. Đồng thời cũng phá tan sự yên 12 VĂN HÓA ĐÔNG Á tĩnh trong tâm tưởng con người, trong lòng Basho, khiến dòng suy tưởng ấy như chùng lại. Đi qua thơ haiku mùa xuân của Basho ta như bước lên những thảm cỏ xanh, phảng phất đâu đó hương thơm của những cánh hoa anh đào, tai nghe đầy tiếng chim tước, lòng như tràn đầy hơi thở của sự sống. Không gian mùa xuân trong thơ haiku Basho ấm áp, tươi vui…tất cả được giăng mắc trên khắp cành cây, ngọn cỏ, tràn lan khắp mười phương, phảng phất khắp thiên - địa - nhân. “Tiếng ve mải kêu không hề để lộ cái chết cận kề.” Đa số người dân Nhật Bản cho rằng, tiếng kêu của loài ve sầu có thể làm cho mùa hạ sinh động hơn, có sức lôi cuốn hơn, song ve sầu vẫn là biểu hiện của một cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng ở đây Basho không đi miêu tả chú ve mà dừng lại ở tiếng ve “mãi kêu”. Một đặc tính của ve sầu là kêu râm ran, dường như không ngừng nghỉ khi hạ tới, tiếng ve làm cho mùa hạ như náo nhiệt hơn, bầu trời thêm căng tràn, mây xanh trong và nắng vàng rải khắp nơi nơi. Nhưng rồi cũng chính tiếng kêu đó lại báo hiệu một vòng đời mới cho chú, sau hạ chú phải lột xác, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết. Nhưng chú không quan tâm tới điều đó, điều chú quan tâm là tác dụng, ý nghĩa tiếng kêu của mình với đời sống con người. Chú ve nhỏ bé nhưng cũng có tâm hồn, cũng biết nghĩ tới giá trị sống như con người vậy. Mùa thu đến với cảm giác se lạnh, chúng ta có cảm tưởng rằng thời gian và mọi thứ như đang ngưng đọng lại. Những làn gió nhẹ, những lá vàng lác đác, đám lá khô xào xạc, cánh cúc ngây thơ, sắc phong rủ đỏ…tất cả tạo nên sắc thu riêng biệt, đặc trưng không thể lẫn lộn của mùa thu nơi xử sở hoa anh đào lãng mạn nên thơ: “Trăng thu suốt đêm tôi dạo loanh quanh bên hồ” Đông sang, ở đất nước Nhật Bản mọi vật từ hoa lá, phố phường,con người… đều trở thành những nét vẽ trên nền tuyết trắng. Tuyết tràn ngập khắp nơi…gợi lên cho con người cảm giác lạnh lẽo nhưng lại cũng đem lại cảm nhận của sự thuần khiết, tinh khôi. Tâm hồn của một người như Basho đã cảm nhận được sự lạnh lẽo ấy rằng: “Mùa đông vò võ 13 VĂN HÓA ĐÔNG Á thế gian một màu và âm thanh gió “ Ngoài ra, trên con đường của một thiền sư đầy gió bụi, thiên nhiên là người bạn thân thiết, luôn kề vai sát cánh cùng nhà thơ Basho. Với ông,thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp. Người yêu thiên nhiên bằng tình cảm chân thành của một "lữ nhân phù thế". Thiên nhiên cũng chính là hình ảnh quê hương đất nước: “Chim đỗ quyên hót ở kinh đô mà nhớ kinh đô.” Với từng bước đi trên đường đời, thi nhân không tránh khỏi bùi ngùi nhớ về một cái gì xa xôi trong sâu thẳm tâm hồn về một miền quê mà ông đã từng gửi thân qua cuộc đời gió bụi. Đó là nỗi nhớ quê hương không nguôi. Basho đang ở kinh đô nghe tiếng chim đỗ vũ (chim đỗ quyên) hót, lòng bâng khuâng nhớ về quê cũ. Ở kinh đô này lại nhớ kinh đô xưa - kinh đô của ký ức một thời đã xa, đã vĩnh viễn mất đi chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ khi nghe tiếng chim kêu báo hiệu mùa hè. Tóm lại, qua một số bài thơ haiku của Basho có thể nhận thấy rằng bằng sự nhân cách hóa các vị thần trong tư tưởng thần đạo của con người Nhật Bản cụ thể ở đây là sự nhân cách hóa các vị thần thiên nhiên: mùa màng, hoa lá, cây cỏ, núi, trăng, gió… vào trong thơ haiku nên những bài thơ đều mang đậm tư tưởng thần đạo. Từng ý thơ, câu chữ khi mới đọc lướt qua có thể không đem lại ngay điều ấn tượng nhưng nếu suy nghĩ nhìn nhận kĩ hơn thật sự đã thể hiện rất nhiều ý nghĩa sâu xa trong đó. Chính bởi tính chất sâu sắc của thơ ca đã làm cho những huyền thoại cổ xưa, bao gồm các câu chuyện thần thoại, trở thành chất liệu quý giá cho văn học, nghệ thuật. Đây là một sản phẩm dựa trên trí tưởng tượng của con người, từ những cái nguyên thủy hoang sơ nhất, thần thánh nhất, và không kém phần mơ hồ về nguồn gốc của thế giới, các hiện tượng thiên nhiên. Dù là Nhật Bản hay bất cứ quốc gia nào đi nữa, ít hoặc nhiều, đều có chứa đầy kho thần thoại riêng của mình về sự hình thành ban đầu của vũ trụ. III. 1. SO SÁNH THƠ HAIKU VÀ THƠ ĐƯỜNG Về nguồn gốc: Haiku là thể thơ phái sinh từ tanka, khoảng thế kỉ XIII. Sang thế kỉ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ nên renga trở nên phổ biến và bình 14 VĂN HÓA ĐÔNG Á dân hơn, thậm chí có nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi là haikai. Phần đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ haiku. Như vậy, haiku có nguồn gốc từ tanka, renga. Lúc đầu có tên là haikai (đến thế kỉ XIX mới có tên gọi haiku). Haiku rất thịnh hành vào thế kỉ XVII và phát triển mạnh trong thời Edo (1603 - 1867). Vào thời kì này, haiku đã dần mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy và thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền tông. Haiku phiên âm theo lối chữ Kanji (Hán tự) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày. Thơ Đường ra đời khoảng thế kỉ thứ VII và phát triển hưng thịnh vào thời Đường. Bởi giai đoạn này có rất nhiều vị Vua thông minh, lỗi lạc và đặc biệt rất coi trọng Thi ca. Thơ Đường hay toàn bộ thơ ca đời Đường được các nhà thơ người Trung Quốc sáng tác trong khoảng từ thế kỉ VII - X (618 - 907). Các sáng tác của hàng nghìn nhà thơ đời Đường được bảo tồn trong cuốn Toàn Đường thi gồm 48.900 bài. Đời Thanh chọn 300 bài do Hành Đường thoái sĩ và Trần Uyển Tuấn bổ chú thành Đường thi tam bách thủ được phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc, Việt Nam... Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (713 766), Trung Đường (766 - 835), Vãn Đường (835 - 907). 2. Về nội dung: Hai đề tài nổi bật của haiku là thiên nhiên và cuộc sống đời thường. Một bài thơ haiku phải thể hiện được cảm thức về thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả các mùa xuân, hạ, thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng của mùa. Việc dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người Nhật với thiên nhiên. Người Phù Tang rất nhạy cảm với bốn mùa, có cảm quan tinh tế về thời tiết, nhất là sự thay đổi của thiên nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên trong thơ haiku thường là những cảnh vật bình dị, nhỏ bé, tầm thường và dễ bị lãng quên như chú ếch, con quạ, chú khỉ nhỏ bé, chim đỗ quyên, tiếng ve, đóa hoa dại nở bên bờ suối, hòn đá… Trăng soi (hình ảnh trừu tượng) Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể) Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể) Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh: một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn. 15 VĂN HÓA ĐÔNG Á Nội dung thơ Đường chủ yếu đề cập đến mối tương giao (nhất thể hóa) giữa chủ thể - khách thể, hay giữa con người – thiên nhiên, ta – vật. Thiên nhiên cũng có linh hồn nhưng không phải là phép nhân hóa hay ẩn dụ gì cả. Một bài thơ Đường thể hiện được sự thống nhất giữa các chủ thể, giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa thiên nhiên và con người, giữa các quá trình khác nhau trong vũ trụ. Sự thống nhất và đối lập cùng song song tồn tại trong một bài thơ. Hình ảnh trong thơ Đường còn thể hiện được các yếu tố đối lập: cao thấp, lớn nhỏ, vô hạn – hữu hạn; các yếu tố mộng - ảo, vô thanh – hữu thanh, vộ tâm của tự nhiên – hữu tâm của con người… Không gian thơ Đường thường là bầu trời, trăng, mây, núi sông.. hay nói cách khác là các cảnh vật tự nhiên mang yếu tố tả thực xen lẫn ảo mộng. 3. Về hình thức: Thơ Haiku là thể thơ ngắn chỉ gồm 17 âm tiết, chia làm ba dòng để thể hiện theo nhịp 5 – 7 – 5. Các thi sĩ haiku thường bắt đầu từ những điểm nhìn đơn lẻ, chớp lấy một khoảnh khắc có thần của thực tại, đẩy lên đỉnh điểm của cảm xúc và sáng tạo theo nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh. Trong một bài thơ haiku thường có một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Haiku không mô tả cảm xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Nhà thơ ít dùng tính từ và trạng từ làm hạn chế sự tưởng tượng của người đọc, vì thế, haiku rất giàu sức gợi. Ở thơ haiku, ta bắt gặp bút pháp của tranh thủy mặc, thiên về thần thái hơn là đường nét. Trong thơ haiku cổ điển buộc phải có kigo (神神, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó trong năm. Có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, hoạt động hay những cái gì đó mà mang đặc trưng của một mùa trong năm. Một bài haiku thường chỉ "gợi" chứ không "tả", và kết thúc thường không có gì rõ ràng, vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc thơ hoàn toàn phụ thuộc người đọc. Mỗi bài haiku thông thường có cấu trúc âm tiết 5 – 7 - 5 trong ba câu. Tuy nhiên, đôi khi cũng có trường hợp ngoại lệ. Thơ Đường luật rất đa dạng về dạng (hình thức thể hiện). Có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu 16 VĂN HÓA ĐÔNG Á năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này. Thơ Đường thiên về gợi tả, lấy cảnh vật thiên nhiên để nói về tâm trạng con người – “tả cảnh ngụ tình”. Sau đây là một bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật nổi tiếng của Lý Bạch: HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG Cố nhân Tây từ Hoàng Hạc lâu Bạn từ lầu Hạc lên đường Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng Bóng buồm đã khuất bầu không Duy kiến trường giang thiên tế lưu. Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Lý Bạch Ngô Tất Tố dịch Các hình ảnh xuất hiện trong thơ Đường thường được trau chuốt và sắc nét hơn hình ảnh trong thơ Haiku. Ngôn từ cũng được sử dụng đa dạng hơn, số chữ nhiều hơn. Chính vì thế người đọc sẽ tưởng tượng được nhiều hơn. Khác với yếu tố “gợi chứ không tả” của thơ Haiku. 17 Luận án tiến sĩ so sánh tuyệt cú và haiku về phương diện loại hình
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH ---------------------- NGUYỄN THỊ NGUYỆT TRINH SO SÁNH TUYỆT CÚ VÀ HAIKU VỀ PHƯƠNG DIỆN LOẠI HÌNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC TP HỒ CHÍ MINH - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH ---------------------- NGUYỄN THỊ NGUYỆT TRINH SO SÁNH TUYỆT CÚ VÀ HAIKU VỀ PHƯƠNG DIỆN LOẠI HÌNH Chuyên ngành: Văn học Trung Quốc Mã ngành: 62.22.30.05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Hồ Sĩ Hiệp TP HỒ CHÍ MINH - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 11 năm 2017 Tác giả luận án Nguyễn Thị Nguyệt Trinh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................14 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................15 5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................16 6. Những đóng góp của luận án...........................................................16 7. Kết cấu của luận án..........................................................................17 Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH NÊN SỰ TƯƠNG ĐỒNG – DỊ BIỆT CỦA TUYỆT CÚ VÀ HAIKU 1.1 Những tiền đề cho sự hình thành thơ tuyệt cú và haiku............19 1.1.1 Điều kiện lịch sử - tự nhiên .........................................................19 1.1.2 Nền tảng văn hóa – tư tưởng......................................................21 1.1.3 Sự phát triển tự thân của văn học...............................................24 1.2 Sự hình thành thơ tuyệt cú và haiku...........................................25 1.2.1 Sự hình thành thơ tuyệt cú..........................................................25 1.2.2 Sự hình thành thơ haiku..............................................................28 1.2.3 Hai thể loại tinh hoa thuộc loại hình thơ cổ điển phương Đông.................................................................................................30 1.3 Quan niệm thơ ca.......................................................................35 1.3.1 Khởi từ tâm hay bản chất trữ tình của thơ ca..............................35 1.3.2 Tính chính trị và tính duy mĩ........................................................39 1.3.3 Phong cốt và mono no aware – cốt tủy của trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản.........................................................................................................42 Chương 2: HỨNG THÚ TỰ NHIÊN, CẢM NGHIỆM NHÂN SINH VÀ SUY TƯ TÔN GIÁO TRONG TUYỆT CÚ VÀ HAIKU 2.1 Hứng thú tự nhiên trong tuyệt cú và haiku................................51 2.1.1 Vẻ đẹp ý cảnh ..............................................................................62 2.1.1.1 Ý cảnh tinh tế hài hòa...............................................................66 2.1.1.2 Ý cảnh tịch tĩnh không hư.........................................................68 2.1.1.3 Tráng mĩ và bi mĩ......................................................................70 2.1.2 Thiên nhiên tượng trưng..............................................................74 2.1.2.1 Thiên nhiên và bước đi bốn mùa...............................................77 2.1.2.2 Màu sắc, hương thơm và âm thanh tương ứng………… ……81 2.1.2.3 Tỷ đức và như như....................................................................86 2.2 Cảm nghiệm nhân sinh trong tuyệt cú và haiku........................92 2.2.1 Bức tranh cuộc sống trong tuyệt cú và haiku..............................92 2.2.1.1 Vấn đề thân phận và tình cảm con người................................93 2.2.1.2 Hình ảnh quá khứ và cái nhìn hoài cổ thương kim.................101 2.2.1.3 Cái lớn lao và cái bình dị.......................................................103 2.2.2 Sự thể hiện con người trong tuyệt cú và haiku..........................105 2.2.2.1 Con người vũ trụ.....................................................................105 2.2.2.2 Con người thế tục....................................................................109 2.3 Suy tư tôn giáo trong tuyệt cú và haiku....................................112 2.3.1 Dấu ấn của Thiền.......................................................................113 2.3.2 Vai trò của Đạo..........................................................................122 2.3.3 Ảnh hưởng của Nho...................................................................125 Chương 3: VẺ ĐẸP NGHỆ THUẬT THƠ TUYỆT CÚ VÀ HAIKU 3.1 “Dĩ thiểu kiến đa” – “sự tình vắn tắt” hay sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của tuyệt cú và haiku..................................................131 3.1.1 Sự phong phú của tuyệt cú và sự đơn thuần của haiku về phương diện đề tài......................................................................................................132 3.1.2 Lát cắt của đời sống hay là phương thức xử lý không gian.......133 3.1.3 Thơ ca của khoảnh khắc hay là năng lực làm chủ thời gian.....136 3.2 Âm luật.........................................................................................138 3.2.1 Những đặc thù về mặt âm học của ngôn ngữ dân tộc................138 3.2.2 Âm số ít oi hay là sự tinh giản của thơ ca.................................141 3.2.3 Âm vận hài hòa trong tuyệt cú và sự đơn thuần đạm bạc của haiku....................................................................................................144 3.3 Từ ngữ và kết cấu........................................................................147 3.3.1 Ý tượng giản đơn và danh từ thiện mĩ.......................................147 3.3.2 Các thủ pháp nghệ thuật…………………………………………… 153 3.3.2.1 Các thủ pháp tỉnh lược...........................................................153 3.3.2.2 Các thủ pháp dựa trên sự liên tưởng......................................156 3.3.3 Kết cấu mở hay khoảng trống trong thơ....................................160 3.3.3.1 Kết cấu nghi vấn.....................................................................160 3.3.3.2 Kết cấu trùng điệp...................................................................162 KẾT LUẬN........................................................................................172 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................175 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ................................186 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Nxb: Nhà xuất bản H.: Hà Nội TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh Tr.: Trang DANH MỤC CÁC BẢNG STT Tên bảng 01 Bảng 2.1 Thống kê những hình ảnh thiên nhiên thường gặp Trang 55 02 trong tuyệt cú Bảng 2.2 Thống kê những hình ảnh thiên nhiên thường gặp 58 03 trong haiku Bảng 3.1 Cấu trúc một số ý tượng giản đơn thường gặp trong 149 04 tuyệt cú Bảng 3.2 Cấu