Sự khác nhau giữa kitô giáo và thiên chúa giáo

Hãy cùng tìm hiểu Kitô giáo là gì? và Thiên chúa giáo là gì? cùng một số điểm khác nhau giữa hai tôn giáo này qua bài viết sau đây nhé!

Kitô giáo là gì?

Kitô giáo là tôn giáo monotheistic lớn nhất trên thế giới. Nó dựa trên cuộc đời và nguyên tắc do Chúa Jêsus Christ dạy và nó được tuyên xưng bởi hơn 2. 5 người ở hơn 160 quốc gia. Niềm tin chính của Kitô giáo là Chúa Giê Su Ky Tô, Con Thiên Chúa, đã đến thế gian như một người cứu nhân loại - như đã được tiên đoán trong Cựu Ước. Theo đức tin Kitô giáo, Chúa Jêsus đã đến thế gian, đau khổ, bị đóng đinh, chết và phục sinh để được sự sống đời đời cho loài người. Một trong những trụ cột của đức tin Kitô giáo là ý tưởng về "ba ngôi. "Duy trì một tôn giáo monotheistic, Kitô giáo tin rằng người duy nhất và Thiên Chúa duy nhất bao gồm ba thực thể cùng tồn tại nhưng khác biệt: Cha [Chúa], Con [Chúa Giêsu Kitô] và Chúa Thánh Thần.

Do các quan điểm và niềm tin khác nhau, nhà thờ Thiên Chúa giáo chia rẽ theo các mệnh giá khác nhau, bao gồm, chẳng hạn như:

  • Công giáo;
  • Chính thống phương Đông;
  • Chính thống phương Đông;
  • Chủ nghĩa Anh giáo;
  • Đạo Tin Lành;
  • Phương pháp luận;
  • Đạo Tin lành;
  • Lễ Ngũ Tuần Thánh; và
  • Kitô giáo Do thái.

Mặc dù tất cả các giáo phái đều dựa trên lời dạy của Chúa Giê Su Ky Tô và duy trì các tôn giáo monotheistic, nhưng có những điểm khác biệt chính giữa chúng. Hơn nữa, Giáo hội Công giáo và Giáo hội chính thống tự coi mình là những nhà thờ độc lập, trước kỳ quan.

 

Mục lục

  • 1 Từ nguyên
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Khởi nguyên
    • 2.2 Hội thánh sơ khai
    • 2.3 Các giáo hội quốc gia
    • 2.4 Kitô giáo ngày nay
  • 3 Giáo lý
  • 4 Văn hóa
  • 5 Xem thêm
  • 6 Ghi chú
  • 7 Chú thích
  • 8 Đọc thêm
  • 9 Liên kết ngoài
 

Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo?

Thực tế, nhiều người vẫn vô tình nhầm tưởng Đạo Thiên Chúa là Đạo Công Giáo. Đạo Công Giáo [Catholicism] là Đạo Thánh mà chính Chúa Kitô đã rao giảng và thiết lập ra Giáo Hội trên nền tảng Tông Đồ như là một phương tiện để loan truyền và mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Đạo Công Giáo là đạo cứu rỗi để mọi người đón nhận cuộc sống hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa trong Vương Quốc tình yêu của Người sau khi hoàn tất hành trình con người trên trần thế.

Đạo Công Giáo do Chúa Kitô rao giảng và thiết lập ra

Nên xét về mặt từ ngữ thì đạo Thiên Chúa bao hàm khá rộng lớn. Trong khi các tín đồ Thiên Chúa giáo lại được phân nhỏ trong các Giáo Hội hay Đạo có các danh xưng khác nhau.

 

1. Do Thái Giáo [Judaism]

Đạo Do Thái thờ Một Thiên Chúa Yahweh, là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Israel [Jacob] của dân Do Thái, người đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách cai trị của Ai Cập. Đạo Do Thái không có Thiên Chúa Ba Ngôi nên Kinh Thánh của họ chỉ có phần Cựu Ước thôi.

