Tại sao chữ viết ra đời

Bạn có thể đọc thêm về lịch sử phát triển của sách để thấy mối liên hệ bền chặt giữa sự ra đời và phát triển của bảng chữ cái như một thông điệp và sách như một phương tiện lưu trữ và truyền tải : Lịch sử phát triển của sách

Chúng ta nhìn thấy nó mỗi ngày trên dấu hiệu, biển quảng cáo, bao bì, sách, tạp chí, trong thực tế bạn đang nhìn nó ngay lúc đọc bài viết này. Bảng chữ cái phổ biến nhất là bảng chữ cái Latin. Một kiểu chữ phát minh tương đối gần đây, nhưng để nghiên cứu lại nguồn gốc của bảng chữ cái, chúng ta cần quay lại thời gian xa hơn, từ khi loài người có nền văn minh của mình.

Bạn đang xem: Vì sao chữ viết ra đời

Robert Bringhurst đã viết về chữ viết như là hình thức vững chắc của ngôn ngữ. Tuy nhiên chữ viết có nhiều hơn thế, và nguồn gốc của nó, sự tiến hóa của nó, và cách thức nó tạo nên nền văn minh thực sự là một câu chuyện tuyệt vời.


Đó là câu chuyện kéo dài khoảng 5000 năm. Chúng ta sẽ đi du lịch một khoảng cách rộng lớn, có thể gặp hoàng đế, công chúa, qua đồng bằng, sa mạc, và đi thuyền trên những đại dương.

Chúng ta bắt đầu nơi có nền khởi nguồn nền văn minh, vòng qua thời trung cổ, rồi tới thời Phục Hưng, khi đi như vậy, bảng chữ cái của chúng ta có nguồn gốc và tại sao nó phát triển và tại sao chữ có hình dáng vậy, ví dụ như chữ A.

Bảng chữ cái của người Sumer

Cuneiform [chữ hình nêm] là một trong những hình thức diễn tả bằng chữ viết được biết tới sớm nhất, khoảng thế kỷ 30 trước công nguyên.

Người sumer bắt đầu thử nghiệm với chữ ở gần thiên niên kỷ thứ tư Trước Công nguyên, ở Lưỡng Hà giữa sông Tigrin và Euphrates [gần Iraq] ngày nay. Giống như hầu hết hệ thống chữ viết, Cuneiform ban đầu được viết bằng cách chạm khắc, sau đó mới bằng việc viết lên những cục đất sét mềm những chữ tượng hình – hình ảnh đại diện cho một từ.

Từ gia cầm, ban đầu tồn tại bằng hình ảnh như một con chim. Hình ảnh dưới đây thể hiện quá trình trừu tượng, hợp lý hoá này. Theo thời gian, những hình ảnh cần đại diện không chỉ là sự vật mà có thể là âm thanh. Rõ ràng chữ đại diện cho âm thanh cần ít chữ hơn là chữ đại diện cho ý tưởng hay một điều gì đó.

Chúng ta sử dụng 26 chữ [trong khi người La Mã sử dụng chỉ 23 chữ tạo nên một bảng chữ cái xuất sắc nhất thế giới từng được biết tới]. Trong khi người Trung Quốc, ví dụ, phải học hàng nghìn ký tự để thể hiện.

Ban đầu chữ Cuneiform thậm chí có khoảng 1.500 chữ tượng hình. Một ngôn ngữ trong đó có hình ảnh, hoặc grapheme đại diện cho một điều hay một ý tưởng có những ưu điểm của nó: người ta có thể nói bất cứ ngôn ngữ nào trong khi sử dụng một hình thức văn bản.

Vì vậy, một người Trung Quốc từ các tỉnh phía Nam có thể nói một ngôn ngữ hoàn toàn khác với đồng bào của mình ở Bắc Kinh, nhưng khi không hiểu nhau họ có thể đọc chữ của nhau viết.


1.1 The pictographic origin of Cuneiform.


Hình 1.2 là ví dụ của chữ tượng hình Cuneiform, một trong những ví dụ sớm nhất của chữ viết mà chúng ta biết. Đây là một dạng chữ Cuneiform tồn tại thuần túy pictographic [hình ảnh đại diện] sớm nhất còn các hình thức sau thì trừu tượng hơn.

Hơn nữa do không có hướng dẫn, quy định tiêu chuẩn nên các dấu hiệu thường xoay cho phù hợp với hướng của văn bản – một con chim vẫn là một con chim nếu bị quay 360.