trúc một số ý tượng giản đơn thường gặp trong 150 haiku 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tuyệt cú và haiku – hai thể thơ hội tụ tinh túy vẻ đẹp thơ cổ điển phương Đông. Nếu tuyệt cú – “hạt minh châu của thơ ca Trung Hoa” – long lanh vẻ sáng hàm súc, dư ba đầy ý vị Đường thi thì haiku là thể thơ nhỏ xinh như một đóa anh đào là niềm tự hào của thơ ca Nhật Bản vươn ra thế giới. Trong khi nhiều thể thơ khác chịu sự hạn chế của lịch sử - thời đại thì tuyệt cú và haiku có được sự năng động và sức sống mạnh mẽ với sự lan tỏa, ảnh hưởng vượt không gian – thời gian. Mỗi thể thơ, trong một dạng thức bé nhỏ, lại mang một khả năng biểu đạt dồi dào, là một niềm ngạc nhiên thú vị cho người yêu thơ và các nhà nghiên cứu. Vì những lý do này, tuyệt cú và haiku luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, và cùng với lòng yêu không hề vơi theo năm tháng, những công trình nghiên cứu về chúng ngày càng dày dặn thêm. Chọn đề tài này, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu mảnh đất thơ cổ điển phương Đông muôn đời “quen mà lạ”, đầy bí ẩn mà chứa đựng bao vẻ đẹp không nói hết. So với những công trình nghiên cứu đã có về tuyệt cú và haiku – chủ yếu nghiên cứu từng thể loại độc lập, riêng rẽ - đề tài của chúng tôi đóng góp một hướng tiếp cận khá mới. Dưới góc nhìn so sánh, tuyệt cú và haiku sẽ thể hiện nhiều đặc điểm trên nhiều phương diện – hơn là nghiên cứu độc lập. Từ đó đề tài góp phần làm sáng tỏ những nét đồng dị của hai thể thơ đặc sắc trong thế giới thơ ca phương Đông. Trong văn học trung đại Việt Nam, tuyệt cú – thường được gọi là tứ tuyệt - cũng là một thể thơ được yêu thích và sáng tác rộng rãi, sức sống của thể loại đã vượt qua những giới hạn không thời gian, không ngừng biến đổi và 2 tỏa sáng. Vì vậy nghiên cứu so sánh tuyệt cú (Trung Hoa) và haiku (Nhật Bản) cũng là để hiểu rõ hơn văn học của nước nhà. Từ lâu thơ Đường – trong đó tuyệt cú đóng vai trò quan trọng – đã được lưu tâm trong nhà trường phổ thông. Haiku được thế giới biết đến ởViệt Nam vẫn còn tương đối lạ lẫm, gần đây mới được đưa vào giảng dạy. Việc dạy học hai thể thơ này đối với giáo viên luôn là một công việc hay mà khó. Cấu trúc chương trình Ngữ văn trên cơ sở kết hợp trục lịch sử văn học và trục thể loại theo định hướng vận dụng nguyên tắc tích hợp và mở rộng tri thức “cửa sổ văn hóa”, thơ Đường luật (Việt Nam) – Thơ Đường (Trung Quốc) và thơ Haiku (Nhật Bản) được đặt bên cạnh nhau. Với đề tài này, chúng tôi hy vọng góp phần giúp dạy học tốt hơn thơ tuyệt cú và haiku nói riêng, thơ cổ điển phương Đông nói chung trong nhà trường, khi tiếp cận văn bản, ngoài tính chỉnh thể tác phẩm như một sinh mệnh trọn vẹn, phần nào có ý thức về sự tương đồng loại hình, quan hệ ảnh hưởng văn học và cả sự khác biệt ở tính cách bản sắc dân tộc. Nghiên cứu – so sánh tuyệt cú và haiku trong bối cảnh thế giới hội nhập ngày nay cũng là tìm hiểu thêm về hai quốc gia – hai nền văn hóa Trung Hoa và Nhật Bản – cũng như sức sống của thơ ca qua những bờ cõi và giới hạn, đồng vọng tiếng lòng nhân loại trong một tiếng nói chung. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Với vẻ đẹp đặc trưng của thể loại, có thể nói tuyệt cú và haiku từ lâu đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Ở đây chúng tôi khảo sát lịch sử nghiên cứu tuyệt cú và haiku chủ yếu dựa trên các mảng tư liệu sau: 2.1 Ở mảng tài liệu tiếng Việt Chưa đi sâu và cụ thể vào hình thức thể loại thơ, xét trên trục lịch sử và văn hóa “đồng văn” Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, Vĩnh Sính – giáo sư 3 đại học Alberta, Canada cho rằng: “Thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc: đề kháng xâm lăng quân sự và chấp nhận khuôn mẫu văn hóa” [101, tr.19]; còn “thái độ của Nhật Bản đối với Trung Quốc: kính nể hoặc phủ nhận văn hóa Trung Hoa” [101, tr.27]. Từ định hướng mang tính gợi ý đó, có thể nghĩ về những mối quan hệ tương tác – song hành nghệ thuật ngôn từ thi ca (chữ Hán – chữ Nôm – chữ Kana), hình thức thể loại (tuyệt cú – tứ tuyệt – haiku) vai trò và sự ảnh hưởng thơ ca (Đường thi – thơ chữ Hán và thơ Nôm Đường luật – thơ haiku)… Tuyệt cú song hành cùng với chiều dài truyền thống văn học Việt Nam hàng ngàn năm, vì vậy đã được biết đến từ rất lâu, còn haiku mãi đến đầu thế kỷ XX mới được biết đến. Và cũng phải mất một khoảng thời gian khá dài để thể thơ này trở nên gần gũi hơn với tâm thức văn hóa Việt Nam, đến cuối thế kỷ XX những nét tương đồng giữa tuyệt cú và haiku mới được một số nhà nghiên cứu nhận ra và bước đầu có những so sánh trên những nét cơ bản. Nhưng sự so sánh thường diễn ra khi tác giả đi vào tìm hiểu một thể thơ. Khi đi vào nghiên cứu cụ thể một thể thơ, các tác giả thường nhớ đến thể thơ còn lại và thao tác so sánh được sử dụng trong trường hợp này nhằm làm sáng tỏ một luận điểm nhất định. Ở đây xảy ra hai khuynh hướng: - So sánh tuyệt cú với haiku nhằm làm nổi bật đặc điểm của tuyệt cú. Tiêu biểu cho hướng đi này là các công trình nghiên cứu của Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Kim Châu… Trong luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường (1995), đã được xuất bản thành sách, Nguyễn Sĩ Đại nhắc đến những kiểu thơ ngắn, trong đó “Về thơ ba câu, ta thấy có thơ hai-cư Nhật Bản nổi tiếng” [18, tr.38]. Tác giả đi đến kết luận “Kiểu tổ chức bốn câu của thơ là phổ biến nhất […] thuộc hàng ưu việt nhất và có tính ổn định cao” [18, tr.38] và “thơ tứ tuyệt mạnh hơn thơ hai câu, ba câu, thơ ngũ ngôn, thất ngôn, mạnh hơn thơ tứ ngôn, tam ngôn là chỗ có dư 4 địa để cho đôi cánh của trí tưởng tượng sáng tạo bay lên, cho làn sóng xúc cảm lan tỏa”[18, tr. 44]. Sự so sánh này nhằm chỉ ra vẻ đẹp của tuyệt cú nên ít nhiều có tính chất phiến diện, bởi không thể đơn thuần cho rằng tuyệt cú có nhiều “dư địa” hơn haiku. Cũng với sự liên hệ giữa các thể loại thơ ngắn, nhưng trong luận án Tiến sĩ Ngữ văn Thơ tứ tuyệt trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX (2001), Nguyễn Kim Châu đã có cái nhìn tương đối khách quan hơn khi nhận xét “Các hình thái thơ ngắn không xa lạ với thơ ca cổ điển phương Đông” [8, tr.30] và đặt tuyệt cú trong mối liên hệ với các thể thơ sijo, tanka, haiku. Tác giả so sánh tuyệt cú với các hình thái thơ ngắn của văn học cổ điển Nhật Bản và đặt ra vấn đề: “Phải chăng số câu lẻ và tổng số chữ lẻ trong các hình thái thơ ngắn phổ biến của người Nhật Bản gợi cảm giác về những lời nói bỏ lửng, chưa trọn ý và lựa chọn giải pháp đánh dấu khoảng dư địa của những điều không thể nói đó bằng cách cố tình không sử dụng đặc điểm cân đối, hoàn hảo thường thấy ở những kiến trúc bài thơ có tổng số câu chẵn và tổng số chữ chẵn?” [8, tr.40]. Như vậy, tác giả đã chỉ ra được những điểm giống và khác nhau cơ bản của hai thể loại cùng thuộc về loại hình thơ ca cổ điển phương Đông. - So sánh haiku với tuyệt cú để làm nổi bật đặc điểm của haiku. Nhật Chiêu trong Basho và thơ haiku khi nói đến tính chất hàm súc của thơ haiku đã có điểm qua tuyệt cú: “Thơ ca Á Đông nói chung là cô đọng với các hình thức ngắn gọn của haiku, tanka, tứ tuyệt […] Haiku tiêu biểu cho phong cách Đông phương hơn cả, cô đọng, ý ở ngoài lời” [9, tr.53]. Các tác giả Haiku Hoa thời gian thì nhận xét: “trong khi tứ tuyệt chững chạc bốn chân cân xứng, đường bệ thì haiku trụ vững trên ba chân chông chênh không đều nhau như là một khiếm khuyết, nhưng lại toàn vẹn như giọt nước bé nhỏ ôm gọn cả vũ trụ bao la” [36, tr.35]. 