Tại sao những năm gần đây sản lượng thủy sản đánh bắt của Nhật Bản giảm

YÊU CẦU GỌI LẠI

Nhập số điện thoại và câu hỏi thắc mắc của bạn để được cán bộ tư vấn của công ty liên lạc hỗ trợ.




Tư vấn hỗ trợ 24/7, kể cả ngày lễ tết.

Tiết 2: Các ngành kinh tế và các vùng kinh tế

[trang 80 sgk Địa Lí 11]:– Dựa vào bảng 9.4 và kiến thức của bản thân, hãy cho biết những sản phẩm công nghiệp nào của Nhật Bản nổi tiếng trên thế giới?

Trả lời:

Thiết bị điện tử, người máy, tàu biển, ô tô, vô tuyến truyền hình, máy ảnh, sản phẩm lụa tơ tằm và tơ sợi tổng hợp.

[trang 80 sgk Địa Lí 11]:– Quan sát hình 9.5, nhận xét về mức độ tập trung và dặc điểm phân bố công nghiệp của Nhật Bản.

Trả lời:

– Công nghiệp Nhật Bản có mức độ tập trung cao, nhiều trung tâm và cụm trung tâm lớn, nhiều dải công nghiệp với nhiều trung tâm công nghiệp.

– Các trung tâm công nghiệp tập trung chủ yếu ở ven biển, đặc biệt phía Thái Bình Dương.

[trang 81 sgk Địa Lí 11]:– Tại sao nông nghiệp chỉ giữ vai trò thứ yếu trong nền kinh tế Nhật Bản?

Trả lời:

Nông nghiệp giữ vị trí thứ yếu trong nền kinh tế, vì: diện tích đất nông nghiệp nhỏ và ngày càng bị thu hẹp.

[trang 82 sgk Địa Lí 11]:– Tại sao đánh bắt hải sản lại là ngành kinh tế quan trọng của Nhật Bản?

Trả lời:

– Nhật Bản nằm kề các ngư trường lớn, làm chủ nhiều vùng biển rộng lớn.

– Cá là nguồn thực phẩm chủ yếu và quan trọng của người Nhật.

– Sự phân chia vùng biển quốc tế đã làm giảm một số ngư trường. Mặt khác, việc thực hiện Công ước quốc tế về việc cấm đánh bắt cá voi,., đã làm sản lượng cá đánh bắt của Nhật giảm sút. Tuy nhiên, so với thế giới, sản lượng này vẫn cao, chỉ đứng sau Trung Quốc, Hoa Kì, In-đô-nê-xi-a, Pê-ru.

Bài 1:Chứng minh rằng Nhật Bản có nền công nghiệp phát triển cao.

Lời giải:

– Giá trị sản lượng công nghiệp đứng thứ hai thế giới.

– Nhật Bản chiếm vị trí hàng đầu thế giới về máy công nghiệp và thiết bị điện tử, người máy, tàu biển, thép, ô tô, vồ tuyến truyền hình, máy ảnh, sản phẩm tơ tằm và tơ sợi tổng hợp, giấy in báo,…

– Một số ngành chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu công nghiệp: chế tạo, sản xuất điện tử, xây dựng và công trình công cộng, dệt.

Bài 2:Trình bày những đặc điểm nổi bật của nông nghiệp Nhật Bản. Tại sao diện tích trồng lúa gạo của Nhật Đản giảm?

Lời giải:

– Những đặc điểm nổi bật:

+ Giữ vai trò thứ yếu, tỉ trọng chỉ chiếm khoảng 1%. Diện tích đất ít, chỉ chiếm chưa đầy 14% lãnh thổ.

+ Phát triển theo hướng thâm canh, ứng dụng nhanh những tiến bộ khoa học – kĩ thuật và công nghệ hiện đại để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và tăng chất lượng nông sản.

+ Trồng trọt: lúa gạo là cây trồng chính [chiếm 50% diện tích đất canh tác] ; các cây trồng phổ biến: chè, thuốc lá, dâu tằm,…

+ Chăn nuôi tương đối phát triển; vật nuôi chính: bò, lợn, gà.

+ Sản lượng hải sản đánh bắt hàng năm cao, chủ yếu là cá thu, cá ngừ, tôm, cua,.. Nghề nuôi trồng hải sản [tôm, rong biển, sò, trai lấy ngọc,…] được chú trọng phát triển.

– Diện tích trồng lúa gạo của Nhật Bản giảm, vì:

+ Diện tích đất nông nghiệp nhỏ và ngày càng bị thu hẹp.

+ Cơ cấu bữa ăn của người Nhật thay đổi, xu hướng gần với người châu Âu, giảm lượng gạo trong khẩu phần bữa ăn.

+ Dành một số diện tích đất thích hợp hơn cho một số cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn lúa gạo [chè, thuốc lá, dâu tằm…].

Bài 3:Dựa vào bảng số liệu sau:

SẢN LƯỢNG CÁ KHAI THÁC

[Đơn vị: nghìn tấn]

Năm 1985 1990 1995 2000 2001 2003
Sản lượng 11411,4 10356,4 6788,0 4988,2 4712,8 4596,2

Nhận xét và giải thích về sự thay đổi sản lượng cá khai thác của Nhật Bản qua các năm, từ 1985 đến 2003.

Lời giải:

– Sản lượng cá giảm nhanh, liên tục qua các năm, từ 1985 đến 2003. Sản lượng cá năm 2003 chỉ bằng 40,3% năm 1985.

– Nguyên nhân: sự phân chia vùng biển quốc tế đã làm giảm một số ngư trường trước đây Nhật làm chủ. Mặt khác, việc thực hiện Công ước quốc tế về việc cấm đánh bắt cá voi,., đã làm sản lượng cá đánh bắt của Nhật giảm sút.

Hỏi đáp: Tại sao ngành thủy sản lại là ngành kinh tế quan trọng của Nhật Bản?