Người Do Thái giáo chỉ tụ tập trong các Hội trường để đọc Kinh Thánh chứ không có Thánh Lễ vào các Chúa Nhật hay Nhà Thờ. Và ngày họ đọc kinh là ngày thứ bảy hằng tuần hay gọi là ngày Sabbat.

2. Đạo Công Giáo La Mã [Roman Catholicism]

Đạo Công Giáo La Mã chính là Kitô Giáo. Đạo thờ Thiên Chúa Ba Ngôi gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy là Ba ngôi vị riêng biệt nhưng cùng một Thiên Chúa duy nhất đồng bản thể và uy quyền trong Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi.

Kinh thánh của Giáo Hội Công Giáo có phần Cựu Ước và Tân Ước dạy các tín hữu đời sống đức tin theo lời Chúa. Giáo Hội Công Giáo có sự quản lý rất nề nếp như một đất nước thu nhỏ với người đại diện cao nhất là Đức Giáo Hoàng.

3. Đạo Tin Lành [Protestanism]

Đây là một nhánh của Kitô Giáo đã ly khai khỏi Công Giáo sau cuộc cải cách tôn giáo khởi xướng bởi Martin Luther tại Đức năm 1517. Đạo Tin Lành cũng tôn thờ Thiên Chúa và tin Chúa Kitô là Cứu Chúa và cùng sử dụng Kinh Thánh như Đạo Công Giáo.

Nhưng Đạo Tin Lành có những điểm khác biệt rõ ràng so với Đạo Công Giáo như cách giải thích của họ về Kinh Thánh, không công nhận vai trò của Đức Giáo Hoàng và không có các bí tích như Công Giáo.

 

Những điểm khác nhau giữa Thiên Chúa Giáo và Cơ Đốc Giáo là gì?


Có một vài điểm khác biệt quan trọng giữa Thiên Chúa giáo và Tin Lành. Trong những năm gần đây, mặc dầu có rất nhiều nỗ lực để tìm kiếm điểm chung giữa hai giáo phái, nhưng sự thật là những điểm khác nhau vẫn còn đó, và hiện nay chỉ thật sự quan trọng khi điều này là từ lúc ban đầu khi Cải Cách Giáo Hội. Dưới đây là đoạn tóm tắt ý chính của một vài điểm khác biệt quan trọng:

Một trong những điểm khác biệt chính giữa Thiên Chúa Giáo và Cơ Đốc Giáo đó là tính đầy đủ và quyền năng của Kinh Thánh. Cơ Đốc Giáo tin rằng chỉ có duy Kinh Thánh là nơi mà sự mặc khải đặc biệt của Chúa đến với con người và dạy chúng ta tất cả điều gì cần thiết cho sự cứu rỗi chúng ta ra khỏi tội lỗi. Cơ Đốc Nhân xem Kinh Thánh như là nền tảng mà ở nền tảng này, tất cả các hành vi cư xử của Cơ Đốc Nhân phải được xem xét, cân nhắc. Niềm tin này thì thường được đề cập đến việc xem " Duy Kinh Thánh" và là một trong " Năm Điều Duy Nhất", có nguồn gốc từ Cải Cách Giáo Hội như là những tóm tắt cho những điểm khác nhau giữa Thiên Chúa Giáo và Tin Lành

Trong khi có rất nhiều câu trong Kinh thánh cho thấy quyền năng và sự đầy đủ của chính Kinh Thánh đối với tất cả vấn đề của niềm tin và thông tục, một trong những câu rõ ràng nhất là II Ti-mô-thê 3:16, ở câu này cho chúng ta thấy rằng " Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành". Nhưng Thiên Chúa Giáo chối bỏ thuyết Duy Kinh Thánh và không tin rằng chỉ Kinh Thánh thôi là đủ.