5 Dù theo hướng đi nào thì các tác giả đều nhận ra nét chung và nổi bật của hai thể loại thơ tuyệt cú và haiku ở chỗ nó đều là những thể thơ ngắn và hội tụ tiêu biểu vẻ đẹp thơ cổ điển phương Đông. Nhưng so sánh không bình đẳng thường khó đảm bảo tính khách quan và không làm rõ được đặc điểm loại hình của hai thể thơ độc đáo này. Dưới góc độ văn học so sánh, một số công trình nghiên cứu đã có cái nhìn tương đối toàn diện hơn dưới nhiều hướng khác nhau: - So sánh thể loại: Trước hết có thể kể đến bài viết “Phác thảo những nét tương đồng và dị biệt của ba thể thơ: tuyệt cú, haiku và lục bát” của Nguyễn Thị Bích Hải. Tác giả nhận xét rằng: “Ba thể thơ tuyệt cú, haiku và lục bát đều là thể thơ cách luật ngắn nhất trong văn học dân tộc của Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam” [85, tr.221], từ đó chỉ ra những điểm giống nhau và gần gũi khác, như hình thành từ văn học dân gian, là thơ trữ tình, hàm súc cao độ, trọng tâm ý nghĩa nằm ở câu cuối, dễ làm nhưng khó cho được hay. Nhà nghiên cứu cũng bước đầu chỉ ra sự khác nhau giữa ba thể thơ về con đường định hình cũng như ảnh hưởng đối với thơ ca nước ngoài. Có thể nói, trong một bài viết khá gọn gàng, tác giả đã có những nhận định ban đầu mang tính chất gợi ý để người đọc tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về những thể thơ độc đáo của thơ ca phương Đông. Bài viết “Những nét tương đồng và dị biệt của thơ sijo (Hàn Quốc) và thơ haiku (Nhật Bản) – nhìn từ đặc trưng thể loại” của Hà Văn Lưỡng cũng cho chúng ta cái nhìn so sánh đối với các thể thơ ca cổ điển này. Trong đó tác giả nhìn nhận sự giống nhau giữa các thể thơ cổ điển phương Đông về các phương diện “cô đúc, ngắn gọn”, “bố cục chặt chẽ”, “trọng tâm ý nghĩa thường nằm ở câu cuối” [57, tr.52]. Trong Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quốc, Đinh Phan Cẩm Vân cũng chỉ ra những nét gặp gỡ và khác biệt của tuyệt cú và haiku “Thể haiku của Nhật Bản cực ngắn có tính chất khơi gợi 6 […]. Tứ tuyệt cũng rất ngắn, với ngũ tuyệt mỗi bài thơ chỉ 20 chữ”. Tác giả cũng chỉ ra đặc điểm loại hình của thể loại: “Haiku, tứ tuyệt hay luật thi đều là sản phẩm của tư duy phương Đông. Từ cái hữu hình nhằm khơi gợi cái vô hình. Cái vô hình, trừu tượng lại nhằm giải thích cái hữu hình, cụ thể. Phương Đông không có hứng thú nói trực tiếp mà nói theo lối gián tiếp, hoặc nói một phần, để lại dư địa cho người đọc” [100, tr.32]. Như vậy, mặc dù chưa bàn thật sâu những điểm dị đồng của các thể loại thơ ca cổ điển phương Đông nhưng các tác giả đã cho ta thấy những đặc điểm tiêu biểu của chúng là sự hàm súc và khơi gợi. - So sánh loại hình tác gia: tiêu biểu là các bài viết “Basho (1644-1694) và Huyền Quang (1254-1334) - Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mĩ” [37] của Lê Từ Hiển, “Vương Duy và Matsuo Basho - loại hình thi tăng của khu vực văn hóa Phật giáo” [45] của Trần Thị Thu Hương. Các tác giả tìm thấy vẻ đẹp của mĩ học Thiền trong thơ ca của các tác giả, phần nào bộc lộ qua thể loại - “tứ tuyệt rất gần gũi với hai-kư về sự ngắn gọn, tính hàm súc, đa nghĩa”, “kết cấu chân không” thể hiện qua “hình thức cực tiểu” của tuyệt cú và haiku … - So sánh loại hình thơ Thiền: tiêu biểu là Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIX của Đoàn Thị Thu Vân, “Ba dòng thơ tiêu biểu phương Đông: thơ Thiền Việt Nam, Đường thi Trung Hoa và Haiku của Nhật” của Thái Tú Hạp… Nếu Thái Tú Hạp chủ yếu chỉ ra tinh thần của ba dòng thơ này là “con người hòa nhập với thiên nhiên, với vũ trụ nhất thể” thì Đoàn Thị Thu Vân cụ thể hơn khi triển khai so sánh cảm thức Thiền, tính trực cảm, gợi mở, hình ảnh thiên nhiên… trong đó sự khác nhau giữa tuyệt cú và haiku cũng đã được đề cập đến: Thơ Thiền Lý Trần đa số là những bài tứ tuyệt Đường luật. Hình thức này mang tính cân đối hoàn chỉnh. Có cái “ý tại ngôn ngoại” 7 nhưng bản thân nó cũng đã là đầy đủ. Còn thơ haiku với 17 âm tiết chia làm 3 dòng dài ngắn khác nhau. Không có cái vẻ cân đối đều đặn của sự gia công trau chuốt bởi bàn tay người như thơ Đường luật nhưng lại mang được cái tự nhiên của sự sống. Và chính hình thức này đã tạo cho người đọc bài thơ có cảm giác về một sự còn thiếu, như bức tranh đang vẽ dở chừng, bài thơ còn muốn viết tiếp. Cảm giác thiếu vắng này tạo một sức gợi vô cùng mạnh mẽ và thu hút người đọc tham gia quá trình sáng tạo [101, tr179-180]. Tác giả đã tinh tế chỉ ra được sự khác nhau giữa tính cân đối và tính thiếu vắng, sự trau chuốt và tính tự nhiên giữa hai thể thơ này. Tuy nhiên, bởi vì diện so sánh của tác giả là bao quát cả loại hình thơ Thiền nên không hướng đến tập trung so sánh hai thể loại. Như vậy, mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu nhận ra những nét tương đồng và dị biệt giữa hai thể loại thơ ca tiêu biểu cho thơ ca Á Đông, nhưng những so sánh chỉ dừng lại ở mức điểm qua hoặc bước đầu mà chưa tập trung đi vào phân tích thấu đáo. Trên cơ sở những gợi ý của các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi triển khai luận án nhằm hướng đến một sự so sánh công phu hơn hai thể loại thơ ca độc đáo này. 2.2 Ở mảng tài liệu tiếng Trung Quốc: Văn học so sánh ở Trung Quốc có một bề dày lịch sử khá dày dặn – hơn trăm năm – vì vậy những vấn đề của văn học so sánh được quan tâm, trong đó có việc so sánh văn học Trung Hoa với thế giới, trong đó có Nhật Bản. Cùng với việc so sánh song song hai nền văn học là tìm hiểu giao lưu ảnh hưởng qua lại trên tất cả các phương diện: văn học dân gian, tiểu thuyết, tản văn, thơ ca… Và nhắc đến thơ ca không thể bỏ qua hai thể loại thơ tiêu biểu của dân tộc là tuyệt cú và haiku. 8 Năm 1984, trong bộ Tỷ giảo văn học nghiên cứu tùng thư 比比比比比比比比 của Đại học Bắc Kinh, quyển Tỉ giảo văn học luận văn tập 比比比比比比比 [142] do Trương Long Khê – Ôn Nho Mẫn biên tuyển có bài viết “Trung Nhật đích tự nhiên thi quan” của Lâm Lâm, trong đó tìm hiểu ảnh hưởng của Trung Hoa đến Nhật Bản trong cái nhìn đối với thế giới tự nhiên, trong đó có thơ haiku của Basho, Buson… Năm 1987, trong công trình Trung Nhật cổ đại văn học quan hệ sử khảo 中中中中中中中中中中 [119], Nghiêm Thiệu Đãng đã dành chương 2 để tìm hiểu hình thái văn học Hán trong loại thơ đoản ca, ông chỉ ra đoản ca là loại thơ thuần Nhật, đồng thời cũng phát hiện những ảnh hưởng của văn học Hán đối với thể loại thơ này. Cũng Nghiêm Thiệu Đãng trong công trình Trung Quốc văn học tại Nhật Bản 中中中中中中中 [120] viết chung với Vương Hiểu Bình xuất bản năm 1990, đã củng cố và mở rộng những vấn đề đã được đề cập trong cuốn sách trước, bàn đến “Ý nghĩa của văn học Trung Quốc trong sáng tác haikai của Matsuo Basho”. Ông nói đến mối liên hệ giữa haiku của Basho với thơ ca Trung Hoa, đặc biệt là thơ Đường, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đỗ Phủ, Lý Bạch… Tuy nhiên, dù so sánh song song hay tìm hiểu ảnh hưởng, thì tác giả cũng chỉ liên hệ đến thơ ca Trung Hoa chứ chưa xét riêng đến thể loại tuyệt cú. Năm 1996, trong công trình Thất thập âm đích thế giới: Nhật Bản bài cú 中中中中中中—中中中中 [122], tác giả Mã Hưng Quốc cũng dành một chương để khảo sát “Bài cú dữ Trung Quốc”. Công trình có một bước phát triển mới so với các công trình của họ Nghiêm ở chỗ tác giả không chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với haiku mà còn tìm hiểu theo chiều ngược lại, đó là haiku tại Trung Quốc. Tuy nhiên, sự so sánh chủ yếu tìm hiểu trên phương diện nội dung, và tuyệt cú vẫn chưa được liên hệ so sánh. Trịnh 9 Dân Khâm với Nhật Bản bài cú sử 中中中中中(2000) [136] cũng tìm hiểu mối quan hệ “Bài cú dữ Hán thi”, mà chưa đề cập đến thể loại tuyệt cú. Trong Đông phương cổ điển mĩ: Trung Nhật truyền thống thẩm mĩ ý thức tỉ giảo 中中中中中中中中中中中中中中中中(2002) [137], trên sự so sánh rộng về mặt tư tưởng, ý thức thẩm mĩ, Khương Văn Thanh đã lưu tâm đến haiku trong dòng chảy của thơ ca từ khởi nguyên. Nhưng khi so sánh, Khương Văn Thanh đã lựa chọn hòa ca với tuyệt cú như là hai thể loại thơ ca tiêu biểu của hai dân tộc, mặc dù ông chỉ ra: “hòa ca đã nhỏ bé, haiku lại càng nhỏ bé hơn” [137, tr.211]. Tác giả đã vận dụng lý thuyết văn bản của Roman Ingarden để so sánh hai thể loại thơ ca, từ đó chỉ ra: Vẻ đẹp mang tính đa dạng của âm vận, truyền đạt ý tượng đa dạng phong phú, ý cảnh cấu tứ hoàn chỉnh, hình thành nên ý vị sâu xa, đây là đặc tính nghệ thuật của kết cấu văn thể thơ ca cổ điển Trung Quốc biểu hiện qua tuyệt cú đời Đường; vẻ đẹp bình hòa tự do của âm vận, đơn thuần giản đạm của ý tượng, tính chất tương đối thoải mái tự do, để càng nhiều khoảng trống cho tưởng tượng thể nghiệm, đây là đặc tính nghệ thuật của kết cấu văn thể thơ ca cổ điển Nhật Bản thể hiện qua đoản ca. Điểm tương đồng là đều theo đuổi tính trữ tình của tình cảnh giao dung, điểm khác biệt là khi trữ tình biểu hiện hoặc kín đáo hoặc trực tiếp [137, tr.238]. Có thể nói, trong một sự phạm vi so sánh ngắn, tác giả đã đưa ra được nhiều kiến giải quan trọng, từ đó cho chúng tôi nhiều gợi ý quý báu. Công trình nghiên cứu có ý thức so sánh tuyệt cú và haiku có thể kể đến là Đường tuyệt cú sử 中中中中(1987) [139] của Chu Khiếu Thiên. Trong khi nghiên cứu ngũ ngôn tuyệt