Tại sao đánh bắt hải sản lại là ngành kinh tế quan trọng của Nhật Bản? Đâu là nguyên nhân chính và tương lai của ngành thủy sản Nhật Bản trong thời gian tới sẽ ra sao? Hãy đọc bài viết dưới đây để có cái nhìn cụ thể về ngành đánh bắt hải sản Nhật Bản này nhé!

Danh mục bài viết:

I. Tại sao ngành thủy sản lại là ngành kinh tế quan trọng của Nhật Bản

1. Nhật Bản nằm kề các ngư trường lớn làm chủ nhiều vùng biển rộng

2. Các trung tâm công nghiệp tập trung, quy mô lớn

3. Cá là nguồn thực phẩm chủ yếu và quan trọng của người Nhật

4. Phương tiện đánh bắt hiện đại, tiên tiến, hệ thống cảng biển phát triển


II. Làm thủy sản tại Nhật ngành HOT cho lao động Việt Nam

1. Ngành thủy sản có mức lương tăng vọt năm 2019

2. Các đơn hàng của ngành thủy sản hiện nay tại Laodongxuatkhau.vn


2.1 Đơn hàng Chế biến thủy sản tại Hokkaido

2.2 Đơn hàng nuôi trồng Hàu tuyển 6 cặp vợ chồng

2.3 Chế biển thủy sản gia nhiệt tại Hiroshima


2.4 Hình ảnh thi tuyển các đơn hàng thủy sản tại Laodongxuatkhau.vn

3. Tại sao nên lựa chọn Laodongxuatkhau.vn

I. Tại sao ngành thủy sản lại là ngành kinh tế quan trọng của Nhật Bản?

Để trả lời câu hỏi này rõ nhất, bạn phải quan tâm đến 3 vấn đề chính đó là điều kiện tự nhiên; điều kiện kinh tế - xã hội và nhân tố con người.
1. Nhật Bản nằm kề các ngư trường lớn, làm chủ nhiều vùng biển rộng lớn.

Vị trí địa lý Nhật Bản 4 mặt đều giáp biển là điều kiện để ngành đánh bắt hải sản phát triển. 4 mặt tiếp giáp biển giúp diện tích đánh bắt lớn.

Ngoài ra, biển Nhật Bản có sự giao lưu giữa 2 luồng hải lưu tạo điều kiện hình thành ngư trường lớn.

Thông tin cần biết
Nghề cá Nhật Bản hoạt động trên phạm vi rộng lớn, bao gồm khai thác ven bờ, khai thác xa bờ và khai thác viễn dương.
Ngoài ra, nghề nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nghề nuôi biển đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành nuôi trồng thuỷ sản thế giới.
Nhật Bản còn dẫn đầu thế giới về công tác bảo vệ nguồn lợi biển và nhân giống thuỷ sản từ năm 1951, nhằm nâng cao sản lượng và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản.
Các chính sách và hệ thống pháp luật về nghề cá và thương mại thuỷ sản của Nhật Bản cũng được hình thành và thay đổi cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước này.
2. Các trung tâm công nghiệp tập trung, quy mô lớn

Các trung tâm công nghiệp này chủ yếu ở ven biển, đặc biệt phía Thái Bình Dương, rất thuận tiện cho việc sản xuất.

Nguồn thủy sản khai thác ngoài biển theo mùa, vào từng thời điểm sẽ có loại thủy sản khác nhau. Các nhà máy thủy sản ở Nhật thường chế biến các loại thủy sản như: cá biển, tôm biển, các loại sò…

Để giữ được cá tươi lâu hơn, các khu chế biến thủy sản luôn làm lạnh. Nhiệt độ chênh lệch giữa môi trường bên ngoài và bên trong rất lớn. Nhiệt độ trong nhà máyở khoảng 22 – 23 độ C. Trong phòng bảo quản sản phẩm nhiệt độ trung bình khoảng 12 độ C.


Chúng ta hãy cùng tham quan 1 nhà máy chế biến thủy hải sản lớn hàng đầu Nhật Bản nhé:

Đây chính là nhà máy tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc. Vì sản lượng đánh bắt thủy hải sản lớn, các khu công nghiệp lớn có nhu cầu nhân lực cao mà nguồn nhân lực trong nước lại không đáp ứng được.

Vì thế, các lao động Việt Nam khi lựa chọn đơn hàng đi XKLĐ có thể lựa chọn
ngành nghề chế biến thủy sản Nhật Bản này nhé! Liên hệ Hotline 0867.165.885để được hỗ trợ tư vấn đăng kí đơn hàng nhanh nhất.
3. Cá là nguồn thực phẩm chủ yếu và quan trọng của người Nhật.

Suốt trong nhiều năm, số cá Nhật Bản đánh bắt được lớn hơn bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Người Nhật cũng tiêu thụ một lượng lớn cá và các hải sản.

Là quốc gia khai thác thuỷ sản lâu đời nhất thế giới, có thói quen ăn thuỷ sản từ thời khai quốc nên Nhật Bản coi thuỷ sản là nguồn thực phẩm chính của họ.

Vì vậy, ngư nghiệpNhật Bảnđóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp, quản lý và tái thiết nguồn lợi thuỷ sản, đảm bảo sự ổn định bền vững nguồn thực phẩm trong nước.
Thông tin liên quan
Trong những năm gần đây, sự phân chia vùng biển quốc tế đã làm giảm một số ngư trường.Nhật Bản cũng như các quốc gia có ngành ngư nghiệp phát triển khác đều phải chứng kiến tình trạng cạn kiệt của các ngư trường ven biển và xa bờ.
Mặt khác, việc thực hiện Công ước quốc tế về việc cấm đánh bắt cá voi... đã làm sản lượng cá đánh bắt của Nhật giảm sút. Tuy nhiên, so với thế giới, sản lượng này vẫn cao.Hiện nay ngư nghiệp nước này chỉ còn xếp thứ ba trên thế giới.
Để bù đắp sản lượng cá thiếu hụt, Nhật Bản phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản. Nước này còn tăng số lượng hàng thuỷ hải sản nhập khẩu, năm 2002 đạt 3,88 triệu tấn. Cá vẫn đóng vai trò quan trọng trong bữa ăn và chiếm gần 40% lượng protein động vật được hấp thụ của người Nhật – con số này cao hơn nhiều so với hầu hết các nước phương Tây.
4. Phương tiện đánh bắt hiện đại, tiên tiến, hệ thống cảng biển phát triển.

