Sử ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng là một tổ chức quan trọng nhất của nền kinh tế;là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ tập trung, phân phối lại vốn tiền tệ cũng như các dịch vụ có liên quan đến tài chính-tiền tệ khác trong nền kinh tế quốc dân.

Là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, cho nên lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá.Tiền thân của các nghiệp vụ hiện đại bắt nguồn từ nghề đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng.Ngưòi làm nghề đúc tiền, đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại.Lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua và giá bán.

Do yêu cất trữ tiền của lãnh chúa, các nhà buôn… nhiều người là nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Dần dần do có uy tín, những người giữ hộ tiền bạc của các nhà buôn, thanh toán hộ và do tích luỹ được nhiều tiền họ kiêm luôn cả nghề cho vay.Trong một thời gian dài, từ nghề đổi tiền đã phát triển thành nghề Ngân hàng.Nghề Ngân hàng thời kì đầu chỉ bao gồm các nghiệp vụ đơn giản như:đổi tiền, nhận tiền gửi,bảo quản hộ tiền, thanh toán, chuyển tiền cho vay; nghiệp vụ cho vay mang tính chất cho vay nặng lãi, cho nên các Ngân hàng thời kì này gọi là Ngân hàng cho vay nặng lãi.

Trong lịch sử phát triển, nghề Ngân hàng đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Nghề này được phát triển từ thời thượng cổ đến thời kì trung cổ, nghề Ngân hàng bị đình đốn do sự sụp đổ của đế quốc La Mã.Đến thời kì phục hưng, nghề này được phục hồi và phát triển khá mạnh.Số lượng các tổ chức kinh doanh tiền tăng thêm, nhiều nghiệp vụ mới được áp dụng,như nghiệp vụ thanh toán bằng thương phiếu, thanh toán bù trừ, nghiệp vụ bảo lãnh cho vay và thanh toán...Một số tổ chức kinh doanh tiền xuất hiện trong thời kì này đã mang dáng dấp kiểu Ngân hàng hiện đại, như Banco di barcelone thành lập năm 1401 và Banco di Valencia thành lập năm 1409 ở Tây Ban Nha, banco di Realto thành lập năm 1587 ở Vơnidoq[Italia].

Loại hình Ngân hàng hiện đại thực sự xuất hiện trên thế giới vào thế kỷ 17, với việc thành lập những Ngân hàng: Ngân hàng Amxtécđam năm 1609 ở Hà Lan, Ngân hàng Hamburg năm 1619 ở Đức, Ngân hàng Anh quốc năm 1694.

Từ thế kỷ 15 dến cuối thế kỷ 18, ở các nước Tây Âu, ngân hàng hiện đại lần lượt được thành lập do chuyển hoá từ các ngân hàng cho vay nặng lãi, hoặc được thiết lập mới.

Hoạt động của các ngân hàng này, nhìn chung tương tự nhau. Chúng đều là loại Ngân hàng đa năng, tiến hành các nghiệp vụ tiền gửi, chiết khấu, cho vay, phát hành giấy bạc, đổi tièn, chuỷen tiền. Mỗi ngân hàng là một”vương quốc”riêng, chưa tạo thành một hệ thống có mối liên kết chặt chẽ.

Trong thế kỷ 18 và nhất là thế kỷ 19, sự mở rộng nhanh chóng kinh tế hàng hoá ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ đã thúc đẩy sự hình thành hệ thống Ngân hàng 2 cấp.

Một mặt, hình thành ngân hàng phát hành tiền thống nhất cho cả nước, xoá bỏ tình trạng phát hành tiền phân tán. Ban đầu người ta ban hành các đạo luật hạn chế số lưọng ngân hàng được phép phát hành tiền, giành quyền này cho một số ngân hàng lớn. Dần dần, trong thế kỷ 19, các nước Tây Âu đã giành quyền phát hành tiền cho một ngân hàng duy nhất.

Mặt khác, ở các nước này xuất hiện ngày một nhiều các tổ chức kinh doanh tiền tệ với nhiều tính năng, tên gọi, quy mô hoạt dộng khác nhau, như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng...