cú của Vương Duy, ông đã nhận thấy với haiku có những điểm tương đồng: thể thơ nhỏ bé, dung hợp họa ý với triết lý, thủ pháp tượng trưng, lời ngắn ý dài. Mặc dù tác giả chưa đi sâu phân tích so sánh hai 10 thể thơ mà chỉ dừng lại ở những nhận xét mang tính cảm nhận ban đầu nhưng có thể nói, đây là những phát hiện quan trọng mang tính gợi ý trong việc so sánh hai thể loại thơ ca tiêu biểu nhất của hai dân tộc. Ngoài ra còn có những bài nghiên cứu trên báo – tạp chí viết về ảnh hưởng của thơ ca cổ điển Trung Hoa đến thơ haiku. Trong đó có thể kể đến “Tòng Hán thi dữ bài cú đích tỉ giảo khán Trung Nhật văn hóa chi dị đồng” “从从从从从从从从从从从从从从从从从”[131] của Khưu Minh. Khưu Minh đã so sánh sự khác biệt giữa Hán thi và bài cú để chỉ ra sự bất đồng về mặt văn hóa giữa Trung Hoa và Nhật Bản, giữa một bên xem trọng “lý và thiện” trong khi một bên lại đặt nặng “chân và tình”. Những đặc điểm cơ bản này cũng chính là sự khác biệt cơ bản giữa tuyệt cú và bài cú. Bài viết Phan Quý Dân – Điền Thiếu Úc “Bài cú dữ Đường nhân tuyệt cú đích ý cảnh mĩ – dĩ Ba Tiêu Tùng Vĩ dữ Vương Duy tác phẩm vi lệ” “从从从 从从从从从从从从从从从从从从从从从从从从从”(Khảo thí chu san, kỳ 18 – 2008) cũng đã có những nhận xét xác đáng về sự giống nhau giữa hai thể tài thơ ca này: Bài cú là một loại hình thức truyền thống vận văn học của Nhật Bản, cũng là một trong những thơ cách luật ngắn nhất trên thế giới, trong lịch sử văn học Nhật Bản chiếm địa vị mười phần trọng yếu. Ngũ ngôn tuyệt cú Đường thi cũng lấy nhỏ thấy lớn, lấy ít nói nhiều, có vận luật bằng trắc, lưu truyền rất rộng, đến nay vẫn được hậu nhân truyền tụng rộng rãi. Hai loại thể thơ này, đều đối với đời sau ảnh hưởng sâu xa, trong văn học sử hai nước đều thực sự có địa vị nổi bật mười phần quan trọng, đặc biệt đều có câu chữ giản đoản, truyền đạt ý cảnh sâu sắc thâm u [129, tr.42]. Từ đó các tác giả đi vào so sánh tuyệt cú và haiku về phương diện ý cảnh với những vẻ đẹp tịch tĩnh, dư tình, tinh tế, cũng như vẻ đẹp “không”, “hư”, tuy nhiên trong khuôn khổ một bài viết khoảng hai trang, các tác giả chỉ 11 dừng lại ở mức độ bước đầu cảm nhận cùng so sánh một cách giản lược chứ chưa thực sự đi vào phân tích vẻ đẹp ý cảnh của hai tác gia rất tiêu biểu cho thơ tuyệt cú và haiku này. Sau đó bài viết của Chu Kiến Bình “Vương Duy sơn thủy thi dữ Ba Tiêu bài cú chi tỉ giảo – dĩ Thiền Đạo tư tưởng ảnh hưởng vi trung tâm” “从从从 从从从从从从从从从从从从-从从从从从从从从从从”(Từ Châu công trình học viện học báo, kỳ quyển 24, kỳ 6 – 2009) đã tiếp tục so sánh thơ Vương Duy với Basho. Tác giả chỉ ra: Vương Duy đem ý cảnh Thiền dung nhập vào thơ sơn thủy của ông, hình thành nên tình thú thẩm mĩ đặc sắc. Cũng như vậy, thơ quan hệ giữa thơ bài cú của Basho với Thiền cũng vô cùng mật thiết, nhưng so với những tác phẩm thơ tràn đầy Thiền vị của Trung Quốc, nó càng nghiêng về bình đạm, phác thực, thuận theo tự nhiên [133, tr.33]. Tác giả đánh giá thơ Vương Duy và Basho đều đạt đến cảnh giới của nhàn tịch, u huyền, tuy vậy lại cho rằng bởi Vương Duy sống trong thời đại cực thịnh nên thơ ca mang âm hưởng nhàn nhã lạc quan, trong khi Basho trải nghiệm cuộc sống bần cùng nên thơ ca mang khí vị lạnh lẽo. Người viết không nghĩ rằng khí vị lạnh lẽo trong thơ ca của Basho là bởi vì ông trải qua cuộc đời nghèo túng, mà nó nằm trong truyền thống thẩm mĩ Nhật Bản nghiêng về vẻ đẹp u buồn, một bi cảm aware xuyên thấm trong nền văn học. Mặc dù chưa có điều kiện trực tiếp tham khảo những công trình nghiên cứu so sánh bằng tiếng Nhật, nhưng một số công trình văn học so sánh bằng tiếng Trung có sự tham gia của các học giả Nhật Bản đã hé mở cho chúng tôi cách nhìn nhận từ phía Nhật Bản về mối quan hệ giữa hai nền thơ ca này. Năm 1988, cuốn Trung ngoại tỉ giảo văn học dịch văn tập 中中中中中中中中 中 [140] do Châu Phát Tường biên soạn đã tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và thế giới, trong đó có các bài của các nhà nghiên 12 cứu Nhật Bản tìm hiểu so sánh thơ ca Trung Quốc và Nhật Bản như “Chính trị tính dữ trữ tình tính – Trung Nhật thi ca sáng tác đích tỉ giảo” của Linh Mộc Tu Thứ (Suzuki Shuji), “Ba Tiêu dữ Đường Tống thi” của Tiểu Tây Thậm Nhất (Konishi Jinichi). Nếu như Linh Mộc Tu Thứ tìm hiểu hai đặc trưng riêng biệt của văn học Trung Quốc và văn học Nhật Bản thể hiện qua thơ ca thì Tiếu Tây Thậm Nhất chỉ ra Basho đã tiếp nhận thơ ca Đường Tống từ đó hình thành phong cách haiku của mình. Năm 1996, trong bộ sách công phu Trung Nhật văn hóa giao lưu sử đại hệ, quyển 6 – văn học quyển 中中中中中中中中中 - 中中中 [121] – có sự tham gia của các nhà nghiên cứu từ hai phía Trung Quốc và Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nhật Bản Nakanishi Susumu đã viết chương 2 của cuốn sách “Nhật Trung thi ca đích bản thể dữ hình thái cập kỳ nghiên cứu tỉ giảo”, có sự mở rộng so sánh không chỉ Hòa ca và Hán thi mà còn tìm hiểu mối quan hệ giữa Bài cú và Hán thi, đồng thời tìm hiểu Hòa ca và bài cú tại Trung Quốc giao lưu và ảnh hưởng. Đây là một nghiên cứu bổ ích và công phu, từ đó ta có được cái nhìn đa chiều trong so sánh văn học chứ không đơn thuần nhìn từ một phía. Nhìn chung, từ mảng tư liệu tiếng Trung, có thể nhận thấy các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng như Nhật Bản đã quan tâm so sánh thơ ca giữa hai quốc gia trên các phương diện nội dung và nghệ thuật để tìm ra những ảnh hưởng cũng như dị đồng, trong đó haiku thường được tìm hiểu trong mối quan hệ với Hán thi. Sự tương đồng – dị biệt giữa hai thể loại tuyệt cú – haiku cũng đã được một số nhà nghiên cứu lưu ý, tuy nhiên vẫn còn sơ lược, vẫn chưa có một công trình nào thực hiện so sánh tuyệt cú và haiku cụ thể và có hệ thống. 2.3 Ở mảng tài liệu tiếng Anh Thơ ca cổ điển phương Đông – bao gồm cả tuyệt cú và haiku – từ lâu đã khơi được niềm ngạc nhiên, hứng thú và say mê của các nhà nghiên cứu Tải về bản full So sánh kết cấu hư không trong thơ Haiku và đặc tính ý tại ngôn ngoại trong thơ tuyệt cú đời ĐườngThơ Haiku và thơ tuyệt cú đời Đường tuy là những thể thơ ngắn nhất thế giới, nhưng đó chính là sự thăng hoa của cảm xúc và chiều sâu tư tưởng trong sáng tạo nghệ thuật độc đáo, chúng thực sự đã trở thành những viên ngọc vô giá trong kho tàng văn chương nhân loại. Nhìn trong mối tương quan về mặt thể loại xét trên các bình diện, chúng tôi nhận thấy thơ Haiku và Thơ tuyệt cú có nhiều nét tương đồng nhưng cũng có nhiều sự khác biệt. | TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ SO SÁNH KẾT CẤU HƯ KHÔNG TRONG THƠ HAIKU VÀ ĐẶC TÍNH TRONG THƠ TUYỆT CÚ ĐỜI ĐƢỜNG Nguyễn Thị Thanh Nga1 TÓM TẮT Thơ Haiku và thơ tuyệt cú đời Đường tuy là những thể thơ ngắn nhất thế giới, nhưng đó chính là sự thăng hoa của cảm xúc và chiều sâu tư tưởng trong sáng tạo nghệ thuật độc đáo, chúng thực sự đã trở thành những viên ngọc vô giá trong kho tàng văn chương nhân loại. Nhìn trong mối tương quan về mặt thể loại xét trên các bình diện, chúng tôi nhận thấy thơ Haiku và Thơ tuyệt cú có nhiều nét tương đồng nhưng cũng có nhiều sự khác biệt. Kết cấu hư không trong thơ Haiku và đặc tính ý tại ngôn ngoại trong thơ tuyệt cú có thể xem là những nét đặc trưng nghệ thuật nổi bật đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho mỗi thể thơ này. Từ khóa: Thơ Haiku, Thơ tuyệt cú đời Đường, kết cấu hư không, ý tại ngôn ngoại. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thơ Haiku của Nhật Bản và thơ tuyệt cú đời Đƣờng có nhiều tƣơng đồng và dị biệt về mặt thi pháp. Tuy nhiên, thật khó để chỉ ra một cách rạch ròi, cụ thể bởi vì trong sự tƣơng đồng đã xuất hiện những điểm khác biệt và giao thoa với nhau. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi thông qua việc tìm hiểu những biểu hiện cụ thể về ngôn từ và kết cấu độc đáo ở mỗi thể loại nhằm nêu ra những điểm giống và khác nhau trong kết cấu hư không của thơ Haiku và đặc tính hàm súc, “ý tại ngôn ngoại” trong thơ tuyệt cú đời Đƣờng. 2. NỘI DUNG . Điểm tƣơng đồng Ngôn từ hàm súc cao độ chính là điểm tƣơng đồng cơ bản nhất của thơ Haiku và thơ tuyệt cú đời Đƣờng. Điều này tồn tại nhƣ một lẽ đƣơng nhiên và là lý do tồn tại của thể thơ. Bởi vì chúng rất ngắn, nếu chúng không có khả năng ngụ ý và gợi ý thì chúng đã chẳng có sức sống lâu bền đến thế. Đây chính là đặc trƣng nổi bật về kết cấu của 2 thể loại thơ, chính đặc trƣng này đã tạo ra những khoảng trống để ngƣời đọc có thể bƣớc vào, làm chủ thế giới bài thơ tạo ra. Những khoảng hƣ không trong thơ Haiku là lời mời gọi tri âm đồng sáng tạo của độc giả, cũng nhƣ thế .Diễm Thúy 402 7 pdf Báo lỗi Upload Tải xuống
