Sốt vi rút là gì

Sốt virus do các loại virus khác nhau gây ra. Bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ bộ phận, khu vực nào trên cơ thể như phổi, ruột, các cơ quan trong hệ hô hấp… Nguyên nhân chính gây ra hiện tượng sốt là do một số loại virus như: Rhinovirus, virus cúm, Coronavirus, Adenovirus… Mỗi loại virus khác nhau sẽ gây ra các biểu hiện sốt với nhiều triệu chứng khác nhau ở người bệnh.

Đối với những người lớn trong độ tuổi trưởng thành, nếu hệ miễn dịch yếu cũng dễ bị virus gây sốt tấn công vào cơ thể. Nhất là khi thời tiết thay đổi theo mùa, người lớn dễ bị sốt virus khá giống với trẻ em.

Thường ở người lớn, với những người có sức khỏe tốt, khi bị sốt virus nếu tiến hành điều trị triệu chứng ngay thì vài ngày sẽ đỡ và khỏi bệnh. Khi đó, virus gây sốt cũng được tiêu diệt nhanh chóng, hiệu quả. Còn nếu chăm sóc không đúng cách, theo dõi diễn biến không phát hiện sớm những bất thường sẽ có nguy cơ cao gặp phải rất nhiều biến chứng nguy hiểm.

2. Đường lây truyền sốt virus

Nguyên nhân chính của sốt virus chính là bị lây nhiễm virus qua các đường khác nhau. Trong đó chủ yếu qua đường hô hấp, vì virus có trong nước bọt và dịch khi hắt hơi của người bệnh. Khi hít vào, virus sẽ theo đó xâm nhập vào cơ thể.

Virus có trong thức ăn và nước uống có thể xâm nhập vào cơ thể khi chúng ta sử dụng thức ăn và nước uống không đảm bảo vệ sinh. Một số loại virus thường thấy chính là enterovirus và norovirus.

Virus còn do muỗi truyền bệnh đây là tác nhân phổ biến nhất. Muỗi là vật chủ trung gian lây truyền các bệnh gây sốt virus, đặc biệt là sốt xuất huyết, Zika.

3. Biểu hiện sốt virus ở người lớn

Hầu hết các trường hợp sốt virus đều có các triệu chứng giống cảm lạnh thông thường. Tuy nhiên, dấu hiệu quan trọng và nổi bật nhất của sốt virus đó là sốt rất cao [có thể trên 39°C, tùy chủng virus]. Các cơn sốt có thể liên tục tăng và giảm trong thời gian nhiễm bệnh, có thể sốt lên đến 40-41 độ C.

Sốt virus người bệnh cần kiểm tra nhiệt độ thường xuyên

Ngoài biểu hiện sốt cao thì người bệnh còn có các biểu hiện như:

- Đau đầu: Đây là biểu hiện thường gặp của sốt virus, bệnh nhân thường có dấu hiện nhức đầu dữ hội.

- Viêm đường hô hấp: Kèm theo sốt và đau đầu là các biểu hiện viêm đường hô hấp như viêm họng [họng bị sưng tấy, đỏ], rát họng, ho, chảy nước mũi, hắt hơi, sổ mũi... Người bệnh có biểu hiện đỏ mắt, chảy nước mắt.

- Da nổi mẩn: Thường xuất hiện 2-3 ngày sau khi sốt virus, khi xuất hiện ban thì sẽ đỡ sốt vì bệnh đã qua thời kỳ ủ bệnh và phát bệnh.

- Đau nhức mình mẩy: Người bệnh đau nhức khắp người, đặc biệt là đau nhức ở cơ bắp. Những cơn đau này thường khiến bệnh nhân mệt mỏi không làm được việc.

- Rối loạn tiêu hóa: Biểu hiện này thường xuất hiện sớm nếu nguyên nhân gây sốt virus do virus đường tiêu hóa, cũng có thể xuất hiện muộn hơn vài ngày sau khi sốt với đặc điểm là đại tiện lỏng [tiêu chảy], không có máu, chất nhầy.

Ngoài ra, người bệnh còn có thể buồn nôn, nôn, xuất hiện hạch vùng đầu, mặt, cổ thường sưng to, đau có thể nhìn hoặc sờ thấy...

4. Chẩn đoán sốt virus

Sốt do virus và do vi khuẩn có rất nhiều điểm giống nhau nên việc chẩn đoán các bác sĩ dựa vào tiền căn, bệnh sử, tính chất các triệu chứng và cả lấy mẫu xét nghiệm để chẩn đoán, chủ yếu là để phân biệt với tình trạng nhiễm trùng.