1.2 Proto-Cuneiform. Chủ đề: Cuộc săn gấu.


 Ngôn ngữ của người Sumer đã không được sử dụng khoảng 2000 năm trước Công Nguyên thì ảnh hưởng của chữ viết của nó [Cuneiform – Hình nêm] vẫn còn thấy được cho đến ngày hôm nay. Các ngôn ngữ của người Sumer đã được thay thế chủ yếu bởi những người Akkadian xâm lăng, tuy nhiên chữ của họ lại được sử dụng.

Dạng chữ viết này sử dụng cho tới thế kỷ thứ 5. Hình 1.3 cho thấy các Cylinder Cyrus [khối đất sét có khắc chữ], kể lại sự sụp đổ của thành Babylon năm 539 trước Công Nguyên.


1.3 Sự sụp đổ của thành Babylon năm 539 Trước Công Nguyên


Hy lạp – Chữ của các vị thần

Người Ai Cập đã phát triển một hệ thống tương tự của chữ tượng hình, mà nhiều người chúng ta thấy quen thuộc. Chữ tượng hình ban đầu cũng như Cuneiform, dùng hình ảnh đại diện, nhưng sau đó một vài hình ảnh trừu tượng hơn để thể hiện âm thanh.

Nhìn vào các hình thức khác nhau của chữ tượng hình Ai cập, chúng ta thấy hiểu hơn cách mà các hình ảnh đại diện trở nên trừu tượng hơn.

Trong khi bạn có thể quen với hình thức chữ tượng hình Ai Cập được khắc vào đá, chúng được tạo ra bằng một số hình thức và phong cách – tất cả chịu ảnh hưởng của môi trường mà chúng được viết, mục đích của chúng được viết và dự tính người có thể đọc.


2.1 Egyptian hieroglyphs.


Các chữ tượng hình Ai Cập đã phát triển thành một phong cách được gọi là chữ Thảo, tự do hơn, viết nhanh hơn và có nhiều chữ ghép.


2.2 Hieratic script, 12th Dynasty


 Một hình thức về sau phổ biến, đại diện cho hình thức trừu tượng nhất của chữ tượng hình Ai Cập. Mặc dù được viết chủ yếu bằng mực trên giấy cói, ví dụ nổi tiếng nhất được tìm thấy trên đá Granit là Rosetta Stone.

The Rosetta Stone [196BC] được tìm thấy bởi các học giả đi du lịch tới Ai Cập với Napoleon năm 1799, nó rất quan trọng vì là chìa khóa để giải mã chữ tượng hình Ai Cập cổ đại. Nó được viết bằng hai ngôn ngữ, ba kiểu chữ, hai hình thức của Ai Cập [hieroglyphic & demotic], với một bản dịch tiếng Hy lạp.


2.3 Demotic script, 3rd century BC


Câu chuyện về bảng chữ cái vẫn tiếp tục ở Ai Cập trong thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, nhưng người Ai Cập không phải là tác giả của nó.

Bảng chữ cái đầu tiên – Wadi el-Hol

Cho đến khi phát hiện hai chữ khắc [graffiti] tại Wadi el-Hol, Ai Cập, vào năm 1999, nói chung rằng sự khởi đầu của chữ cái có thể được truy nguồn từ khoảng 1600-1500 trước Công nguyên thuộc về người Phoenicia, một dân tộc sống trên bờ biển của Lebanon và Israel ngày nay.

Tuy nhiên việc phát hiện năm 1999 cho thấy, sớm hơn cả bảng chữ cái Do thái được phát triển tại quê hương giữa Syria với Plestine là được phát triển bởi những ngươì nói tiếng Do Thái sống tại Ai Cập.

Điều này củng cố giả thuyết có mối quan hệ giữa các chữ viết của Ai Cập, ảnh hưởng của những người Do Thái hay những bảng chữ cái đầu tiên của người Do Thái. Hơn nữa, nó đẩy ngược lại nguồn gốc của bảng chữ cái từ năm 1900 và 1800 trước Công nguyên.

Trong tấm hình Inscription 1 tại Wadi el-Hol dưới đây, các dấu hiệu đánh dấu màu đỏ là một đầu bò [aleph] – nguồn gốc của các A la tinh, và một chữ với lịch sử lâu dài, chữ hình nêm của người Sumer cũng sử dụng đầu bò như một dấu hiệu.