đang nạp các trang xem trước Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống Tải xuống TÀI LIỆU LIÊN QUAN Nhạc tính trong thơ haiku của Matsuo Basho10 285 9 Nét độc đáo của thơ haiku7 120 6 Con người cô đơn trong thơ Haiku7 89 5 So sánh kết cấu hư không trong thơ Haiku và đặc tính ý tại ngôn ngoại trong thơ tuyệt cú đời Đường7 401 12 Thơ haiku của Masuo Basho8 108 3 Đề tài " Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho "85 226 13 Nỗi ám ảnh của những cái bóng trong tập thơ Haiku chấm hoa vàng của Hà Thiên Sơn - Trần Xuân Tiến8 92 0 Nỗi ám ảnh của những cái bóng trong tập thơ Haiku Chấm hoa vàng của Hà Thiên Sơn8 60 0 Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đạm trong Tuyệt cú của Vương Duy và Wabi trong Haiku của Basho71 120 6 Thơ Haiku Nhật Bản trong chương trình ngữ văn trung học phổ thông6 349 12 TÀI LIỆU XEM NHIỀU Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh13 28936 1360 Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”3 18404 191 31 Câu hỏi ôn tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học25 16717 3452 Tiểu luận Tình huống xử lý sai phạm trong thanh toán công tác phí lưu động20 15115 1372 Tiểu luận: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam16 13130 2129 100 câu hỏi trắc nghiệm Triết học Mác-Lênin kèm đáp án14 13127 2406 Ebook Ôn luyện tiếng Anh 9 có đáp án: Phần 2 - Mai Lan Hương, Hà Thanh Uyên37 12143 2720 Đề thi và Đáp án môn Tiếng Việt thực hành - ĐH SPKT TP.HCM3 9431 182 Mẫu đơn thông tin ứng viên ngân hàng VIB8 9303 1716 Bảng biến đổi Laplace và biến đổi Z1 9120 334 TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn Kiên Long chi nhánh Phú Yên97 52 1 03-02-2022 Bài giảng môn Tiếng Việt lớp 3 năm học 2020-2021 - Tuần 5: Tập đọc Cuộc họp của chữ viết (Trường Tiểu học Thạch Bàn B)13 5 1 03-02-2022 Luận án Tiến sĩ Luật học: Lý luận và thực tiễn về bảo hộ đầu tư theo các hiệp định về đầu tư của Asean trong giai đoạn hiện nay194 78 8 03-02-2022 Đề thi học kì 2 môn Toán lớp 9 năm 2020-2021 - Phòng GD&ĐT Quận Hà Đông1 45 1 03-02-2022 Giáo trình Thực tập Đo lường điện lạnh (Nghề: Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa không khí - Cao đẳng) - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ81 18 2 03-02-2022 Khảo sát tình trạng vữa xơ động mạch đùi bằng siêu âm Doppler mạch ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu7 20 1 03-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”130 32 1 03-02-2022 Positioning entomopathogenic nematodes for the future viticulture: exploring their use against biotic threats and as bioindicators of soil health12 12 1 03-02-2022 Morphogenesis of immature female inflorescences of date palm in vitro8 14 1 03-02-2022 Giáo án điện tử môn Tiếng Việt lớp 3 - Tuần 19: Chính tả Hai Bà Trưng8 5 1 03-02-2022 Đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Toán lớp 6 năm 2021-2022 - Trường THCS Lương Thế Vinh1 37 1 03-02-2022 Bài giảng Toán cao cấp 2 (Đại số tuyến tính) - Đỗ Phi Nga148 24 1 03-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu cố định bạc kim loại kích thước nanomet trên bề mặt than hoạt tính làm vật liệu tiệt trùng nước67 47 1 03-02-2022 Nhân vật phụ nữ trong Sông Đông êm đềm của M. Sôlôkhôp6 43 1 03-02-2022 Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao theo pháp luật Việt Nam8 30 1 03-02-2022 Bài giảng Điều trị CMV trước sinh tại Bệnh viện Từ Dũ31 20 1 03-02-2022 Effect of zinc on phytoremediation potential and carbonic anhydrase and polyphenol oxidase activities of Lythrum salicaria L.10 12 1 03-02-2022 Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng công nghệ tin học và máy toàn đạc điện tử trong công tác thành lập bản đồ địa chính tờ số 28 tỉ lệ 1:1000 phường Bách Quang - thành phố Sông công - tỉnh Thái Nguyên83 11 1 03-02-2022 Biofidelic finite element modelling of brain trauma: Importance of the scalp in simulating head impact13 14 1 03-02-2022 Pediatric supraglottic airway devices in clinical practice: A prospective observational study8 13 1 03-02-2022 TÀI LIỆU HOT Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”3 18404 191 Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh13 28936 1360 CẬP NHẬT KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM 6 tháng đầu năm 20203 1255 72 Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020580 3347 333 Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ584 1720 66 BÀI GIẢNG DỰNG HÌNH SKETCHUP 2020 BIÊN SOẠN : GV.KTS PHAN THỨC62 3972 1 GIÁO TRÌNH TIẾNG ANH ENG BREAKING171 3567 592 Quản trị khủng hoảng trong quan hệ công chúng2 1517 69 Báo cáo thực tập chuyên ngành: Nghiên cứu, thiết kế, mô phỏng robot công nghiệp51 2048 129 Đề tài “ Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện”53 2928 161 Địa chỉ : Số 38 Trần Thái Tông - Cầu Giấy - Hà nội - Việt Nam Website : tailieuxanh.com Email : TailieuXANH.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi hàng triệu tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi, truyện đọc.v.v.. Với kho tài liệu khủng lên đến hàng triệu tài liệu sẽ được miễn phí tới 99,99% cho các thành viên. Chúng tôi không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền nội dung tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên và các cộng tác viên gửi về. Từ khóa tìm kiếm: THỊ TRƯỜNG NGÀNH HÀNG | Nông nghiệp, thực phẩm | Gạo | Rau hoa quả | Nông sản khác | Sữa và sản phẩm | Thịt và sản phẩm | Dầu thực vật | Thủy sản | Thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp | CÔNG NGHIỆP | Dệt may | Dược phẩm, Thiết bị y tế | Máy móc, thiết bị, phụ tùng | Nhựa - Hóa chất | Phân bón | Sản phẩm gỗ, Hàng thủ công mỹ nghệ | Sắt, thép | Ô tô và linh kiện | Xăng dầu | DỊCH VỤ | Logistics | Tài chính-Ngân hàng | NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG | Hoa Kỳ | Nhật Bản | Trung Quốc | Hàn Quốc | Châu Âu | ASEAN | BẢN TIN | Bản tin Thị trường hàng ngày | Bản tin Thị trường và dự báo tháng | Bản tin Thị trường giá cả vật tư | luận văn | giáo trình | luận văn | tiến sĩ | Luận văn | thạc sĩ | kế toán | kiểm toán | quản trị kinh doanh | kinh tế tài chính | ngân hàng | ngân hàng luận văn | kế toán | luận văn kinh tế | công nghệ thông tin | lập trình | quản trị | mạng hệ điều hành | toán học | hóa học | vật lý | công nghệ | văn học | kỹ năng mềm | đề thi | ebook | ngoại ngữ | tiếng pháp | tiếng hàn | tiếng nhật | tiếng nga | tiếng anh | luận văn | ngân hàng | tiểu luận | tiểu thuyết | truyện đọc | ngôn tình | tài liệu | Văn mẫu | Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này. Bấm nút này sau khi tắt/tạm dừng AdBlock Haiku - Lục bát: một vài ghi nhậnKhi nói tới văn chương Nhật Bản, người ta nghĩ ngay tới thơ Haiku, cũng như nhắc đến văn chương Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến thơ Lục bát. Haiku và Lục bát như là hai đôi mắt trên hai khuôn mặt văn chương Nhật -Việt. Người viết bài này muốn nhìn vào hai đôi mắt ấy và nói lên những cảm nhận của riêng mình. Giống nhau và khác nhau, Haiku và Lục bát có thể hé lộ điều gì với chúng ta về mỹ cảm của hai dân tộc Nhật- Việt? Tôi nhìn Haiku và Lục bát: Hai thể thơ có cấu trúc đặc biệt tinh gọn này luôn mời gọi ở tôi một tiếp xúc thị giác, dù Haiku và Lục bát không là thơ thị giác. Xin hãy cùng tôi nhìn lên trang giấy này và ghi nhận những ấn tượng mà văn bản mang đến. Chỉ là hai mẫu ngẫu nhiên mà thôi: 古池や Furu ike ya Ao cũ 蛙飛び込む Kawazu tobikomu con ếch nhảy vào 水の音 Mizu no oto vang tiếng nước xao (Bashô) (Nhật Chiêu dịch) Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (Ca dao) Nhìn một bài Haiku (nguyên bản tiếng Nhật) tôi liên tưởng đến một chiếc lá rơi yên trên trang giấy. Kết cấu 5-7-5 [[i]] là một cặp ba (triangle), cho tôi hình ảnh về một khối góc, gọn, nhọn sắc và là biểu tượng của cái lẻ, so lệch, dang dở. Nhìn một bài Lục bát, tôi nghĩ đến một giòng sông duỗi ra, tràn trề, chuyển động. Kết cấu 6-8 là một cặp đôi (couple), cho tôi ý nghĩ về một sự sóng đôi, hài hòa và là biểu tượng của cái chẵn và sự khắn khít, hoàn