Xét nghiệm là phương pháp tốt nhất giúp chẩn đoán khi sốt virus. Ngoài việc giúp xác định nguyên nhân của sốt virus hay không, xét nghiệm khi sốt siêu vi còn có thể giúp xác định loại trừ các nguyên nhân khác như: nhiễm khuẩn, có thiếu máu, mất nước và các bệnh lý về máu cơ bản khác…để xác định được chính xác tình trạng cũng như nguyên nhân của sốt. Từ đó giúp cho việc điều trị chuẩn xác đúng phác đồ.

Trên thực tế hầu hết các trường hợp sốt virus đều không nguy hiểm và có thể tự khỏi nếu chăm sóc tại nhà đúng cách.

Khi bị sốt virus người bệnh cần kiểm tra nhiệt độ thường xuyên nếu sốt cao cần sử dụng thuốc hạ sốt paracetamol 500mg khi sốt ở nhiệt độ 38,5 độ C .

Người bệnh cần bù nước vì khi sốt cao có thể gây mất nước, gây rối loạn điện giải cơ thể. Do đó nên uống nhiều nước lọc và bù điện giải bằng cách uống Oresol [một gói Oresol pha một lít nước uống dần trong ngày].

Người bệnh sốt virus cần ở trong phòng ấm, không nên mặc quần áo quá dày, ở trong phòng quá kín. Dù sốt nên người bệnh thường xuyên cảm thấy ớn lạnh nhưng nhiệt độ bên trong cơ thể vẫn đang rất cao. Do đó cần mặc các loại quần áo nhẹ, thoáng, có thể sử dụng quạt gió chế độ thấp để giữ không khí lưu thông. Cố gắng nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt.

Trong khi sốt người bệnh cần ăn uống đủ chất, đồ ăn dễ tiêu như: ăn cháo, phở bún,… tăng cường bổ sung vitaimin C, ăn thức ăn lỏng đủ dinh dưỡng để nhanh hồi phục tình trạng sức khỏe.

Đa số trường hợp, sốt virus thường không đáng ngại, nhưng nếu sốt cao 39°C hoặc cao hơn hoặc sốt không hạ sau khi uống thuốc, sốt kèm thêm các triệu chứng nghiêm trọng khác thì cần đến cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám và điều trị.

Những triệu chứng sốt virus ở người lớn cần chú ý là :

  • Đau đầu dữ dội
  • Khó thở
  • Đau ngực
  • Nôn thường xuyên
  • Phát ban trầm trọng
  • Cổ cứng và đau
  • Co giật, mất tỉnh táo…. 

Cần phải được nhập viện và điều trị.

6. Biến chứng có thể gặp

‎Khi sốt virus người bệnh có thể bị rát họng, có mủ, viêm ở phế quản. Nặng hơn có khả năng sẽ bị sốc nhiễm trùng [mạch đập nhanh, khó thở, tay chân lạnh, huyết áp tụt]. Lúc ở trong trạng thái nguy kịch này người bệnh dễ dẫn đến tử vong.

Ngoài ra, biến chứng hiếm gặp nhưng nguy hiểm ở người lớn mắc sốt virus là viêm phổi, đặc biệt là các chủng virus mới có khả năng gây bệnh nguy hiểm hơn, dễ lây nhiễm và khó kiểm soát bệnh hơn.

Khi virus gây bệnh cũng có thể xâm nhập gây viêm cơ tim, bệnh nhân có thể xuất hiện những cơn co thắt tim nguy hiểm như: tim đập loạn nhịp, ngừng tim từng đợt. Đặc biệt những người bệnh khi đã hết sốt nhưng cơ thể vẫn mệt mỏi, đuối sức và các triệu chứng đau ngực, hồi hộp hoặc các triệu chứng tim mạch khác thì nguy cơ biến chứng đến tim cao hơn.

Sốt virus không biến chứng chỉ cần điều trị ở nhà. Điều trị triệu chứng như hạ sốt giảm đau bằng thuốc thông thường, giảm ho, uống đủ nước [nước lọc, nước trái cây, nước có chất điện giải] và không cần truyền dịch. Do vậy, người bệnh tuyệt đối không được tự mua thuốc để điều trị, không dùng thuốc kháng sinh, kháng viêm. Việc tự chữa bệnh như thế dễ dẫn đến các biến chứng do thuốc hay sử dụng không đúng chỉ định. Thuốc kháng sinh không có tác dụng chữa bệnh trong sốt virus. Sử dụng thuốc kháng viêm nhiều, điều trị không đúng bệnh gây đau dạ dày và có thể tử vong.