3.1 Inscription 1 from Wadi el-Hol. Viết từ phải qua trái.


Khoảng năm 1600 trước Công nguyên ở giữa hai hệ thống văn bản bị chi phối bởi thời gian, chữ hình nêm và chữ tượng hình Ai Cập, chúng ta thấy sự xuất hiện của hệ thống chữ cái khác như là những chữ Ugaritic [thế kỷ 14 trước Công nguyên], những chữ mà được phát triển tới ngày hôm nay từ Syria.

Các chữ Ugaritic sử dụng hơn 30 dấu hiệu Cuneiform [chữ hình nêm] đơn giản hóa. Và như vậy, bắt đầu câu chuyện của bảng chữ cái.


3.2 Abecedary from Ugarit


Proto Sinaitic

Đồng thời là chữ ugaritic ngắn được phát triển [một bảng chữ cái được chuyển thể từ chữ hình nêm], một hệ thống chữ cái đã xuất hiện, chịu ảnh hưởng bởi chữ tượng hình Ai Cập.

Bảng chữ cái Proto SINAITIC, các phụ âm được hình tượng hóa, nhưng mỗi hình tượng đại diện cho một âm thanh hơn là một điều, hay một ý tưởng. Bảng chữ cái Proto-SINAITIC thực sự đánh dấu điểm khởi đầu, nguồn gốc của các bảng chữ cái hiện đại, từ tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái tới tiếng Hy Lạp và tiếng Latin.

Xem thêm: Công Trình Công Nghiệp Là Gì ? Phân Cấp Công Trình Công Nghiệp


4.1 Proto Sinaitic script, c. 1500 BC.


Để ý tới sự khác biệt giữa dấu hiệu của Inscription 1 tại Wadi El-Hol [hình 3.1] và của proto-SINAITIC nguyên thủy [hình 4.1]. Loại thứ hai chỉ một chút trừu tượng.

Lưu ý đặc biệt là A [aleph] – đầu bò, trong đó có một đường đơn giản [ít nét]. Bạn cũng có thể thấy hình tượng đơn giản thể hiện một người đang cầu nguyện. Cắt đi phần dưới thân và xoay lại bạn sẽ có nguồn gốc của chữ E Latin.


4.2 The evolution of E


Nhưng làm thế nào và tại sao những chữ tượng hình này phát triển thành một loạt các biểu tượng trừu tượng? Mark-Alain Ouaknin, trong Mysteries of the Alphabet cho thấy rằng câu trả lời được tìm thấy trong quá trình chuyển từ tôn giáo đa thần tới Độc thần giáo:

Điều thứ hai trong mười điều răn: Ngươi không có thần nào khác trước ta. Người sẽ không làm cho ngươi có cùng bất kỳ hình ảnh hoặc chân dung bất kỳ nào được tạc/khắc ở trên thiên đường hay dưới đất…”Những điều này buộc người Samites, những người vẫn viết bằng ngôn ngữ tượng hình thoát ra khỏi phụ thuộc hình ảnh.

Tôi không bị thuyết phục bởi điều này. Cả hai chữ hình nêm của người Sumer và chữ tượng hình Ai Cập phát triển từ pictographs và nhiều dấu hiệu trừu tượng.

Cả hai nền văn minh vẫn Đa thần trong suốt những quá trình chuyển đổi. Vì vậy, tôi nghĩ thuyết độc thần và sự ngăn cấm tạc/khắc hình ảnh là không hợp lý.

Có lẽ trên thực tế, ngược lại thì đúng hơn: rằng việc sử dụng các chữ cái trừu tượng có thể là hình ảnh trừu tượng của Chúa – cấm lưu lại hình ảnh, nhưng được phép dùng các dấu hiệu để lưu lại sự hiện diện.

Người Phoenicia – Người Purple

Trong khi các phát minh của chữ viết, bản thân chính nó không bao giờ có thể tiến triển mà không có những cấu trúc cao thì sự ra đời của bảng chữ cái hiện đại là một câu chuyện hoàn toàn khác.

Bắt đầu từ chữ hình nêm, chúng ta có những cuộc phưu lưu tuyệt vời trong sử thi Gilgamesh và người đồng hành của ông, Enkidu. Nhưng hầu hết các bản đất sét được viết đều nói về những điều có vẻ “trần tục” như; danh sách, thuế, giao dịch buôn bán.