Họ tin Kinh Thánh và phong tục thánh của Công giáo thuộc Giáo hội La Mã, chẳng hạn như ngục luyện tội, cầu nguyện với thánh thần, ca tụng và sùng bái Mẹ Mary, vâng vâng… những điều này có rất ít hoặc là không có bất kì nền tảng nào trong Kinh Thánh, nhưng chỉ dựa vào Phong tục Công Giáo của Giáo hội La Mã. Về cơ bản, việc phủ nhận của Giáo hội Công Giáo La Mã cho "duy Kinh Thánh" và tính nhất quán mà ở đó cả Kinh Thánh và phong tục bình đẳng giống nhau trong quỳên năng, thì việc xem như vậy làm giảm đi tính đầy đủ, quyền năng, và trọn vẹn của Kinh Thánh.

Điểm bất đồng khác giữa Ki-tô Giáo và Tin Lành là sự chính thức và quyền lực của Giáo Hoàng. Theo Công Giáo, Giáo Hoàng là " Người thay thế Chúa" và là đại diện Chúa Giê-xu để đứng đầu giáo hội. Như vậy, Giáo Hoàng có khả năng để nói với Ngai Toà [với thẩm quyền những vấn đề về niềm tin và thông tục], làm cho lời dạy không thể sai lầm và trói buộc tất cả các Cơ Đốc Nhân. Trái lại, Cơ Đốc Giáo tin rằng không ai là không phạm tội [thể sai được], và vì vậy chỉ có Chúa Giê Xu là đứng đầu cai trị giáo hội. Thiên Chúa Giáo dựa trên kế vị tông đồ như là một cách để chứng minh quyền lực của Giáo Hoàng. Cơ Đốc Giáo tin quyền năng của Giáo hội không đến từ kế vị tông đồ nhưng đến từ lời của Chúa. Sức mạnh tôn giáo và quyền nằng không nằm trong tay của một người nhưng nằm trong lời của Chúa. Trong khi Công Giáo tin rằng chỉ có Giáo hội Công Giáo mới có khả năng diễn dịch Kinh Thánh, thì Cơ Đốc Giáo tin rằng Chúa đã sai Đức Thánh Linh ở trong những kẻ được tái sanh, làm cho tất cả những kẻ tin hiểu được lời phán truyền trong Kinh Thánh.

Cơ Đốc Giáo chỉ ra những phân đoạn như là Giăng 14:16-17: " Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các người một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi". [Cũng xem trong Giăng 14:26 và I Giăng 2:27].

Điểm khác biệt chính thứ ba giữa Thiên Chúa Giáo và Tin Lành là con người được cứu như thế nào. Một trong số năm điều duy nhất khác về Sự Cải Cách là Duy Đức Tin, điều mà xác nhận theo Thuyết thuộc Thánh Kinh của sự xưng công bình là nhờ Ân Điển mà thôi, bởi đức tin mà thôi mà được cứu, là sự ban cho của Đức Chúa Trời [vì Chúa Cứu Thế mà thôi] [Ê-phê-sô 2:8-10]. Tuy nhiên, Ki tô Giáo chỉ ra rằng Cơ Đốc Nhân phải dựa trên niềm tin cộng thêm " những việc công đức" thì mới được cứu. Yếu tố cần thiết đối với Thuyết Công Giáo Giáo hội La Mã về sự cứu rỗi đó là bảy thánh lễ, đó là lễ rửa tội, lễ kiên tín, lễ tiệc thánh, lễ sám hối, xức dầu người bệnh, thánh chức, và lễ hôn thú. Cơ đốc Giáo tin rằng trên nền tảng niềm tin duy Chúa Giê Xu, tất cả người tin đều được xưng công bình bởi Chúa, bởi tất cả tội lỗi của loài người đã được Chúa đền tội vì Ngài đã chết trên thập tự giá và Sự công bình của Chúa quy cho con người. Trái lại, Thiên Chúa Giáo tin rằng sự công bình của Chúa thì được truyền đến những kẻ tin bởi "Ân điển nhờ đức tin", nhưng chỉ chính điều đó thì không đủ để xưng công bình cho người tin. Kẻ tin phải bổ sung sự công bình của Chúa truyền đến bởi những việc công đức.