Sang đầu thế kỷ 20,nền kinh tế ở các nước Âu-Mỹ khủng hoảng sâu sắc, đòi hỏi sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là sự phát huy vai trò điều tiết vĩ mô, nhằm khắc phục khủng hoảng, duy trì chủ nghĩa tư bản.

Một trong những công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng hàng đầu Nhà nước phải nắm là hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng phát hành, biến nó thành cơ quan Nhà nước quản lý các hoạt động tiền tẹ, tín dụng và thanh toán của đất nước. Trong bối cảnh như vậy, ngân hàng phát hành đã chuyên thành ngân hàng trung ương. Đây không chỉ thuần tuý là sự thay đổi cơ bản về chức năng hoạt động của loại ngân hàng này. Nếu như chức năng cơ bản của ngân hàng phát hành tiền còn thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh toán, điều tiết khối lượng tiền lưu thông nhăm đảm bảo sự ổn định về tiền tệ, góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.

Thời kỳ này, các ngân hàng kinh doanh phát triển mạnh ở các nước Âu Mỹ cũng như các nước thuộc địa, bán thuộc địa thuộc châu lục á, Phi và Mỹ la tinh.

Sau chiến tranh thế giới thứ 2,với xu thế quốc tế hoá và nhất thể hoá về kinh tế – tài chính, hệ thống ngân hàng ở mỗi nước được hoàn chỉnh thêm một buớc, đồng thời trên phạm vi khu vực và trên phạm vi toàn cầu đã xuất hiện các tổ chức Ngan hàng quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế,Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển khu vực, bên cạnh Ngân hàng thương mại siêu quốc gia.Những ngân hàng này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp chính sách tài chính - tiền tệ giữa các nước và của cộng đồng các quốc gia trên thế giới.

Trên thế giới, lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng và đến lượt mình sự phát triển của Ngân hàng lại thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế.

Nguồn gốc ra đời của nghiệp vụ Ngân hàng được bắt đầu từ nhiều cách song nhìn chung lại Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan và đã trở thành một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế bất kỳ. Có thể định nghĩa Ngân hàng, tuỳ thuộc vào chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện song càng ngày các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi nên khái niệm để phân biệt Ngân hàng với các hình thức khác chỉ mang tính tương đối.

Trong đề tài nghiên cứu này đứng từ giác độ xem xét các tổ chức này trên phương diện các hoạt động của Ngân hàng thì “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”.

Trong quá trình phát triển trải qua nhiều thất bại và dưới sự tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, điều kiện cụ thể của mỗi nước... mà hoạt động của ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh: đa dạng hoá các loại hình Ngân hàng và các hoạt động Ngân hàng. Sự tách rời giữa các chức năng điều tiết, quản lý với các chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng là một bước tiến mới của ngành Ngân hàng. Và quá trình phát triển của Ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các Ngân hàng trên tầm quốc tế.

ở Việt nam ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam, với tổng giám đốc đầu tiên là cố phó Chủ Tịch Nguyễn Lương Bằng, chính thức khai sinh một ngành kinh tế rất trọng yếu của Nhà nước - ngành Ngân hàng. Ngân hàng quốc gia Việt nam ban đầu có những nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc nhà nước, huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, quản lý các hoạt động tín dụng bằng biện pháp hành chính, quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngày 21/1/1960 Ngân hàng quốc gia Việt nam được đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt nam, đến năm 1975 các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế cũng như hệ thống tiền tệ -Ngân hàng theo mô hình ở miền Bắc đã áp dụng thống nhất trong cả nước. Song do nhiều nguyên nhân mà trong nhiều năm liên tục, cán cân thanh toán quốc tế bội chi rất lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số [774%], sản xuất đình trệ ... Đại hội Đảng lần thứ 6 đã đề ra đường lối đổi mới cho đất nước, 2 pháp lệnh ngân hàng đươc công bố ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự thay đổi mạnh mẽ của ngân hàng: Từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng nhà nước Việt nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và là ngân hàng Trung Ương, hệ thống Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh. Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, qua thực tiễn đã yêu cầu đưa hoạt động Ngân hàng vào khuôn khổ pháp luật cao hơn, hai pháp lệnh Ngân hàng đã được tổng kết, nâng lên thành hai luật được thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Từ đây, ngành Ngân hàng đã đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc và phát triển ngày càng lớn với 4 ngân hàng thương mại quốc doanh 31chi nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoài, 4 Ngân hàng liên doanh, 35 ngân hàng thương mại cổ phần, 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công ty tài chính khác. Các nghiệp vụ Ngân hàng đã trở nên sâu rộng, đa dạng, phong phú và tăng lên nhanh chóng, huy động vốn tăng gấp trên 1000 lần so với năm 1986 và gấp 21lần so với năm 1990, cho vay nền kinh tế tăng gấp 28 lần so với năm 1990

Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại [phần 1]

* Lịch sử  hình thành

Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc tiền và đổi tiền tại mỗi cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại.

Người làm nghề đổi tiền thường giàu có vì vậy họ thường có két tốt để cất giữ tài sản đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất trữ của các nhà buôn... nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất giữ hộ.

Việc cất giữ hộ và đổi tiền làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ.

Từ các hoạt động thực tiễn, nhà kinh doanh tiền tệ nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút cùng một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên ở trong két.

Do tính chất vô danh của đồng tiền, nhà kinh doanh tiền tệ có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay nhằm mục đích kiếm lời và trở thành nhà kinh doanh ngân hàng

Các nhà kinh doanh tiền tệ đầu tiên dùng vốn tự có của mình để tài trợ cho hoạt động của họ ®  ngân hàng tư nhân, nhưng điều này không kéo dài một số các nhà kinh doanh tiền tệ tập hợp nhau để chống lại tín dụng nặng lãi như đã nghiên cứu ở chương trước, lập nên những hiệp hội tín dụng vừa phải ®hình thành các ngân hàng cổ phần.

* Lịch sử phát triển

-           Từ thế kỷ 15 - 18: Hoạt động của các ngân hàng nhìn chung là tương tự nhau: Phát hành tiền; Nhận tiền gửi; Cho vay.

-           Từ thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 9: manh nha hình thành các ngân hàng hoạt động chuyên doanh như ngân hàng phát hành tiền; ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng đầu tư.

Đến năm 1875 ở Anh đã có 118 ngân hàng, 1881 ở Pháp đã có 81 ngân hàng, 1864 ở Mỹ có 3600 ngân hàng.Đầu thế kỷ 19 do quy mô và phạm vi lưu thông hàng hóa phát triển, các ngân hàng lợi dụng ưu thế của mình phát hành một khối lượng lớn tiền tín dụng vào lưu thông, Nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông và không đảm bảo tính chất của lượng tiền lưu thông đó ®Nhà nước buộc phải can thiệp nhằm thiết lập trật tự cho việc phát hành tiền -> kết quả là: ở Châu âu đến thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Nhà nước đã ban hành các đạo luật chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phép phát hành tiền và các ngân hàng còn lại thì chuyển thành ngân hàng thương mại; ở Anh, từ năm 1844 cấm các ngân hàng tư nhân, cổ phần phát hành thêm tiền và toàn bộ việc phát hành tiền được chuyển cho Anh quốc ngân hàng. Từ năm 1921, Anh quốc ngân hàng trở thành ngân hàng độc quyền phát hành tiền ở nước Anh.

-           Từ cuối TK 19 đến nay, hệ thống ngân hàng hiện đại đã có những bước phát triển mới và hoàn thiện thực sự. ®Hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp: ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành tiền và thực hiện xây dựng, quản lý chính sách tiền tệ quốc gia; ngân hàng thương mại thực hiện cung cấp các dịch vụ tài chính trên cơ sở có lợi nhuận.

Trong giai đoạn này, với xu hướng quốc tế  hóa kinh tế - tài chính cũng như sự phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số lượng các ngân hàng mà còn làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng. Tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng chục tỷ USD.

Quá trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng. Các hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo sự thống nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.

Video liên quan

Chủ Đề