6.1 Phoenician inscription, late 11th century BC.


Bảng chữ cái của người Phoenician có lẽ là phát triển nhanh chóng, dễ đọc cùng với những người thương gia đi tới các cảng biển của vùng Địa Trung Hải. Những người Phoenicia làm thương nhân đã tạo thành một đế chế của họ tại dọc theo các bờ biển mà họ cập bến, Châu Phi, Tây Ban Nha và Sicily.

Carthage có lẽ nổi tiếng nhất trong các thuộc địa của người Phoenician. Tại đây bằng cách sử dụng những con ốc mà có thể tìm thấy tại bờ biển Lebanon ngày nay, sau đó phơi ra ánh sáng, lập tức vỏ của chúng chuyển qua màu tím xanh.

Họ lấy vỏ ốc màu này làm thuốc nhuộm. Và màu tím cùng trở thành đặc điểm của người Phoenicia, vậy nên họ được gọi là The Purple People.

Bảng chữ cái này đơn giản hiện đại và sử dụng tài tình của phụ âm, mà tại đó các di tích cuối cùng của chữ tượng hình đã bị xóa bỏ, nó như một “nhạc cụ” tuyệt vời; dễ dàng tìm hiểu, dễ viết và thích ứng.

Sự thích nghi của nó là nền văn hóa mà chúng ta rất quen thuộc; Các xã hội người Hy lạp và La mã là cơ sở hình thành nền văn minh hiện đại phương Tây và Tuscans, ít được biết tới hơn.


6.2 Phoenician alphabet


Bảng chữ cái Hy Lạp

Khai sinh ra nguyên âm


7.1 Greek Papyrus of Artemisia, 3rd century BC. See Thompson, p. 119.


Mặc dù chữ khắc Hy lạp tồn tại sớm nhất khoảng thế kỷ thứ 8 trước công nguyên – Olympic đầu tiên được tổ chức năm 776 trước công nguyên – nhiều học giả nghĩ rằng người Hy lạp đã áp dụng những nét chữ của người Do thái [bảng chữ cái Phoenician] từ ba thế kỷ trước đó. 

Trong thời gian dài [ít nhất cho đến khi sự phổ biến chữ của người Iolinan trong thế kỷ thứ 4 trước công nguyên], chữ của người Hy lạp không theo một hướng cố định, khi thì phải sang trái, khi thì trái sang phải. 

Trong các chữ Hy lạp chúng ta chứng kiến những sự loại bỏ các hình thức tượng hình trừu tượng, các hình nét thẳng.

Dựa trên những so sánh của bảng chữ cái Phoenician sau nay và các chữ Hy lạp cổ xưa [và chữ Hy lạp truyền thống, như Herodotus là ví dụ], có vẻ người Hy lạp chỉ đơn giản dựa trên hầu hết các ký tự của người Phoenician nhưng thêm các nguyên âm mà người Phoenician bỏ ra. 


7.2 Greek inscription from Thera, 8th century BC.


Etruscan

Người Etruscan đã đến Italy từ phía tây Tiểu Á [ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ]. Từ khoảng năm 750 trước Công nguyên, xa về phía bắc Naples, ảnh hưởng của Hy lạp đã có mặt tại Ý. Những người Italy cổ đam mê mọi thứ từ Hy lạp, họ là những người đầu tiên trang trí bằng những chữ khắc Hy lạp giả. 

Không chỉ nền văn minh Etruscan ảnh hưởng bởi người Hy lạp trong nghệ thuật, nghi lễ tôn giáo, mà quan trọng nhất trong câu chuyện của chúng ta, họ đã áp dụng bảng chữ cái Hy lạp. 

Rome có thể không có được một thị trấn hòan toàn là những người Etruscan, nhưng các vị vua Rome thì phải là người Etruscan. 

Sau khi các cuộc tấn công thảm khốc năm 524 trước Công nguyên, trên thuộc địa Hy lạp cổ xưa nhất – Cumae [một vị trí đẹp nằm trên một ngọn đồi cao trên bờ biển, cách mười dặm về phía bắc Naples], và những dịch chuyển văn hóa Estrucan tiếp theo của vua Rome, Tarquinius Auperbus, nền văn minh của Hy lạp từ từ nhạt dần. 