Thiên Chúa Giáo cũng như Tin lành đều phản đối điều gì thì ý nghĩa để được xưng công bình trước Chúa. Đối với Thiên Chúa Giáo, sự xưng công bình bao gồm việc được thành ra công bình và tinh sạch. Họ tin rằng niềm tin trong Chúa chỉ là sự bắt đầu của sự cứu rỗi và vì vậy mỗi cá nhân phải thêm lên những công việc tốt, bởi vì ân điển của Chúa về việc cứu rỗi đời đời phải được xứng đáng. Quan điểm của sự xưng công bình này mâu thuẫn với sự dạy dỗ rõ ràng trong Kinh Thánh ở những phân đoạn như là Rô-ma 4:1-12, Tít 3:3-7, và nhiều phân đoạn khác nữa.

Cơ Đốc Giáo phân biệt giữa hành động một lần của việc xưng công [khi chúng ta được tuyên xưng công bình bởi Chúa dựa trên niềm tin của chúng ta trong sự đền tội của Chúa trên thập tự giá] và quá trình thánh hoá [Sự phát triển công bình tiếp tục trong cuộc sống chúng ta trên đất]. Trong khi Cơ Đốc Nhân nhận ra rằng những công tác tuy quan trọng, nhưng họ tin rằng những công việc này là kết quả hoặc trái của sự cứu rỗi nhưng không bao giờ là phương tiện để được cứu chuộc [Ê-phê-sô 2:10; Gia-cơ 2:17. Thiên Chúa Giáo hợp lẫn giữa sự xưng công bình và sự thánh hoá với nhau vào một quá trình tiếp diễn, mà dẫn tới sự hoang mang về việc làm thế nào con người được cứu.

Khía cạnh chính thứ tư khác nhau giữa Thiên Chúa Giáo và Cơ Đốc Giáo là phải làm gì với điều xảy ra sau cái chết. Cả hai tôn giáo đều tin rằng những kẻ chưa tin sẽ đời đời ở trong hoả ngục, nhưng có những điểm khác nhau nhất định về điều xảy ra với kẻ tin. Từ những truyền thống Giáo hội và sự tin tưởng vào những cuốn sách không thuộc kinh điên. Thiên Chúa Giáo đã phát triển thuyết ngục luyện tội.Theo bộ sách bách khoa toàn thư của Thiên Chúa Giáo, ngục luyện tội là "nơi hoặc điều kiện của sự phạt nhất thời, tạm thời cho những ai không thoát được những điều lỗi lầm hoặc không hoàn toàn thoả mãn bởi vì sự phạm tội của họ tức là những người đi chệch với ân điển của Chúa. Trái lại, Cơ Đốc Gíao tin rằng bởi vì chúng ta được xưng công bình bởi đức tin trong Chúa Giê xu Christ và chính sự công bình của Ngài đã được đổ trên chúng ta – khi chúng ta chết, chúng sẽ đi thẳng đến thiên đàng trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời [ Lu-ca 23:43; 2 Cô-rinh-tô 5:6-10 và Phi-líp 1:23].

Một điểm gây bối rối về thuyết Công giáo của ngục luyện tội là niềm tin mà con người có thể trả và phải trả cho những tội lỗi của chính người đó. Sự nhận định này là một đánh giá thấp cho tính đầy đủ và khả năng hiệu quả của việc chết đền tội của Chúa Giê-xu Christ trên thập tự giá. Nói một cách cơ bản, cách nhìn về sự cứu chuộc của Giáo hội La Mã ám chỉ rằng cái chết đền tội của Chúa Giê-xu Christ trên thập tự giá không đủ là tiền công tội lỗi cho những ai tin vào Ngài và thậm chí một người tin phải trả chính tội lỗi của mình, dù là thông qua những hành động xám hối hay thông qua thời gian trong ngục luyện tội. Nhưng Kinh Thánh dạy rằng chỉ duy cái chết của Chúa Giê Xu mới có thể đáp ứng hoặc làm giảm đi sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời đối với kẻ có tội. [Rô ma 3:25, Hê bơ rơ 2:17, I Giăng 2:2, I Giăng 4:10]. Những việc đạo đức của chúng ta không thể thêm vào điều mà Chúa đã làm trọn.