‎7. Lời khuyên thầy thuốc

Để giảm lây nhiễm, người bệnh cần thực hiện cách ly tại nhà trong thời gian sốt virus, nhất là trong thời điểm có sốt. 

Không đến cơ quan, trường học và nơi đông người. Hạn chế tiếp xúc với người thân trong gia đình. 

Đeo khẩu trang và thay khẩu trang thường xuyên. Rửa tay bằng các dung dịch rửa tay thông thường. 

Trở lại sinh hoạt bình thường khi người bệnh hết sốt trên 24 giờ mà không cần dùng thuốc hạ sốt.

Khi ho, hắt hơi, sổ mũi cần che bằng khăn giấy hay tay áo. Rửa tay sau khi ho hắt hơi giúp giảm lây nhiễm cho những người xung quanh. Khi phải chăm sóc người bệnh cần đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên và theo dõi các dấu hiệu của sốt virus.

Nâng cao hệ miễn dịch bằng cách bổ sung kẽm và vitamin C, uống đủ nước, tập luyện thể dục thể thao, ngủ đủ giấc. Đảm bảo vệ sinh ăn uống, môi trường xung quanh sống mát mẻ, sạch sẽ.

Nắng nóng vào mùa, đề phòng sốt virus ở trẻ

Video có thể bạn quan tâm

Những bài tập thể dục buổi sáng giúp bạn tăng cường sức khỏe


07/12/2021

Sốt siêu vi [hay còn gọi là sốt virus] là phản ứng sốt ở trẻ khi nhiễm một loại virus nào đó. Sốt virus thường cấp tính, kéo dài 3 – 5 ngày, ít khi quá 7 ngày. Sốt virus có thể đơn thuần và tự khỏi nhưng cũng có thể kèm theo các triệu chứng khác, gây diễn biến nặng tùy vào từng loại virus và cơ địa của trẻ.

Các bác sĩ Khoa Hồi sức Hô hấp – Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Nhi Trung ương vừa tiếp nhận điều trị cho bé trai 2 tháng tuổi [ở Lào Cai] nhập viện trong tình trạng sốt, khó thở, suy hô hấp, ăn uống kém. Theo các bác sĩ, trước khi nhập viện 3 ngày trẻ xuất hiện ho, ngạt mũi, gia đình có cho trẻ đi khám và uống thuốc điều trị tại nhà nhưng không đỡ. Khi thấy trẻ có biểu hiện thở nhanh, khó thở thì được người nhà cho vào viện. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, trẻ được tiến hành xét nghiệm cận lâm sàng tìm căn nguyên, kết quả cho thấy trẻ bị viêm phổi do nhiễm virus RSV [virus hợp bào hô hấp gây viêm phổi]. Hiện sau 5 ngày điều trị và chăm sóc đặc biệt, tình trạng sức khỏe của trẻ tiến triển tốt, tuy nhiên vẫn cần phải theo dõi thêm.

Bệnh nhi nhiễm vi-rút RSV được chăm sóc tại Khoa Hồi sức hô hấp – Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Nhi Trung ương [Ảnh: Lê Hiếu]

Nhận biết bệnh sốt siêu vi – bệnh thường gặp trong thời điểm giao mùa

Bác sĩ CKII. Lê Thanh Chương – Trưởng khoa Hồi sức hô hấp – Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, trung bình mỗi ngày khoa Hồi sức Hô hấp tiếp nhận 5-10 trẻ điều trị các bệnh lý hô hấp nặng do nhiễm virus kèm theo sốt. Nhiễm virus có sốt thường gặp nhất vào thời điểm giao mùa, khi thời tiết thay đổi đột ngột từ nóng sang lạnh hoặc từ lạnh sang nóng ấm, đặc biệt là mùa đông xuân.