kết (cấu trúc hình thể). Tôi đọc to Haiku và Lục bát: Tama arare Trăm năm trong cõi người ta yotaka wa tsuki ni Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau kaeru meri Trải qua một cuộc bể dâu (Issa) Những điều trông thấy mà đau đớn lòng Mưa tuyết-không ai ………………………… gái đêm về ngủ (Nguyễn Du, Truyện Kiều) với vầng trăng phai (Nhật Chiêu dịch) Haiku chỉ tựa trên một thanh duy nhất (thanh ngang), khước từ thủ pháp (không đối, không vần, nhịp điệu rất thoáng, ngắt nhẹ ở các âm và dừng một tí ở cuối mỗi câu); cuối câu, các nguyên âm tạo nên một độ mở, nhẹ, tạo sắc thái lửng lơ, chơi vơi, đặc biệt là câu cuối. Sự gắn kết giữa các từ và các câu, về hình thức, có cảm giác là lỏng lẻo, ngẫu nhiên. Là cấu trúc âm thanh, Haiku như một tiếng vang trong, ngân dài. Lục bát, là đại tiệc của âm thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng); là kết hợp của nhiều thủ pháp tu từ (đối âm, đối nghĩa, lặp, vần, vần yêu, và vần cước, các ngắt câu linh hoạt nhưng rõ). Sự gắn kết của các từ và các câu, về hình thức, rất chặt chẽ. Là cấu trúc âm thanh, Lục bát như một lời ca, dạt dào âm điệu, luyến láy, lả lướt trong nhịp lượn của sóng và gió. Tôi đọc thầm Haiku và Lục bát và ghi nhận: 1. Những bài Haiku hầu hết không có tiêu đề, những bài Lục bát ca dao cũng vậy. Nhưng từ khi là một thể loại trong văn học viết (truyện thơ và thơ), Lục bát luôn luôn có tiêu đề. 2. Ngôn từ trong Haiku và Lục bát, hầu hết là thuần phác, giản dị Không cầu kỳ, không tạo nên cú sốc từ việc lạ hóa ngôn từ, nhà thơ nắm bắt các hiện tượng cụ thể của vũ trụ và đời sống con người, thể hiện bằng hình ảnh, bằng sự kiện, bằng ý tưởng, bằng cảm xúc, một cách tự nhiên, mềm mại, dù đó vẫn là một “một ngôn ngữ đã mã hóa”. Haiku và Lục bát đã thanh lọc những tạp âm của tứ phương để giữ cho phương mình một chất liệu riêng, thuần khiết. 3. Trên chỗ đứng Duy tình, Haiku và Lục bát đã làm nên và phát triển truyền thống thơ ca Phương Đông, theo kiểu của mình Haiku, như tác phẩm của Bashô, thường để cho sự vật tự lên tiếng, với những đường nét tối giản. Cái tôi của người sáng tạo náu mình sau những ghi nhận đã tỉnh lược đi cảm xúc. Không tả, không kể, không so sánh, không liên kết, Haiku chỉ nói về sự vật, sự việc, cái đang xảy ra mà nhà thơ chú ý. Roland Barthes gọi đó là “Vết sướt của thời gian”. Như một nhát ảnh lưu lại khoảnh khắc, Haiku, theo nguyên tắc của nhiếp ảnh, làm ra một không gian in dấu những sự vật. Mà sự vật thì phải gắn với danh từ. Haiku, cũng như Tứ tuyệt, là thể thơ của danh từ [[ii]]. Tính tĩnh lặng, tính biểu tượng, tính đa nghĩa và độ vang của bài thơ, đều nằm ở bản chất của sự vật và đặc trưng của danh từ; và trong không gian của bài thơ, tất cả sẽ bừng nở theo nguyên tắc của kính vạn hoa nhờ tương tác của những sự vật, làm nên thi tứ. Haiku là trữ tình nén sâu, tối giản, thoáng nhẹ, đạm, trên nguyên tắc gợi, bút pháp của tượng trưng, siêu thực. Lục bát, như ca dao, như Truyện Kiều của Nguyễn Du và thơ hiện đại, dung hợp nhiều thủ pháp. Có thể là kể (Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau một giậu mồng tơi xanh rờn. Nguyễn Bính, Người hàng xóm), là tả (Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu, Huy Cận, Ngậm ngùi) là so sánh (Gái có chồng như gông đeo cổ/ Gái không chồng như phản gỗ long đanh), là liên kết (Nắng mưa là chuyện của trời/ Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng) là ẩn dụ (Bao giờ bến mới gặp đò/Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau…Nguyễn Bính, Tương tư), là hoán dụ (Đàn bà dễ có mấy tay/Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan Nguyễn Du, Truyện Kiều)…. Nhà thơ xuất hiện trong tác phẩm, như là nhân vật chính (trong ca dao và thơ trữ tình), luôn khát khao bộc lộ tâm trạng của mình, và dù chỉ có một câu, lục bát cũng muốn chạm vào số phận: Thân em như dải lụa đào/ Phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai (Ca dao). Lục bát thường là một cuộc ngoái nhìn hay là một giải tỏa những điều ấp ủ đã lâu về mình, về nhân thế. Vậy nên Lục bát là không gian động, ở đó các nhân vật đối thoại (Đêm qua mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì đào xin thưa/ Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào, Ca dao) hoặc độc thoại (Đêm qua ra đứng bờ ao/ Trông cá cá lặn, trông sao, sao mờ/ Buồn trông con nhện giăng tơ/ Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai…) hoặc kể về sự kiện (Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, Nguyễn Bính) hay tâm trạng (Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/Một người chín nhớ mười mong một người): ấy là không gian tự sự và không gian sân khấu. Đối đáp giao duyên là lý do xuất hiện của thể loại này, và là hình thức nguyên thủy của Lục bát- ca dao. Truyện Kiều là một truyện thơ, nhưng cũng là vở kịch dài. Để biểu hiện sự kiện và tâm trạng thì phải cần cả thực từ và hư từ, trong đó, hình như lượng từ biểu hiện cảm xúc chiếm tỷ lệ cao. Các nguyên tắc phối âm, hòa điệu, ngắt nhịp cũng tuân theo sắc thái của tâm trạng hơn là theo việc biểu hiện ý tưởng: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh (Nguyễn Du, Truyện Kiều) Không gian như có giây tơ Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu (Xuân Diệu, Chiều) Lục bát là trữ tình lai láng, dào dạt, nồng, trên nguyên tắc tả, bút pháp của lãng mạn. 4. Haiku trầm tư trong nhịp điệu của mùa, Lục bát soi mình trong thao thức của thế nhân Các nhà thơ Haiku là những hành giả, lữ nhân, mải miết trên hành trình đi tìm bản ngã và bản chất của đời với tâm thế trải nghiệm, tra vấn, lắng nghe vũ trụ: Mùi hoa mơ ơi/ con đường núi mọc/ bỗng nhiên mặt trời (Ume ga ka ni/ Notto hi no deru/ Yamaji kana, Basho) Trong Haiku, thiên nhiên được chạm nổi, là nhân vật chính thứ nhất, con người được chạm mờ, là nhân vật chính thứ hai: Tịch liêu/ thấu xuyên vào đá/ tiếng ve kêu. Dùng cái tĩnh của chữ và hình ảnh để lưu giữ cái động của vũ trụ, Haiku khắc họa thiên nhiên trong thời gian: mùa là chất liệu trung tâm của Haiku. Phải đâu chỉ Nhật Bản mới có mùa với lá hoa vạn vật diễm lệ huy hoàng? Từ xa xưa, lòng yêu và sự gắn bó với thiên nhiên của người Nhật đã rõ. Trong Vạn diệp tập, thiên nhiên là nhân vật chính, Trong Cổ kim tập, Tsurayuki nói về thiên nhiên trong mối quan hệ giữa con người và thi ca: “Từ trái tim con người như hạt giống, thơ ca Nhật Bản mọc lên và nảy nở thành vô số lá cây của ngôn từ (…) Khi nghe dạ oanh ca hát trong hoa và ếch nhái trong nước ca vang, ai lại không thấy là mọi sinh vật đều phát tiết thơ ca? Chính là thơ ca đã làm chuyển động đất trời, ngay cả quỷ thần vô hình cũng phải xuyến xao”. Đến Bashô, ông kêu gọi: “Hãy vượt qua man rợ mà đón nhận thiên nhiên và quay về với thiên nhiên” [iii]. Thiên nhiên, như vậy, không phải chỉ là cội nguồn, dưỡng chất của thơ ca mà còn là dưỡng chất của con người. Những cuộc đi không ngừng của Bashô và nhiều nhà thơ lữ nhân khác chính là những trải nghiệm để tiếp nhận nguồn sống ấy, rồi chia sẻ, qua Haiku các ngộ chứng của mình, trong khoảnh khắc bừng thức của tâm linh. Chất u huyền của Haiku nằm ở chiều sâu của tâm linh ấy [[iv]]. Cảm thức u huyền (yugen) với phương thức biểu hiện biểu tượng, liên tưởng, làm mùa trong thơ Haiku lung linh nhiều ý nghĩa. Là sự kết hợp hài hòa giữa cái tĩnh, cái cụ thể, cái nhỏ bé, hữu hạn (sự vật) và cái động, cái trừu tượng, cái lớn lao, vô cùng (thời gian). Là sự giao hòa giữa ngoại cảnh và nội tâm, giữa khách quan và chủ quan, giữa thực và mộng. Đặc điểm ấy đã được chuẩn bị từ thuở Haiku còn nằm trong Waka. Cái ranh giới chênh vênh lung linh là cảm giác mà bài thơ này mang lại trong những câu hỏi vừa trẻ thơ vừa lão thực, làm nên một đa giác nghĩa: Tsuki ya aranu Trăng ơi, trăng vẫn là? Haru ya mukashi no Mùa xuân không còn nữa Haru naranu Mùa xuân xưa xa Waga mi hitotsu wa Mà sao ta vẫn thế Moto no mi ni shite Vẫn cứ là thân ta? (Ariwara Narihira, bài số 747, trong Kokinshu, trích theo Nhật Chiêu, Ba nghìn thế giới thơm, tr. 74) Những phạm trù thẩm mỹ: u huyền (yugen), tịch (sabi), đà (wabi), ai (aware) được thể hiện trên một ý thức nhất quán và sắc nét trong Haiku, là thoát thai từ bản sắc thiên nhiên Nhật Bản và tư tưởng Thiền tông, nhưng hình như trong Haiku của Bashô chất tịch (sabi) và đà (wabi) đậm