Những điểm khác nhau giữa Thiên Chúa Giáo và Cơ đốc Phúc Âm thì quan trọng và ý nghĩa. Phao Lô đã viết cho những người Ga-la-ti để chiến đấu với người Giu-đa [ Người Do Thái nói với những người Cơ Đốc Nhân không phải Do Thái là phải tuân theo luật Cựu Ước thì mới được cứu]. Giống như người Giu-đa, Thiên Chúa Giáo khiến con người làm những việc cần thiết để người đó được xưng công bình bởi Chúa, và họ kết thúc nó với một phúc âm hoàn toàn khác.

Chúng ta cầu nguyện Chúa sẽ mở những cặp mắt của những người đang đặt niềm tin vào những lời dạy của Thiên Chúa Giáo. Chúng ta đặt niềm tin rằng mọi người sẽ hiểu " những việc công bình" thì không thể xưng công bình hay là trở nên thánh [ Ê-sai 64:6; Rô-ma 10:1-4]. Chúng ta cầu nguyện tất cả mọi người sẽ chỉ đặt niềm tin của họ vào sự thật chúng ta được "được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-xu Christ, là Đáng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia"[Rô-ma 3:24-25]. Chúa cứu chúng ta "không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh mà Ngài đã rải ra trên chúng ta cách dư dật bởi Đức Chúa Giê-xu Christ, Cứu Chúa chúng ta; hầu cho chúng ta nhờ ơn Ngài được xưng công bình, trở nên con kế tự của Ngài trong sự trông cậy của sự sống đời đời" [Tít 3:5-7].

 

Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo? – Hãy biết phân biệt cho chính xác

Chia sẻ Facebook
Tweet

“Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo?”Xin gửi đến quý bạn đọc bài sau đây của Lm PX Ngô Tôn Huấn để nghiên cứu.

Hỏi: Xin Cha giải thích: Đạo Thiên Chúa là gì và khác Đạo Công Giáo như thế nào?

Trả lời:

Trong thực tế, nhiều người đã lầm lẫn khi dùng cụm từ “Đạo Thiên Chúa” hay “Thiên Chúa Giáo” để chỉ Đạo Công Giáo [Catholicism] tức là Đạo thánh mà chính Chúa Kitô đã rao giảng và thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Tông Đồ như phương tiện để loan truyền và mang ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi dân mọi nước cho đến ngày mãn thời gian.

Đó là Đạo cứu rỗi mời gọi mọi người đón nhận để được sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trong Vương Quốc tình yêu của Ngài.

Xét về từ ngữ [terminology] thì danh xưng Đạo Thiên Chúa nghe có vẻ hợp lý vì mục đích tôn thờ Thiên Chúa là Chủ tể vạn vật và vũ trụ. Nhưng nếu đi sâu vào nội dung thần học, thì danh xưng này không phân biệt rõ đối tượng và mục đích tôn thờ của các tín hữu có cùng niềm tin vào Thiên Chúa [God] nói chung và Chúa Cứu Thế Giêsu nói riêng. Các tín hữu này hiện đang phân tán trong các Giáo Hội hay Đạo có danh xưng khác nhau như sau:

1- Do Thái Giáo [Judaism],hay còn gọi là Đạo Mai-sen [Mosaic Religion] là Đạo tôn thờ Thiên Chúa Yahweh, là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Israel [Jacob]. Ngài cũng là Đấng, qua tay ông Mai-sen, đã giải phóng cho dân Do Thái thoát ách thống khổ bên Ai Cập và mang họ vượt Biển Đỏ trở về quê hương an toàn. Và cũng qua trung gian ông Mai-sen, Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái và cho cả nhân loại ngày nay Mười Điều Răn như giao ước phải thi hành để được chúc phúc và được sống với Thiên Chúa là tình thương. Tín hữu Do Thái thuộc Đạo này cho đến nay vẫn chỉ tôn thờ một Thiên Chúa Yaweh độc nhất mà thôi [monotheism]. Họ không có ý niệm gì về một Thiên Chúa Ba Ngôi [The Holy Trinity] vì họ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, đã xuống thế làm Người để cứu chuộc nhân loại. Họ cũng không biết gì về Chúa Thánh Thần, mặc dù Kinh Thánh Cựu Ước có hé mở chút ánh sáng về Ba Ngôi Thiên Chúa qua trình thuật Ba người khách lạ đến thăm ông Abraham và được ông niềm nở đón tiếp dù không biết họ là ai [Stk 18:1-15].

Cũng vì không nhìn nhận Chúa Cứu Thế Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và Phúc Âm của Người nên Kinh Thánh của Do Thái Giáo chỉ có phần Cựu Ước mà thôi.

2- Công Giáo La Mã[Roman Catholicism] chính là Kitô Giáo, tức là Đạo Cứu Rỗi do Chúa Kitô khai sinh với việc Người xuống trần gian làm Con Người, đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành và cuối cùng chết trên thập giá để hoàn tất công cuộc cứu chuộc cho loài người khỏi chết vì tội.

Đạo Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi cùng một bản thể [substance] và uy quyền như nhau. Thiên Chúa của Đạo Công Giáo là Thiên Chúa của Chúa Kitô [Christian God] và cũng là Thiên Chúa của các Tổ Phụ Do Thái. Do đó, Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo gồm cả hai phần Cựu Ước [Old Testament] và Tân Ước [New Testament] với tổng cộng 72 Sách thánh mà Giáo Hội Công Giáo dạy tín hữu phải đọc để nuôi dưỡng đời sống đức tin nhờ nghe Lời Chúa để biết sống theo đường lối của Người.

3- Chính Thống Giáolà Nhánh Kitô Giáo Đông Phương [Eastern Orthodox Churches] đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ năm 1054 vì một số bất đồng về tín lý, phụng vụ và quyền bính. Cho đến nay, nhánh này vẫn chưa hiệp nhất trọn vẹn được với Giáo Hội Công Giáo La Mã dù cả hai bên đã có nhiều thiện chí và cố gắng để xích lại gần nhau. Công Giáo và Chính Thống đều có chung nguồn gốc Tông Đồ [Apostolic succession] nên có chung các bí tích hữu hiệu như nhau, mặc dù vẫn chưa thể hiệp nhất được vì một trở ngại duy nhất là vấn đề quyền bình của Đấng thay mặt Chúa Kitô để cai trị Giáo Hội. Đó là quyền bính của Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Rôma, mà anh em Chính Thống chưa công nhận.

4- Tin Lành [Protestantism]là Nhánh Kitô Giáo đã ly khai khỏi Công Giáo và Chính Thống Giáo sau những cuộc cải cách [reformations] do Martin Luther chủ xướng tại Đức năm 1517, lan qua Pháp với John Calvin, Thụy sĩ với Ulrich Zwingli .

Nhưng chính nội bộ nhánh này sau đó cũng đã phân chia thành hàng ngàn các nhánh nhỏ khác nhau như Baptists, Methodists, Lutherans, Presbyterians, Episcopalians, Pentecostals, Quakers, Church of Christ .v.v Họ cũng tôn thờ một Thiên Chúa và tin Chúa Kitô là Cứu Chúa [Savior] cũng như lấy Kinh Thánh làm nền tảng cho niềm tin và sứ vụ giảng dạy [Preaching ministry], nhưng khác biệt với Công Giáo và Chính Thống Giáo về nhiều điểm căn bản liên quan đến thần học, bí tích, phụng vụ, quyền bính và Kinh Thánh [Họ giải thích Kinh Thánh theo cách hiểu riêng của họ]. Thêm vào đó, cũng như Chính Thống Giáo, các nhánh Tin lành đều không công nhận vai trò và quyền bính tối cao của Đức Giáo Hoàng La Mã. Một điểm quan trọng nữa cần nói thêm là các nhánh Tin lành này đều không có nguồn gốc Tông Đồ [Apostolic succession] nên họ không có các bí tích hiệu như Công Giáo và Chính Thống trừ phép rửa mà đa số họ có.