Với hệ thống đánh bắt tiên tiến, cảng biển lớn, ngành đánh bắt thủy sản tại Nhật Bản vẫn chiếm lĩnh được thị trường, cung cấp được 1 lượng lớn thủy hải sản cho các vùng trong và ngoài nước.

TheoThe Fish Site, các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản ở Nhật Bản đang ngày càngáp dụng công nghệ hiện đại vào chăn nuôi, trong đó có sử dụng cácrobot thông minh.

Năm 2014, tại tỉnh Tottori miền Tây Nhật Bản - nơi ngành nuôi trồng cá hồi rất phát triển, các hộ nuôi cá đã áp dụng công nghệ mới, sử dụng robot cho ăn tự động có tên Nissui. Những con robot này sẽ cung cấp đủ lượng thức ăn cho cá nuôi ngay cả trong điều kiện thời tiết xấu.

II. Làm thủy sản tại Nhật ngành HOT cho lao động Việt Nam

Trong những năm gần đây, số lượng lao động Việt Nam tham gia XKLĐ Nhật Bản ngày càng tăng. Trong đó, các đơn hàng trong ngành thủy sản làm việc tại Nhật cũng thu hút rất nhiều lao động tham gia, đặc biệt là các đơn hàng về chế biến thủy sản.
1. Ngành thủy sản có mức lương tăng vọt trong năm 2019

Những năm trước mức lương của các đơn hàng ngành thủy sản chỉ ở mức trung bình dao động từ 125.000 - 150.000 Yên/tháng, nhưng tháng 1/2017 trở đi mức lương cơ bản tại Nhật tăng đồng nghĩa với mức lương của ngành thủy sản cũng cao hơn rất nhiều.



Mức lương ngành thủy sản tăng mạnh

So với các đơn hàng ngành nông nghiệp, mức lương ngành thủy sản cũng cao hơn hiện nay trung bình từ 145.000 - 160.000 Yên/tháng tương đương từ 29 - 33 triệu đồng/tháng. Đây là mức lương không hề nhỏ đối với người lao động so với việc làm tại quê nhà.

Bên cạnh đó, Nhật Bản bao quanh bởi biển nên ngành thủy sản tại đây cực kì phát triển, các xí nghiệp chế biến, nuôi trồng quanh năm nên công việc làm thêm rất nhiều. Các bạn không cần phải lo lắng là công việc này có việc làm thêm hay không? hay có vất vả không?.

2. Các đơn hàng của ngành thủy sản hiện nay tại Laodongxuatkhau.vn

Các ngành nghề thủy sản được phép tiếp nhận lao động sang Nhật làm việc:
Ngư nghiệp: 2 loại nghề, 9 công việc được tuyển chọn
NgànhNghề được chọn
1Nghề cá đi tàuNghề đánh cá nhảy
Cá ngừ đường dài
Câu cá bằng mồi mực
Lưới vây
Lưới re
Lưới kéo
Nghề đánh cá lưới cố định
Nghề đánh cá lồng tôm, cua
2Nghề nuôi trồng thủy sảnNghề nuôi trồng sò điệp
Chế biến thực phẩm
NgànhNghề được chọn
3Nghề chế biến thực phẩm thuỷ sản gia nhiệtChế biến bằng phương pháp chiết
Chế biến bằng phương pháp sấy khô
Chế biến thực phẩm ướp gia vị
Chế biến thực phẩm hun khói
4Nghề chế biến thực phẩm thuỷ sản không gia nhiệtChế biến thực phẩm muối
Chế biến thực phẩm khô
Chế biến thực phẩm lên men
5Hàng thuỷ sản nghiền thành bột
Nghề làm chả cá kamaboko

Các đơn hàng ngành thủy sản tại Laodongxuatkhau.vn
2.1 Chế biến thủy sản tại Hokkaido

Số lượng: 90 Nữ

Độ tuổi: 18 - 29

Địa điểm làm việc: Hokkaido

Thời hạn hợp đồng: 5 năm

Mức lương cơ bản:
145.721 Yên

Lịch thi tuyển:

- Hạn nộp hồ sơ: 04/02/2022

- Thi tuyển: 09/02/2022

- Xuất cảnh: Tháng 07/2022
2.2 Đơn hàng Nuôi trồng hàu tuyển cặp vợ chồng tại Tottori
Số lượng: 6 cặp vợ chồng

Độ tuổi:

- Vợ: 20 - 31

- Chồng: 22 - 35

Địa điểm làm việc: Tottori

Thời hạn hợp đồng: 5 năm

Mức lương cơ bản:
158.352 Yên

Lịch thi tuyển:

- Hạn nộp hồ sơ: 11/02/2022

- Thi tuyển: 15/07/2022

- Xuất cảnh: Tháng 07/2022
2.3 Chế biến thủy sản gia nhiệt tại Hiroshima

Số lượng: 35 Nam/nữ

Độ tuổi: 19 - 31

Địa điểm làm việc: Hiroshima

Thời hạn hợp đồng: 5 năm

Mức lương cơ bản:
148.953 Yên

Lịch thi tuyển:

- Hạn nộp hồ sơ: 14/02/2022

- Thi tuyển: 18/07/2022

- Xuất cảnh: Tháng 07/2022
Bạn cần được tư vấn về mức lương, chi phí, điều kiện tham gia đơn hàng làm việctại Nhật Bản? Hãy NHẬP SỐ ĐIỆN THOẠI và yêu cầu gọi lại để được cán bộ tư vấn của chúng tôi liên lạc hỗ trợ.