8.1 Abecedary from Marsiliana, Etruria, ca. 700 BC.


Trong vòng vài thế kỷ, Cộng hòa Lã mã thống trị nước Ý và hoàn toàn hấp thụ nền văn minh Etruscan. Tuy nhiên bảng chữ cái của Hy lạp vẫn sống sót và thịnh vượng nhờ sự bành trướng của đế chế La Mã hùng mạnh.

Latin

Chiếc ghế người nhạc công và câu chuyện của Z 

Các bảng chữ cái chúng ta sử dụng hiện nay được tao ra bởi người Etruscan và La Mã từ tiếng Hy lạp. Nó chỉ có 23 chữ cái, các chữ J, U và W không tồn tại. Chữ J được đại diện bởi I, U được viết như là V và không có nhu cầu với chữ W. Còn câu chuyện của chữ Z thì vô cùng thú vị. 

Chữ G [dựa trên C] được thêm vào. Chữ Z được vay mượn từ tiếng Hy Lạp, sau đó không sử dụng, chữ G thay vị trí của nó. 

Sau này một chút người Lã Mã quyết định họ cần chữ Z [khi văn học Hy Lạp thịnh hành, họ bắt đầu giới thiệu rất nhiều từ Hy lạp], họ lại dùng chữ Z, nhưng vì vị trí của nó đã được thế bằng chữ G, vì vậy chữ Z được đặt ở vị trí cuối cùng trong bản chữ cái Alphabet cho tới ngày nay. 


9.1 Detail from Trajan inscription, ca. 114 AD.


RUSTIC CAPITALS [chữ hoa rustic] 

Từ những chữ hoa Hy lạp dạng khối [bảo quản trên bệ cột Trajan – 114 trước công nguyên], đã phát triển loại chữ Hoa Rustic với hình thức tự do hơn và bề ngang hẹp [condensed].


10.1 Rustic Capitals, ca. 4th century.


Uncial & Half Uncial 

Các chữ “thường – lowcase” bắt đầu xuất hiện. 

Hầu hết những chữ viết được thực hiện trên giấy cói và trên tường, không chính thức và nhanh chóng. Những bài thơ mà Martialis đọc cho bạn bè vào ban đêm được viết bằng chữ thảo – cursive một cách nhanh chóng với bút bằng cây sậy nhúng vào mực. 

Marcus Valerius Martialis [sinh 01/03 khoảng những năm 38-41 AD và mất khoảng 103 – 104 AD] một nhà văn nổi tiếng từ Hispania [của bán đảo Iberia]. 

Các chữ thảo “cũ” là rất khó đọc nhưng loại “mới”, được phát triển từ thế kỷ thứ 4 trở đi thì tương tự như văn bản ngày này. Nó sinh ra từ các chữ Carolingian minuscule [một sản phẩm của thời kỳ Phục hưng Carolingian] – có thể coi là Adam & Eve của tất cả những loại chữ in ấn được sử dụng ngày nay. 

Phát minh lớn thứ hai là Codex, đến cùng thời gian. Trong khi người La Mã sử dụng giấy cói cuộn, thì vào thế kỷ thứ tư một số người đã có ý tưởng cắt các miếng da hình chữ nhật và may chúng lại với nhau – nhờ đó tạo ra cuốn sách có thể đọc ngẫu nhiên. Cùng với việc một loại chữ dễ đọc thì điều này được coi là một trong những phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại.


11.1 Uncial, France, 7th century.


11.2 Left: Insular, England, 8th century. Right: Visigothic, Spain, France, 9th century.


Tại Pháp, Merovingian; Visigothic tại bán đảo Iberia [hình 11.2]; Beneventan [hình 11.3] tại miền Nam Italy [Trong đó cho thấy tính năng của Half-Uncial, và sau này là Roman cursive; và tại Anh và Ireland, các hình dạng Insular [hình 11.2]


11.3 Beneventan script, ca. 1100.


Thời kỳ Carolingian tới Gothic

Một hoàng đế và một người Yorkshire [xem wiki] 

Một tác giả ẩn danh của Carmen de carolo Magno nhắc tới Charlemagne như là “người đứng đầu đáng kính của Châu Âu” và “cha của Châu Âu]. 

Mặc dù nó có vẻ phóng đại thì ảnh hưởng của Charlemagne là rất đáng kể và lâu dài. Ông đã thành công trong việc thống nhất Tây Âu lần đầu tiên kể từ thời đế chế La Mã. Một người đàn ông bị ám ảnh về mở rộng vương quốc của mình, ông đã tìm cách cải cách mọi lĩnh vực. 