5- Anh Giáo [Anglicanism]tức nhóm Kitô Giáo đã tách khỏi Công Giáo La Mã vì sự bất mãn liên quan đến vấn đề hôn nhân của Vua Henry VIII trong thế kỷ 16. Henry đã tuyên bố ly khai khỏi Công Giáo La Mã và tự phong làm thủ lãnh nhánh ly khai này. Nhóm này có tên chung là Anglican Communion, tức là Anh Giáo, hoàn toàn khác với Giáo Hội Anh Quốc [The Church of England] là Giáo Hội Công Giáo của nước Anh hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo La Mã [Rome].

Nhưng cách nay gần hai năm, một biến chuyển mới trong liên hệ giữa Anh Giáo và Giáo Hội Công Giáo là có một nhóm khá đông các tín hữu Anh giáo cũng với giáo sĩ của họ đã xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Để đón mừng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm cựu Anh Giáo này, Đức Thánh Cha Bê-nê-dic-tô 16, ngày 9-11-2009 đã cho công bố Tông Thư “Anglicanorum coetibus” [Các tín hữu Anh Giáo] theo đó Tòa Thánh cho phép thiết lập các Giáo Hạt tòng nhân trong ranh giới của một số Giáo Phận Công Giáo ở Anh Quốc và xứ Wales để cho các cựu tín hữu Anh giáo được cử hành các nghi thức phụng vụ và bí tích theo nghi thức của truyền thống Anh Giáo đã được Tòa Thánh phê chuẩn.

Mới nhất, ngày 15-1-2011 vừa qua, ba cựu giám mục Anh giáo đã được tấn phong linh mục Công Giáo tại Thánh Đường Westminster, Luân Đôn. Và một trong ba tân linh mục này, cha Keith Newton đã được cử làm Quản hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, một Quản hạt tòng nhân đầu tiên mới được thành lập ngày 15-1 vừa qua để đón nhận các cựu tín hữu Anh Giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Sở dĩ có việc truyền chức cho các cựu giám mục Anh Giáo là vì Giáo Hội Công Giáo không công nhận Anh Giáo có bí tích Truyền Chức hữu hiệu, nên các cựu linh mục và giám mục Anh Giáo, nếu muốn, đều phải xin thụ phong linh mục Công Giáo trước và sau này có thể có linh mục được chọn làm giám mục Công Giáo.

Lại nữa, vì Anh Giáo cho các linh mục và giám mục của họ kết hôn, nên sau khi được thụ phong linh mục Công giáo, họ vẫn được phép tiếp tục sống với vợ con.

Ngoài ra, còn phải kể thêm một tôn giáo lớn nữa cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó là Đạo Hồi [Islam] do Muhammad sáng lập vào năm A.D 622. Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên Chúa = [Submission to the will of God]” nhưng Đạo này khác xa Đạo Do Thái, Công Giáo và các Nhánh Kitô Giáo nói trên về nhiều mặt. Thí dụ họ chỉ coi Chúa Giêsu là một người thường, một tiên tri như Abraham, Moses, Noah v.v và kinh thánh của họ là kinh Koran.

Như vậy, không có đạo nào gọi là Đạo Thiên Chúa [Deism] đúng nghĩa với danh xưng này cả vì trong thực tế thì tất cả các Nhánh hay Đạo mang các danh xưng riêng biệt trên đây đều tôn thờ Thiên Chúa [God] nhưng với nội dung thần học khác nhau, kể cả khác biệt về phương thế thể hiện sự tôn thờ đó [Liturgy]. Nói khác đi, các Nhánh Kitô giáo và Do Thái giáo nói trên, tuy cùng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng rất khác nhau về quan điểm thần học, bí tích, phụng vụ, mục vụ và quyền bình. Do đó, không thể gọi Đạo Công Giáo là Đạo Thiên Chúa cách chung được vì như vậy sẽ lẫn lộn với các đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều điểm như đã nói trên đây.