2.4 Hình ảnh thi tuyển các đơn hàng thủy sản tại Laodongxuatkhau.vn






Hình ảnh thi tuyển đơn hàng Chế biến thủy sản gia nhiệt 90 Nữ tại Laodongxuatkhau.vn ngày 14/08 tại Laodongxuatkhau.vn

3. Tại sao nên lựa chọn Laodongxuatkhau.vn
1. Quy mô lớn

Chúng tôi tự hào là một trong 5 đơn vị lớn nhất và uy tín nhất trong thị trường XKLĐ Nhật Bản trong nước. Chúng tôi không ngừng ngày càng mở rộng quy mô cũng như chất lượng của mình để mang lại những dịch vụ tốt nhất cho người lao động.

Với 2 trụ sở văn phòng chính cùng 8 trung tâm đào tạo trước và sau xuất cảnh giúp giải quyết các vấn đề thủ tục hồ hơ một cách nhanh nhất và chính xác nhật cho người lao động. Với số lượng xuất cảnh tăng lên mỗi năm từ 8000 - 10.000 lao động xuất cảnh, Chúng tôi luôn tụ hào là nơi trao gửi niềm tin của người lao động.



Cơ sở vật chất khang trang và đầy đủ vật dụng tiện nghi tại Laodongxuatkhau.vn
.


2. Chi phí tham gia thấp

Tại Chúng tôi, chúng tôi luôn đưa ra mức chi phí tham gia thấp nhất được bộ LĐ, TB&XH cấp phép dành cho người lao động.

Các bạn sẽ được làm việc trực tiếp với các cán bộ tuyển dụng của chúng tôi, không thông qua bất kì môi giới, cán bộ, hay người nào khác tránh phát sinh ra các chi phí khác gây khó khăn cho người lao động.

Mọi quá trình thu chi các khoản chi phí, Chúng tôi luôn minh bạch tài chính và có giấy tờ cho người lao động được biết.

Đặc biệt, với những gia đình khó khăn Chúng tôi còn hỗ trợ các bạn những chi phí cần thiết như chi phí khám sức khỏe, chi phí đi lại trong quá trình tham gia,...giúp các bạn dễ dàng và tin tưởng chúng tôi hơn. Chúng tôi còn hỗ trợ hồ sơ đối với các bạn muốn vay vốn tham gia XKLĐ Nhật Bản tại các ngân hàng địa phương.


3. Đơn hàng lớn, nhiều cơ hội lựa chọn

Mỗi tháng Chúng tôi về từ 40 - 55 đơn hàng mới đủ các ngành nghề như xây dựng, cơ khí, chế biến, may mặc,... số lượng đơn hàng lớn giúp người lao động dễ dàng hơn trong việc lựa chọn công việc phù hợp với mình.



Thi tuyển đơn hàng mộc nội thất


Đơn hàng sơn kim loại


Đơn hàng chế biến thực phẩm


Hình ảnh thi tuyển của các bạn thực tập sinh tham gia các đơn hàng tại Laodongxuatkhau.vn

Mức lương của mỗi đơn hàng khá cao, dao động từ 145.000 - 170.000 Yên/tháng tương đương từ 29 - 35 triệu đồng. Đây là mức thu nhập không nhỏ so với việc người lao động làm việc tại quê nhà.


Chủ xí nghiệp trực tiếp gặp mặt, giao lưu tăng quà cho các bạn thực tập sinh đã đỗ đơn hàng.


Những cái ôm, cái bắt tay luôn tạo được động lực cho các bạn thực tập sinh và gia đình của họ.


Chúng tôi luôn nhận được sự tin tưởng của người lao động và xí nghiệp Nhật Bản

Chúng tôi luôn cam kết mang lại những chất lương tốt nhất, tạo dựng niềm tin lâu bền nhất đến với người lao động. Cảm ơn các bạn đã luôn tin tưởng và đồng hành cùng chúng tôi!

TƯ VẤN XKLĐ NHẬT BẢN 24/7

Bạn có thắc mắc cần giải đáp, hãy liên hệ với cán bộ tư vấn

Minh Hoàn [Mr]: 0867 165 885

Phạm Chung [Mr]: 0972 859 695

Hỗ trợ tư vấn 24/7 qua: Call, Message, Zalo, SMS
Nếu không tiện nói chuyện qua điện thoại hoặc nhắn tin ngay lúc này, bạn có thể YÊU CẦU GỌI LẠI bằng việc nhập số điện thoại vào form bên dưới để được cán bộ tư vấn của công ty liên lạc hỗ trợ.


Bài 3 trang 83 SGK Địa lí 11

Đề bài

Dựa vào bảng số liệu sau:

Nhận xét và giải thích sự thay đổi sản lượng cá khai thác của Nhật Bản qua các năm, từ 1985 đến 2003.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Phân tích bảng số liệu và giải thích.

Lời giải chi tiết

- Nhận xét:

Sản lượng cá khai thác có xu hướng giảm liên tục trong giai đoạn từ 1985 - 2003: từ 11411,4 nghìn tấn [1985] xuống còn 4956,2 nghìn tấn [2005], giảm 2,48 lần.

- Giải thích:

Nguyên nhân: do nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện Công ước về biển quốc tế năm 1982, kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí nên việc đánh bắt khai thác cá xa bờ và ở vùng biển sâu của Nhật Bản bị thu hẹp lại.

Loigiaihay.com

  • Ngành công nghiệp Nhật Bản

    Giá trị sản lượng công nghiệp của Nhật Bản đứng thứ hai thế giới, sau Hoa Kì.

  • Ngành dịch vụ của Nhật Bản

    Dịch vụ là khu vực kinh tế quan trọng của Nhật Bản, chiếm 68% giá trị GDP [năm 2004]

  • Nền nông nghiệp Nhật Bản

    Nông nghiệp có vai trò thứ yếu trong nền kinh tế Nhật Bản ; tỉ trọng của nông nghiệp trong GDP hiện chỉ chiếm khoảng 1%.