Liên quan tới câu chuyện của chúng ta, ông đã nỗ lực cải cách chữ viết và giao việc cho một người Yorkshire, tên là Alcuin of York, về làm hiệu trưởng và cũng là thầy giáo dạy học. Alcuin đã ra sức thống nhất các kiểu chữ, những nỗ lực này với sự ủng hộ của Charlemagne và Giáo hội đã mang lại Carolingian minuscule [hay Carolingian script] 

Một cuốn sách cầm tay đẹp, dễ đọc; với ascender dài và descender, các chữ viết trên một dòng, canh trái, những chữ mở và tròn với ít ligature [nét] và các khuôn chữ [letterform] đa dạng. 

Những chữ Carolingian ban đầu chia sẻ một số tính năng với Roman Half-Uncial [các bộ “chân đỉnh” trên các ascender của b, d, h và l, vào thế kỷ thứ 11 thì được thay thế bởi các chân dạng tam giác, tương tự như những gì ta thấy ở kiểu chữ roman của incunabula – nửa sau thế kỷ 15]. 

Với Charlemagne và Giáo hội phía sau, kiểu chữ Carolingian nhanh trong lan rộng khắp châu Âu, xâm nhập vô số lĩnh vực. Tới nửa sau thế kỷ thứ mười, Carolingian Script đã lan tới Anh, và thay thế các hình thức của Insular script. Tại Tây Ban Nha nó thay thế Visigothic. 

Tuy vậy từ thế kỷ 12 các kiểu chữ Carolingian được thay thế bằng một hình thức mở, đậm hơn, chiều ngang hẹp, góc cạnh, đơn giản hơn, các chữ ghép, gần gũi với các dạng Gothic script. Và như Delorez viết: “Nó là một trong những bí ẩn của lịch sử”. 

‘Nguyên nhân của sự biến đổi từ Carolingian Scirpt thành Pregothic hoặc “Gothicizing” của Carolingian Script được tranh luận trong một thời gian dài, và các cuộc thảo luận gần như chấm dứt mà không có được một lời giải thích được chấp nhận chung’ – Derolez, tr.68. 

Có lẽ có thể giải thích một phần từ những kiến trúc Gothic khắp châu Âu. Tất nhiên nó từ những chữ Gothic trong các cuốn sách, Textualis [chính xác hơn là Textualis Formata].


12.1 Trái: Late Carolingian script, between 1033 & 1053. Giữa: Pregothic script, mid-twelfth century. Phải: Gothic script [Textualis Formata], between 1304 & 1321.


12.2 Left: Tironian et in this detail from a 14th century manuscript, written in Textualis Formata. The first example in the first line: Arbres et fleurs et ce que orne. Right: Detail from Gutenberg’s 42-line Bible, ca. 1455. Note the tironian et on the last line.


Roman

Hình thành typography

In ấn và chủ nghĩa nhân văn thế kỷ 15 bắt đầu liên quan chặt chẽ, khi mà các nhà triết học nhân văn và những philogogist [nghĩa đen; những người yêu thích các từ], có nghĩa là họ yêu kiểu Latin cổ điển, đưa lại những kiểu Latin cổ điển thành ngôn ngữ chung của tầng lớp họ, Không ngạc nhiên khi những chữ trong bảng chữ cái Roman đầu tiên của những nhà in sớm nhất chỉ sử dụng 23 chữ của thời cổ điển. 

Các chữ J đầu tiên trong in ấn được sản xuất tại Ý, và đầu thế kỷ 16. Các hình thức văn bản đầu tiên được sử dụng trong thời Trung cổ, ở Pháp, Hà Lan,

W là một chữ không liên quan tới Latin nhưng được thường xuyên sử dụng trong các ngôn ngữ mẹ đẻ của phía tây. Bước vào thế kỷ 17 nó được tạo như chữ VV, nhưng bạn cũng thấy hai chữ V được giản lược và nhập lại thành chữ W. 


13.1 Trái: Early roman of Sweynheim & Pannartz, Rome, 1469. Phải: Jenson, Venice, 1472.


Lúc này chúng ta đang ở thế kỷ 17, khoảng 5.000 năm sau khi người Sumer bắt đầu tạo chữ trên đất sét. Chúng ta có một bảng chữ cái gồm 26 chữ cái, chữ hoa và các chữ thường. Rất khó để có một cái nhìn rõ ràng về lịch sử của bảng chữ cái. 