Những dấu hiệu thường gặp ở trẻ nhiễm virus là sốt ở nhiều mức độ khác nhau, có thể là sốt thoáng qua, sốt nhẹ hoặc có những trẻ sốt cao liên tục. Khi trẻ sốt cao có thể rét run toàn thân, một số trẻ có thể bị co giật do sốt. Trẻ có thể sốt đơn thuần hoặc kèm theo các dầu hiệu khác tùy từng loại virus và từng trẻ như ho, chảy mũi trong, tiêu chảy, phát ban, mụn nước trên da…

Nhiều loại virus có thể gây bệnh cảnh rất nặng đe dọa tính mạng của trẻ hoặc để lại di chứng nặng nề như virus gây viêm não Nhật Bản, virus gây bệnh tay – chân – miệng, virus Dengue gây sốt xuất huyết, virus Rota gây tiêu chảy mất nước…

Ảnh minh hoạ [Nguồn: vecteezy.com]

Một số biến chứng nguy hiểm

Theo bác sĩ Chương, lứa tuổi càng nhỏ thì càng dễ bị nhiễm virus, do sức đề kháng của trẻ kém, nhưng có một số loại virus do cơ thể trẻ có kháng thể từ mẹ truyền sang con qua nhau thai, qua sữa mẹ thì trẻ có thể bị muộn hơn. Ví dụ như bệnh sởi, nếu người mẹ đã được tiêm phòng hoặc đã từng bị nhiễm sởi mà nuôi con bằng sữa mẹ thì ít khi bị mắc bệnh sởi trước 6 tháng.

Nhiễm virus có ở trẻ sẽ trở nên nguy hiểm khi xảy ra các biến chứng trên nhiều cơ quan của cơ thể nếu không được phát hiện kịp thời và chăm sóc đúng cách như: viêm phổi nặng do RSV, cúm, phù não, viêm cơ tim, phù phổi do virus tay chân miệng; chảy máu, sốc do sốt xuất huyết…

Thời điểm cha mẹ cần đưa trẻ đến viện, cách chăm sóc và phòng tránh

Bác sĩ cho biết, hiện các bệnh do virus gây ra hầu hết chưa có thuốc đặc hiệu, chủ yếu là điều trị triệu chứng. Nếu trẻ sốt virus đơn thuần có thể điều trị tại nhà, theo hướng dẫn của bác sĩ: mặc thoáng mát, uống nhiều nước, ăn thức ăn dễ tiêu giàu dinh dưỡng, ăn thêm quả, nước ép trái cây… Cha mẹ nên dự phòng sẵn thuốc hạ sốt để dùng khi cần thiết.

Khi thân nhiệt trẻ cao trên 38,5 độ C đo ngoài da [nách, trán, lỗ tai] thì có thể dùng paracetamol [tên biệt dược: Efferalgan, Panadol, Hapacol…] với liều 10-15mg/kg cân nặng mỗi 6 giờ để tránh sốt quá cao có thể gây các phản ứng bất lợi như co giật, mất nước, mệt mỏi nhiều. Nếu chưa loại trừ được trẻ có bị sốt xuất huyết hay không thì không được dùng các thuốc chứa thành phần ibuprofen [tên biệt dược: Sotstop, Brufen…] vì có thể gây xuất huyết nặng thêm.

Khi trẻ bị nhiễm virus, cha mẹ không nên quá lo lắng hoặc quá chủ quan. Cần chăm sóc trẻ chu đáo, phát hiện được các dấu hiệu nặng để đưa trẻ đến các cơ sở y tế thăm khám. Một số dấu hiệu cần biết như: sốt đơn thuần 2 – 3 ngày không thuyên giảm, sốt kèm theo các dấu hiệu toàn thân hoặc các cơ quan khác như mệt mỏi nhiều, ăn uống kém, phát ban, mụn nước trên da, giật mình, co giật, ho, khó thở, tiêu chảy…

Thực hiện tiêm chủng đầy đủ để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh cho trẻ [Nguồn: Freepik]

Để phòng ngừa nhiễm virus, cha mẹ không cho trẻ tiếp xúc nguồn lây: tránh tiếp xúc người đang nhiễm virus, tránh nơi đông người, nằm màn, phun thuốc diệt muỗi… Cần nâng cao sức đề kháng cho trẻ: cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng [khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ trong năm đầu đời], thường xuyên cho trẻ vận động tăng cường thể lực, tạo môi trường sống trong sạch, vui vẻ, lành mạnh; tiêm phòng đầy đủ vaccine tạo miễn dịch chủ động cho trẻ chống lại virus [cúm, sởi, quai bị, viêm não nhật bản, bại liệt, rotavirus…].

Vy Hiếu – Thu Trà – Phòng Truyền thông & Chăm sóc khách hàng

Video liên quan

Chủ Đề