  • Bốn vùng kinh tế gắn với bốn đảo lớn của Nhật Bản

    Hôn-su - Diện tích rộng nhất, dân số đông nhất, kinh tế phát triển nhất trong các vùng - tập trung ờ phần phía nam đảo.

  • Bài 2 trang 83 SGK Địa lí 11

    Trình bày những đặc điểm nổi bật của nông nghiệp Nhật Bản. Tại sao diện tích trồng lúa gạo Nhật Bản giảm?

Tài nguyên biển suy giảm nghiêm trọng

Thời gian gần đây, khai thác cá ngừ vây xanh, cá trình, cá thu Đao của Nhật bản đạt sản lượng thấp. Đây không phải là vấn đề trong năm nay mà thực tế là ngoại trừ nguồn lợi cá nổi, sản lượng khai thác của Nhật Bản đã suy giảm liên tục trong hơn 20 năm và đang trên đà giảm về mức 0 vào năm 2050.

Nhật Bản đã từng có ngành khai thác cạnh tranh nhất trên thế giới. Trong 20 năm, từ năm 1972 đến năm 1991, Nhật Bản đứng đầu về khối lượng đánh bắt. Nhưng sản lượng khai thác bắt đầu giảm rõ rệt vào những năm 1990, một phần do sự sụt giảm nhanh chóng sản lượng cá trích. Mặc dù trữ lượng cá trích đã bắt đầu hồi phục phần nào trong những năm gần đây, năng suất khai thác của Nhật Bản vẫn tiếp tục giảm do các nguồn tài nguyên biển khác đang suy giảm trên diện rộng.

Theo nghiên cứu của Cơ quan Nghiên cứu và Giáo dục Thủy sản Nhật Bản, cơ quan nghiên cứu của Cơ quan Thủy sản, nhiều nguồn tài nguyên biển của Nhật Bản đang ở mức thấp. Trong một cuộc khảo sát của Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp về thủy sản, 90% số người được hỏi cho biết họ cảm thấy rằng tài nguyên khan hiếm hơn; chỉ 0,6% tin rằng tài nguyên đang tăng lên. Ngay cả khi Nhật Bản muốn tăng sản lượng đánh bắt, nguồn lợi thủy sản trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản cũng rất ít. Kết quả là sản lượng đánh bắt đang suy giảm, số người hoạt động trong nghề ít hơn và cộng đồng ngư dân đang có xu hướng già hóa.

Mục lục

  • 1 Tổng quan
  • 2 Lịch sử kinh tế Nhật Bản
    • 2.1 Giao lưu với châu Âu [thế kỉ 16]
    • 2.2 Thời kỳ Edo [1603–1868]
    • 2.3 Thời kỳ trước chiến tranh [1868-1945]
    • 2.4 Sau chiến tranh [từ 1945 tới 1985]
  • 3 Nông nghiệp
  • 4 Ngư nghiệp
  • 5 Công nghiệp
  • 6 Thương mại và dịch vụ
    • 6.1 Thương mại
    • 6.2 Dịch vụ
    • 6.3 Mua sắm
    • 6.4 Ngành du lịch
  • 7 Giao thông vận tải và thông tin liên lạc
  • 8 Những thách thức về kinh tế
    • 8.1 Tác động của nạn thất nghiệp
    • 8.2 Những người vô gia cư
  • 9 Chú thích
  • 10 Xem thêm
  • 11 Tham khảo
  • 12 Liên kết ngoài

Tổng quanSửa đổi

Trải qua ba thập kỷ phát triển kinh tế kể từ năm 1960, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Nhật Bản khiến người ta phải gọi đây là kỳ tích kinh tế Nhật Bản thời hậu chiến. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp, nền kinh tế đã đặt được mức tăng trưởng bình quân 10% vào những năm 1960, 5% trong những năm 1970s và 4% vào những năm 1980, nhờ đó Nhật Bản đã vươn lên và duy trì vị thế là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong suốt từ năm 1978 đến 2010 khi bị Trung Quốc vượt qua. Năm 1990, thu nhập bình quân đầu người của Nhật Bản ngang bằng thậm chí là cao hơn hầu hết các nước phương Tây.

Vào thời kỳ nửa sau của những năm 1980, giá cổ phiếu và bất động sản tăng cao đã tạo ra bong bóng kinh tế . Bong bóng kinh tế đã đột ngột kết thúc khi Sở giao dịch chứng khoán Tokyo sụp đổ vào năm 1990–92 khiến giá bất động sản đạt đỉnh vào năm 1991. Tăng trưởng ở Nhật Bản trong suốt những năm 1990 chỉ ở mức 1,5%; thấp hơn so với mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu khiến nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng suy thoái tồi tệ và được biết đến với tên gọi Thập kỷ mất mát. Thậm chí là sau khi nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục trì trệ thêm một thập kỷ nữa, thuật ngữ này được đổi tên thành 2 thập kỷ năm mất mát. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010 vẫn cao hơn so với châu Âu và Hoa Kỳ.

Với tốc độ tăng trưởng thấp này, nợ quốc gia của Nhật Bản đã tăng lên do gánh nặng của các khoản chi tiêu cho phúc lợi xã hội mà nguyên nhân chủ yếu là do sự già hóa của dân số khiến cơ sở thuế bị thu hẹp lại. Tình trạng "Những ngôi nhà bị bỏ hoang" tiếp tục lan rộng từ nông thôn đến thành thị ở Nhật Bản.

Nền kinh tế của Nhật Bản vào năm 2021 bằng 2/3 quy mô của châu Mỹ theo Ngân hàng Thế giới.