hơn. Các nhà thơ Lục bát là những con người giữa cõi thế, đau đời, thương người, thương mình (Anh buồn có chốn thở than/ Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya), ghi nhận về trạng huống, về số phận.Trong Lục bát, sự vật lồng trong cảm xúc của người, quan tâm tương thông giữa người hơn tương thông với sự vật, thiên nhiên là cái đẩy đưa, là việc lấy đà để mở lời về chuyện chúng mình: Trên trời có đám mây xanh/ Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng/ Ước gì anh lấy được nàng/ Thì anh mua gạch bát tràng về xây (Ca dao) là khung cảnh, là nơi trút nỗi lòng khi con người một mình đối bóng: Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Câu 1525-1526, Truyện Kiều, Nguyễn Du). Có những tính chất gần với nước: mênh mang, mềm mại, lượn sóng, chảy xuôi, đặc biệt là tính chất giãn nở linh hoạt khó lường về dung lượng mà vẫn duy trì được bản chất, dòng sông Lục bát in vào mình những cảnh ngộ của đời. Từ đôi câu cơ bản, lục bát có thể phát triển thành những truyện thơ dài hàng nghìn câu, như những dòng sông lớn ào ạt, tràn bờ. Truyện Kiều, chính là con sông dài rộng đó, đã chảy xuyên qua tâm thức dân tộc Việt. Trong Truyện Kiều, có những câu thơ vượt ra ngoài ngữ cảnh: chúng chứa đựng một triết lý, một tâm trạng, một tình huống điển hình, làm nên hiện tượng bói Kiều. Lục bát là thể thơ kết hợp hài hòa trong nó tính tự sự và tính trữ tình. Chỉ có chất trữ tình không thôi, bài thơ sẽ thiếu đi cái sức nặng của cuộc đời, như một số bài ca dao. Xóa mất chất trữ tình, bài thơ chỉ còn trơ lại tính chất thông báo hoặc giáo huấn trần trụi, khô cằn, đó là lúc thơ biến thành vè. Truyện Kiều là sự kết hợp tài tình giữa tính tự sự và tính trữ tình ấy, trong đó trữ tình vẫn là cái nền, và tự sự của Truyện Kiều là tự sự nội tâm hơn là tự sự hiện thực, tự sự ý tưởng. Tận dụng đặc điểm của âm thanh tiếng Việt, Lục bát có nhiều thanh trầm. Những tác phẩm lục bát luôn tràn đầy thanh bằng và có khuynh hướng ngả về âm vực trầm ở cuối câu, do tất cả các vần đều là thanh bằng. Như vậy, ngoài tính chất liền lạc do vần điệu, lục bát còn thể hiện sự uốn lượn của âm thanh nhịp điệu. Mô hình trên làm ta liên tưởng đến những lớp sóng nhấp nhô, lăn tăn nho nhỏ, chạy thoai thoải không ngừng về phía chân trời. Những ai đã từng đến nông thôn Việt Nam, sẽ không thể nào quên những sóng mạ xanh rờn, nhấp nhô trong gió và những cánh cò chao lượn nhẹ nhàng trong trời chiều; ở đó vẳng lên lời ru ầu ơ với cung bậc uyển chuyển, êm ả, cuối mỗi lời lại hạ thấp giọng như tiếng thì thầm.Lục bát là thể thơ mang tính kết hợp cao. Đó là sự kết hợp trong nhiều bước: kết hợp chu kỳ với chu kỳ, dòng với dòng, vần với vần, kết hợp luân phiên về thanh điệu và nhịp điệu. Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, những kết hợp này có thể dẫn đến 256 trường hợp khác nhau. Đặc điểm này làm ta liên tưởng đến nguyên tắc kết hơp của kính vạn hoa. Sự biến hóa đa dạng, phong phú và linh hoạt của thơ lục bát làm cho nó có thể chuyên chở được nhiều sắc thái khác nhau của đời sống con người. 5. Lẻ và chẵn, duy nhất và lặp lại Với Haiku, nguyên tắc lẻ như là điều kiện lý tưởng để tạo ra vẻ đẹp không đối xứng, vẻ đẹp lệch, vẻ u huyền của cái rỗng, với lời mời gọi lấp đầy dành cho người thưởng ngoạn. Những triết nhân bao giờ cũng một mình và tự tại trong cái đơn côi. Với Lục bát, nguyên tắc chẵn phải chăng bắt nguồn từ tâm lý dân tộc Việt (yêu thích sự vuông tròn trọn vẹn, kết hợp; sợ và ghét sự đơn lẻ, tan vỡ, tách biệt: Trăm năm tính cuộc vuông tròn... Mẹ tròn, con vuông) và quan niệm triết lý phương Đông: vũ trụ có âm dương và trạng thái lý tưởng của vạn vật là âm dương hòa hợp? Ở chỗ này có thể liên tưởng đến thơ Đường (Tứ tuyệt hoặc Thất ngôn Bát cú). Haiku không vần, cấu trúc hình thức lỏng lẻo, làm nên những vệt ấn tượng đậm sắc nhiều sức gợi của một lần bắt gặp, thì Lục bát, các vần thơ níu nhau làm thành một chuỗi âm thanh liền lạc, uốn lượn, làm thành chu kỳ của cái trở đi trở lại. Dòng lục mắc vào dòng bát bằng vần lưng và dòng bát lại mắc vào dòng lục sau bằng vần chân, cứ như một chuỗi mắc xích nhịp nhàng, chặt chẽ, nhưng mềm mại. Là đặc điểm chung ở các nước Đông Nam Á, vần lưng trong Lục bát phải chăng cũng phản ánh một đặc điểm nào đó về ngôn ngữ, về hình ảnh của nhịp điệu mùa màng trong nền nông nghiệp lúa nướcvùng này? Hay có thể do lục bát khởi nguồn từ lời ru? 6. Mầm hiện đại có từ trong bản chất Haiku mang lại một âm hưởng hiện đại rõ. Có thể nói, tính biểu tượng, độ nén, chiều sâu tư tưởng, và khước từ cảm xúc của Haiku làm ta liên tưởng đến thơ tượng trưng hay siêu thực. Trong khi Lục bát thì dào dạt tràn bờ như thơ lãng mạn. Nhưng tính hiện đại của Haiku không dừng ở đó. Hiện đại chính là tinh thần hiện tượng luận và quan niệm về tính không (sa.śūnyatā) trong Haiku, vốn có từ Thiền tông. 7. Haiku và Lục bát cho ta niềm hy vọng Dung dị, nhỏ bé, Haiku và Lục bát, như phấn thông vàng, bay đi khắp nơi trong vườn thơ đại chúng, mang đến cho bao người một niềm hy vọng, rằng ai cũng đọc được Haiku, Lục bát, ai cũng làm được Haiku, Lục bát. Với người làm thơ Haiku và Lục bát hình như ranh giới giữa cái vô danh và cái hữu danh không lớn. Tinh thần dân chủ này của hai thể thơ đã gieo cảm hứng sáng tạo qua nhiều thời đại, nhiều không gian, nhiều thế hệ. Nếu Haiku, nhờ những đặc trưng về thủ pháp như đã nêu trên, mạnh hơn lục bát về sức lan tỏa theo hướng “toàn cầu hóa” [[v]] thì Lục bát lại dễ dàng hơn Haiku về khả năng dung nạp những thể loại khác, có khả năng tiếp nhận những yếu tố mới một cách cởi mở, mềm mại (truyện, kịch, các thể thơ khác...). …và nhiều thách thức Haiku và Lục bát là một thể loại chứa đựng nhiều thách thức. Cả hai tưởng chừng dễ đọc, dễ làm nhưng để hiểu thấu và làm được những bài thơ hay thật khó, bởi vì nó đòi hỏi người làm thơ phải am hiểu cái hồn (Haiku) nghệ thuật, kỹ xảo (Lục bát) nhưng không được để lộ cái hồn và nghệ thuật, kỹ xảo đó; bởi vì Haiku và Lục bát phải thâm thúy trong cái giản dị, phải thanh nhã trong cái nguyên sơ. Việc dịch thơ Haiku cũng không hề đơn giản. Với những cảm nhận trên, tôi thích những bản dịch Haiku giữ được cấu trúc lẻ gồm ba câu và chọn từ có thanh ngang càng nhiều càng tốt, đặc biệt là từ cuối cùng của bài thơ. Haiku chuyển sang Lục bát hay Tứ tuyệt (số câu chẵn) là một thay đổi về bản chất: đọc những bản dịch như vậy, tôi cảm giác như gặp lại một người quen vừa mới trải qua cuộc giải phẫu thẩm mỹ: đẹp thì có đẹp, nhưng còn đâu cái long lanh của thần thái tự nhiên xưa./. Sài Gòn, tháng 11 năm 2011
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2. 2012
[[i] ]Theo Nguyễn Nam Trân, Haiku bắt đầu bằng 6-8 rồi sau đó hình thức 6-8 đã được thay thế bằng 5-7. “Lối 5/7 ăn rất sâu vào thơ Nhật” (Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr.48 và tr.447- 448) [[ii] ]Nguyễn Vũ Quỳnh Như
http://diendankienthuc.net/diendan/ly-l … haiku.html
[[iii]] Tsurayuki, Bài tựa cho Kokinshu (Cổ kim tập, tr.992), trích theo Nhật Chiêu, Ba nghìn thế giới thơm, tr.68 và tr. 189. [[iv]] Teika: “Không có yếu tính thơ ca nào hơn được tâm linh”: “Khó mà hiểu đầy đủ phong cách này. Một nhà thơ tiếp cận nó với một tâm trí bấp bênh sẽ không thể nào đạt được phong cách tâm linh. Chỉ khi nào thanh lọc toàn vẹn tâm hồn và bước vào một tâm cảnh duy nhất, người ta mới làm nên được tâm linh ca, nhưng quả là hiếm hoi. Chính vì vậy tôi chỉ gọi là tú ca những bài nào sau thẳm tâm linh” (Maigetsusho, Mỗi nguyệt sao, đoạn 128, trích theo Nhật Chiêu, Ba nghìn thế giới thơm tr.150.) [[v] ]Nguyễn Thị Bích Hải: “Có lẽ cách luật của thơ lục bát là chặt chẽ nhất, cách gieo vần cũng phức tạp hơn. Mặc dù có chấp nhận biến thể nhưng về cơ bản là cặp câu lục bát luôn đòi hỏi gieo vần bằng, gần như là thuần âm, lại phải gieo cả vần lưng và vần chân. Điều này khiến lục bát không thể “vào” được các nền thơ của ngôn ngữ đa âm và không có thanh điệu”. “Còn haikư với ngôn ngữ liên âm, không có thanh điệu dễ được tiếp nhận hơn ở các ngôn ngữ Ấn, Âu và điều quan trọng hơn là ó có thể gieo vần hoặc không. Với đặc điểm “dễ dãi” về hình thức ấy, thơ haikư dễ “nhập cảnh” hơn nhiều so với tuyệt cú và lục bát”. http://www.vnthidan.net/tho-tuyet-cu-haiku-va-luc-bat-t2323.html
fShare
Tweet
Bạn có thể quan tâm:
|