Không có Thuyết Tiến Hóa của Darwin ở đây, không có gì là chính xác nhất. Đã có rất nhiều kiểu chữ được phát triển song song, một số biến mất và xuất hiện lại, một số có thể được thấy trong tâm trí của những người như Alcuin of York. Và chúng ta không biết điều gì xảy ra nếu Hannibal hành quân thẳng tới Rome sau khi chiến thắng trận Cannae thay vì đi quanh đó. 

Ghép các mảng với nhau.

Chữ viết và Bảng chữ cái phát triển vì một số lý do. Chúng ta có thể giải thích sự chuyển đổi từ chữ tượng hình tới những đường vạch, các hình dạng trừu tượng hơn. Hơn nữa nó phụ thuộc vào các khu vực, quốc gia, sự thành công của mỗi quốc gia, những gì về chính trị, phi chính trị và địa lý. Một kẻ xâm lượng chiến thắng sẽ phổ biến văn hóa của họ, gồm cả ngôn ngữ, nói và viết. 

Bối cảnh là một yếu tố quan trọng, những chữ khắc trên đá ghi lại các chiến tích của các hoàng đế là cái gì đó khác biệt với một quảng cáo cho một nhà chứa trầy xước trên một bức tường tại Pompeli. 

Các chất liệu để viết [đá, đất sét, viên sáp, gỗ, kim loại, giấy cói, giấy da, giả da] thực hiện bằng các dụng cụ [cây sậy, đục, lông ngỗng, ngòi bút rộng…] tất cả đều ảnh hưởng tới hình dạng của bảng chữ cái. Tốc độ của bàn tay là cũng là một yếu tố khác. 

Một bài tập thú vị khi viết các chữ cái Hoa. 

ABCDEFGHIJKLMNOPQRSTUVWXYZ

Lần đầu hãy từ từ cẩn trọng bằng tay thuận của mình. Sau đó ghi lại ở tốc độ gấp hai lần. Cuối cùng ghi nhanh nhất có thể. Các chữ được viết nhanh thể hiện sự giản lược nét và ít nhấc bút khỏi giấy, với những chữ có thể gọn gàng ở vài chữ đầu và sau đó tự do hơn hơn. 

Rồi bạn có thể xem lại những chữ mà dùng tốc độ nhanh nhất, hoặc dùng tay không thuận của bạn và so sánh các kết quả. 


14.1. Lịch sử tóm tắt của chữ A.


Tôi đã tập trung vào hệ thống chữ mà đã tạo nên sự phát triển của bảng chữ cái Latin, tất nhiên câu chuyện của chữ viết rộng rãi và sâu sắc hơn. Tôi đã không đề cập tới các hệ thống chữ phát triển độc lập [như chữ Trung Quốc và Nhật Bản] và những hệ thống khác vẫn còn nhiều dấu ấn của proto-Sinaitic và bảng chữ cái Phoenicia, như Hebrew và Ả Rập. 

Câu chuyện của sự tiến hóa của chữ len lỏi đi cùng lịch sử, văn minh, chính trị, tôn giáo, kinh tế và vô số yếu tố khác. Vì vậy, lần sau khi bạn đặt bút lên giấy hoặc gõ bàn phím của mình, hãy dành chút thời gian để suy nghĩ về nguồn gốc của những dấu hiệu đơn giản, nhưng mang tới cho bạn một sực mạnh đáng kinh ngạc – sức mạnh để mô tả mọi thứ.

Chữ Quốc Ngữ 

Việc chế tác chữ Quốc ngữ Việt Nam là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò của Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre De Rhodes. 

Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam [giúp việc cho các linh mục người Âu]. 

Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt – Bồ Đào Nha – Latin [trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt] và cuốn Phép giảng tám ngày. 

Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài [in chung trong từ điển] có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ 17. 

Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt – Bồ – La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt – Bồ – La [1772], tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống mà chúng ta đang dùng hiện nay.

Tiếng Việt hiện nay có 6 thanh điệu ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Tiếng Việt tương đối khó phát âm cho người nước ngoài.

Ngày nay do sử dụng ký tự Latin [a, b, c,…] của chữ Quốc ngữ, việc giao tiếp ngôn ngữ trên Internet trở nên dễ dàng hơn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Nôm, chữ Hán…

Video liên quan

Chủ Đề