Do là một quốc đảo có địa hình nhiều núi và núi lửa nên quốc gia này không có đủ tài nguyên thiên nhiên để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế với dân số đông tiếp tục phát triển thêm, do đó việc xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế so sánh như các sản phẩm công nghiệp mang tính kỹ thuật, có sự đầu tư cao về nghiên cứu và phát triển để đổi lấy là nhập khẩu nguyên liệu thô và dầu mỏ luôn được chú trọng. Nhật Bản là một trong ba nhà nhập khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới bên cạnh Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ về tổng sản lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng nông sản nội địa đồng thời cũng là quốc gia nhập khẩu cá và các sản phẩm thủy sản lớn nhất thế giới. Chợ bán buôn trung tâm thủ đô Tokyo là chợ bán buôn các mặt hàng truyền thống đến từ Nhật Bản lớn nhất, bao gồm cả chợ cá nổi tiếng Tsukiji. Việc săn cá voi tại Nhật Bản với bề ngoài là để phục vụ các hoạt động nghiên cứu, đã bị kiện là bất hợp pháp theo luật pháp quốc tế.

Mặc dù nhiều loại khoáng sản đã được khai thác trên khắp đất nước, nhưng hầu hết các nguồn tài nguyên khoáng sản đều phải nhập khẩu kể từ thời hậu chiến. Các quặng chứa kim loại được khai thác trong nước là rất khó xử lý do chúng chỉ ở cấp thấp. Mặc dù có nguồn tài nguyên rừng đa dạng và rộng lớn khi chiếm 70% diện tích cả nước theo số liệu được thống kê vào cuối những năm 1980, nhưng chúng lại không được khai thác một cách rộng rãi do các quyết định chính trị ở cấp địa phương, tỉnh và quốc gia khi Nhật Bản quyết định không khai thác tài nguyên rừng để thu lợi kinh tế. Các nguồn tài nguyên trong nước chỉ đáp ứng được từ 25 đến 30% nhu cầu gỗ của cả nước. Nông nghiệp và đánh bắt là những ngành nghề khai thác tài nguyên phát triển tốt nhất nhưng cũng phải trải qua nhiều năm đầu tư và sự vất vả, chăm chỉ lao động của người dân mới có được. Do đó, quốc gia đã tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo để chuyển đổi nguyên liệu thô nhập khẩu từ nước ngoài. Chiến lược phát triển kinh tế này đòi hỏi phải thiết lập một cơ sở hạ tầng kinh tế mạnh mẽ để tạo ra nguồn năng lượng, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc và bí quyết công nghệ cần thiết.

Ngành khai thác vàng, Magnesi và bạc đều đáp ứng được nhu cầu cho hoạt động sản xuất công nghiệp hiện tại, mặc dù vậy Nhật Bản vẫn phải phụ thuộc vào nguồn tài nguyên nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho ngành công nghiệp hiện đại. Các mặt hàng như quặng sắt, đồng, bôxít và nhôm cũng như nhiều loại lâm sản đều là các tài nguyên nhập khẩu quan trọng.

So với các nền kinh tế công nghiệp phát triển khác, Nhật Bản được có mức xuất khẩu được cho là thấp so với quy mô của nền kinh tế. Từ giai đoạn 1970-2018, Nhật Bản là nền kinh tế ít phụ thuộc vào xuất khẩu nhất trong G7 và thứ hai trên toàn thế giới. Đây cũng là một trong những nền kinh tế ít phụ thuộc vào thương mại nhất trong giai đoạn 1970-2018.

Nhật Bản là quốc gia nhận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đặc biệt thấp. Nguồn vốn FDI chảy vào quốc gia này cho đến nay là thấp nhất trong G7 tính đến năm 2018 và thậm chí còn thấp hơn cả các nền kinh tế có quy mô nhỏ hơn nhiều như Áo, Ba Lan và Thụy Điển. Tỷ lệ vốn FDI đầu vào trên GDP của nước này được cho là thấp nhất trên thế giới.

Nhật Bản đang tụt hậu về năng suất lao động so với các nước phát triển khác. Trong giai đoạn từ năm 1970 đến 2018, Nhật Bản là quốc gia có năng suất lao động thấp nhất trong các quốc gia thuộc G7. Đặc thù của nền kinh tế Nhật Bản là các doanh nghiệp lâu đời [shinise], trong đó có một số doanh nghiệp đã hoạt động được hơn một nghìn năm và nhờ vậy mà có được uy tín lớn. Ngược lại, văn hóa khởi nghiệp ở Nhật Bản không được nổi bật như những nơi khác.[55]

Lịch sử kinh tế Nhật BảnSửa đổi

Bức tranh thuộc trường phái ukiyo-e được vẽ vào năm 1856 miêu tả về Echigoya, hay ngày nay là Mitsukoshi

Với sự tăng trưởng thần kỳ qua ba giai đoạn, Nhật Bản là một trong số các quốc gia được nghiên cứu nhiều nhất về lịch sử kinh tế. Giai đoạn đầu tiên bắt đầu từ sự thành lập thành phố Edo [năm 1603] dẫn đến sự phát triển toàn diện của kinh tế nội địa. Giai đoạn thứ hai chính từ cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân [năm 1868] đưa nước Nhật trở thành cường quốc đầu tiên ở châu Á có thể sánh vai được với các quốc gia châu Âu. Trong giai đoạn cuối cùng, từ vị thế là nước thua trận trong Thế Chiến thứ hai [năm 1945] đảo quốc này đã vươn mình trở nên kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Giao lưu với châu Âu [thế kỉ 16]Sửa đổi

Bài chi tiết: Mậu dịch Nam Man

Những người châu Âu thời Phục Hưng đã thán phục Nhật khi họ đến đây vào thế kỷ 16. Đảo quốc này được đánh giá là có rất nhiều kim loại quý, chủ yếu là dựa trên những tính toán của Marco Polo về các lâu đài và đến thờ được mạ vàng, ngoài ra còn dựa trên sự phong phú của các quặng mỏ lộ thiên từ các miệng núi lửa khổng lồ được đặc trưng bởi một đảo quốc có nhiều núi lửa. Các quặng này được khai thác triệt để và trên quy mô lớn và Nhật đã từng là nhà xuất khẩu lớn vàng, bạc và đồng lớn vào thời kỳ Công nghiệp trước khi việc xuất khẩu những mặt hàng này bị cấm.