TẠI SAO PHẢI GỌI KITÔ GIÁO LA MÃ LÀ ĐẠO CÔNG GIÁO?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhớ lại từ đầu Thiên Chúa [God] chỉ tỏ mình ra cho dân Do Thái và chọn dân này làm dân riêng mà thôi: “Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta” [Xh 19:5].

Như thế, trước khi Chúa Giêsu xuống thế làm Con Người, chỉ có dân Do Thái được biết Thiên Chúa Yahweh là Cha các Tổ Phụ của họ, là Đấng đã giải phóng họ và ban cho họ Mười Điều Răn làm Giao ước [Covenant] mà thôi. Ngoài Dân Do Thái ra, các dân khác đều là dân ngoại [gentiles] vì không biết Thiên Chúa Yahweh của dân Do Thái.

Nhưng sau khi Chúa Giêsu giáng sinh ở Bethlehem, Chúa đã tỏ mình ra cho các dân ngoại qua ánh sao lạ ở Phương Đông, mời gọi ba đạo sĩ dân ngoại đầu tiên đến thờ lạy Chúa. [x. Mt 2:1-12]. Sự kiện này đã nói lên nét phổ quát [universality] của ơn cứu độ. Nghĩa là ơn này được dành cho hết mọi dân tộc, không chỉ riêng cho dân Do Thái. Vì thế, trước ngày về trời Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ: “anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” [Mt 28:19].

Đây là lý do vì sao Đạo của Chúa Kitô [Christianity] được gọi là Đạo Công Giáo vì mục đích phổ quát của ơn cứu độ mà Chúa đã mang đến cho nhân loại qua Hy Tế thập giá của Người. Vì thế từ ngữ “Công giáo” ở đây có nghĩa là chung, là phổ quát [universal], dành cho hết mọi người không phân biệt màu da, tiếng nói và văn hóa. Như vậy từ ngữ “công giáo” [catholicam = catholique = catholic…..] không hề có nghĩa là công cộng [public] như có người không hiểu biết gì nhưng đã có ác ý dịch ẩu Đạo Công Giáo sang tiếng Anh là Public Religion. Dịch như vậy cũng tương tư như người mới học tiếng Anh đã tự ý dịch nước đá [ice] là “water stone”! Cũng vậy, nếu biết tiếng Anh đủ và có đọc sách vở viết bằng Anh ngữ về các thuật ngữ [terms] của Kitô Giáo, thì tội tổ tông, người Anh Mỹ gọi là Original sin, người Pháp gọi là Péché originel, người Tây Ban Nha gọi là Pecado original’, chứ không ở đâu có từ ngữ “father’s sin” để chỉ tội tổ tông cả. Dịch kiểu này thì người Anh Mỹ không thể nào hiểu đúng ý của người dịch được.

Tóm lại, danh xưng phải chính xác về các vấn đề tôn giáo để tránh hiểu lầm hay xuyên tạc mục đích. Cụ thể, Đạo Công Giáo [Catholicism] là Đạo mà chính Chúa Giêsu đã khai sinh và giảng dạy để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho mọi người thành tâm thiện chí muốn đón nhận để được cứu rỗi và sống đời đời. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất Chúa Kitô đã thiết lập để tiếp tục rao giảng và chuyển chở ơn cứu độ đó đến cho những ai muốn tiếp nhận. Giáo Hội này được đặt dưới quyền lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng là Người duy nhất nối tiếp Sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của các Giám mục trong toàn Giáo Hội.

Đó là những nét đại cương để phân biệt Đạo và Giáo Hội Công Giáo với các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng đang hoạt động bên ngoài Giáo Hội Công Giáo.

Chủ Đề