Nước Nhật thời Phục Hưng cũng được đánh giá là một xã hội phong kiến phức tạp với một nền văn hóa đặc sắc và nền kỹ thuật tiền công nghiệp mạnh mẽ. Dân số đa phần tập trung đông ở các thành thị và thậm chí có những trường Đại học Phật giáo lớn hơn cả các học viện ở phương Tây như Salamanca hoặc Coimbra. Các nhà nghiên cứu châu Âu về thời đại này có vẻ đồng ý rằng người Nhật "chẳng những vượt trội tất cả các dân tộc phương Đông mà còn ưu việt hơn cả người Tây Phương" [Alessandro Valignano, 1584, "Historia del Principo y Progresso de la Compania de Jesus en las Indias Orientales].

Những du khách Tây Phương đầu tiên đã rất ngạc nhiên về chất lượng của hàng thủ công và dụng cụ rèn đúc của Nhật Bản. Điều này xuất phát từ việc bản thân nước Nhật khá khan hiếm những tài nguyên thiên nhiên vốn dễ tìm thấy ở Âu Châu, đặc biệt là sắt. Do đó, người Nhật nổi tiếng tiết kiệm đối với tài nguyên nghèo nàn của họ, càng ít tài nguyên họ càng phát triển các kỹ năng để bù đắp.

Các con tàu của Bồ Đào Nha đầu tiên [thường khoảng 4 tàu kích cỡ nhỏ mỗi năm] đến Nhật chở đầy tơ lụa, gốm sứ Trung Hoa. Người Nhật rất thích những thứ này, tuy nhiên họ lại bị cấm giao dịch với Trung Quốc do các Hoàng đế Trung Hoa muốn trừng phạt các Nụy khấu thường xuyên cướp bóc ở vùng bờ biển Trung Quốc. Sau đó, người Bồ Đào Nha, được gọi là Nanban [Nam Man] chớp lấy cơ hội và đóng vai trò như một trung gian thương mại ở châu Á.

Thời kỳ Edo [1603–1868]Sửa đổi

Đồ sứ xuất khẩu của Nhật Bản mang kiểu cách châu Âu, có hình dáng giống một cái bát có vòi nước ở trong chậu cạo râu của thợ cắt tóc vào khoảng năm 1700.

Trong những thập kỷ cuối cùng của mậu dịch Nanban, nước Nhật đã có tương tác mạnh mẽ với các cường quốc Tây Phương về mặt kinh tế và tôn giáo. Khởi đầu của thời kỳ Edo trùng với những thập kỷ này khi Nhật Bản đã đóng được những chiến thuyền vượt đại dương theo kiểu Tây phương đầu tiên như thuyền buồm 500 tấn San Juan Bautista chuyên chở phái bộ ngoại giao Nhật do Hasekura Tsunenaga dẫn đầu đến châu Mỹ rồi sau đó đến châu Âu. Cũng trong giai đoạn đó, chính quyền Mạc Phủ đã trang bị khoảng 350 Châu Ấn Thuyền có ba cột buồm và được trang bị vũ khí để phục vụ việc mua bán ở châu Á. Các nhà phiêu lưu người Nhật như Yamada Nagamasa đi lại rất năng động khắp Á Châu.

Để loại trừ ảnh hưởng của Thiên chúa giáo, Nhật Bản tiến vào một thời kỳ cô lập gọi là tỏa quốc với nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhẹ. Tuy nhiên không lâu sau đó vào những năm 1650, ngành sản xuất đồ sứ xuất khẩu của Nhật Bản đã phát triển rất mạnh khi mà cuộc nội chiến đã khiến trung tâm sản xuất đồ gốm xứ của Trung Quốc ở Cảnh Đức Trấn phải ngừng hoạt động trong vài thập kỷ. Trong giai đoạn còn lại của thế kỷ 17, hầu hết các mặt hàng đồ sứ Nhật Bản được dùng để xuất khẩu mà chủ yếu là ở Kyushu. Thương mại sa sút do sự cạnh tranh mới của Trung Quốc vào những năm 1740 trước khi được hồi phục khi Nhật Bản mở cửa vào giữa thế kỷ 19.

Phát triển kinh tế trong suốt thời kỳ Edo bao gồm đô thị hóa, gia tăng vận tải hàng hóa bằng tàu, mở rộng thương mại nội địa và bắt đầu mua bán với nước ngoài, phổ biến thương nghiệp và thủ công nghiệp. Thương mại xây dựng rất hưng thịnh song hành với các cơ sở ngân hàng và hiệp hội mậu dịch. Các lãnh chúa chứng kiến sự tăng mạnh dần trong sản xuất nông nghiệp và sự lan rộng của ngành thủ công ở nông thôn.

Khoảng giữa thế kỷ 18, dân số Edo đã đạt hơn 1 triệu người trong khi Osaka và Kyoto mỗi nơi cũng có hơn 400,000 cư dân. Nhiều thành thị xây xung quanh các thành quách cũng phát triển. Osaka và Kyoto trở thành những trung tâm thương mại và thủ công đông đúc nhất trong khi Edo là trung tâm cung ứng thực phẩm và nhu yếu phẩm cho người tiêu dùng thành thị.

Lúa gạo là nền tảng của nền kinh tế, các lãnh chúa phong kiến thu thuế từ nông dân dưới dạng gạo với thuế suất cao khoảng 40% vụ thu hoạch. Gạo được bán ở các chợ fudasashi ở Edo. Để sớm thu tiền, các lãnh chúa sử dụng các Hợp đồng kỳ hạn để bán gạo chưa được thu hoạch. Những hợp đồng này tương tự như loại hợp đồng tương lai thời hiện đại.

Dưới thời này, Nhật Bản dần dần tiếp thu khoa học và công nghệ phương Tây [gọi là Hà Lan học, hay "rangaku", "học vấn của người Hà Lan"] qua thông tin và những cuốn sách của các thương nhân đến từ Hà Lan ở Dejima. Lĩnh vực học tập chính là địa lý, dược học, khoa học tự nhiên, thiên văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, cơ học như nghiên cứu về các hiện tượng điện, và khoa dược học, với ví dụ về sự phát triển của đồng hồ Nhật Bản, hay wadokei, chịu ảnh hưởng của kỹ thuật phương Tây.

Thời kỳ trước chiến tranh [1868-1945]Sửa đổi

Kể từ giữa thế kỷ 19, sau cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật Bản đã mở cửa cho thương mại và ảnh hưởng của phương Tây và đã trải qua hai thời kỳ phát triển kinh tế. Lần đầu tiên bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 1868 và kéo dài đến Thế chiến thứ hai; lần thứ hai bắt đầu vào năm 1945 và được duy trì cho đến giữa những năm 1980.[cần dẫn nguồn]

Sự phát triển kinh tế trong thời kỳ trước chiến tranh được bắt đầu với chính sách "Làm giàu đất nước, tăng cường lực lượng vũ trang" của Chính quyền Minh Trị. Trong suốt thời kỳ Minh Trị [1868–1912], các nhà lãnh đạo đã xây dựng một hệ thống giáo dục mới dựa trên hệ thống của phương Tây dành cho tất cả những người trẻ tuổi, đồng thời gửi hàng nghìn sinh viên đến Hoa Kỳ và Châu Âu du học và thuê hơn 3.000 người phương Tây đến Nhật Bản để dạy các môn như khoa học, toán học, công nghệ hiện đại và ngoại ngữ [Oyatoi gaikokujin]. Chính quyền cũng triển khai xây dựng các tuyến đường sắt, cải thiện chất lượng đường bộ và khánh thành các chương trình cải cách ruộng đất để giúp cho đất nước phát triển hơn nữa.[cần dẫn nguồn]

Nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, chính phủ cho rằng cần nếu giúp các doanh nghiệp tư nhân phân bổ được nguồn lược cũng như lập kế hoạch, họ sẽ được trang bị đầy đủ để đưa nền kinh tế quốc gia đi lên. Chính vì vậy mà vai trò chủ đạo của chính phủ là cung cấp các điều kiện kinh doanh tất nhất cho các doanh nghiệp tư nhân. Nói tóm lại, chính phủ phải là người hướng dẫn và kinh doanh nhà sản xuất. Vào đầu thời kỳ Minh Trị, chính phủ đã xây dựng các nhà máy và xưởng đóng tàu để bán cho các doanh nhân với giá thấp. Nhiều doanh nghiệp trong số này đã phát triển nhanh chóng thành các tập đoàn lớn. Chính phủ nổi lên với tư cách là người thúc đẩy chính doanh nghiệp tư nhân khi ban hành một loạt chính sách ủng hộ doanh nghiệp.[cần dẫn nguồn]

Vào giữa những năm 1930, mức lương danh nghĩa của Nhật Bản "thấp hơn 10 lần" so với của Hoa Kỳ [dựa trên tỷ giá hối đoái giữa những năm 1930], trong khi mức giá nhân công được ước tính là bằng khoảng 44% Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn]

Quy mô và cơ cấu công nghiệp ở các thành phố của Nhật Bản đều được duy trì và điều tiết chặt chẽ mặc dù dân số và các ngành công nghiệp trên các thành phố này đã tăng lên đáng kể.[56]

Sau chiến tranh [từ 1945 tới 1985]Sửa đổi

Xuất khẩu của Nhật Bản năm 2005
Xem thêm: en:Japanese economic miracle và en:Economic history of Japan

Trong giai đoạn những năm 1960 đến 1980, tăng trưởng kinh tế chung là rất nhanh: trung bình 10% vào những năm 1960, 5% trong những năm 1970 và 4% vào những năm 1980. Vào cuối giai đoạn này, Nhật Bản đã trở thành nền kinh tế có thu nhập cao.[57]

Giai đoạn những năm 1990 chính kiến sự tăng trưởng trì trệ của nền kinh tế đã đánh dấu cho sự khởi đầu của thập kỷ mất mát sau sự sụp đổ của bong bóng giá tài sản ở Nhật Bản. Hậu quả là ngân sách quốc gia đã bị thâm hụt nghiêm trọng [phải tri hàng nghìn tỷ Yên để cứu vãn hệ thống tài chính của Nhật Bản] để tài trợ cho các chương trình xấy dựng công trình công cộng lớn.

Mặc dù vậy vào năm 1998, các dự án xây dựng công trình công cộng của Nhật Bản vẫn khổng thể kích đủ cầu để chấm dứt giai đoạn trì trệ của nền kinh tế. Trong tình tế tuyệt vọng, chính phủ Nhật Bản đã buộc phải tiến hành các chính sách "tái cơ cấu" nhằm thu hút nguồn tiền dư thừa đang được đầu cơ ở các thị trường chứng khoán và bất động sản. Thật không may là các chính sách kinh tế này đã khiến Nhật Bản rơi vào thời kỳ giảm phát liên tục trong nhiều năm từ năm 1999 đến 2004. Ngân hàng Nhật Bản đã sử dụng biện pháp nới lỏng định lượng để làm tăng nguồn cung tiền quốc gia nhằm thúc đẩy kỳ vọng về lạm phát qua đó phát triển kinh tế. Ban đầu chính sách này đã thất bại trong việc đem đến sự phát triển cho nền kinh tế nhưng lại bắt đầu có ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát. Cuối năm 2005, nền kinh tế cuối cùng cũng cho thấy những dấu hiệu hồi phục. Tăng trưởng GDP trong năm 2005 đã đạt 2,8% trong đó riêng quý 4 có mức tăng trưởng là 5,5%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.[58] Không giống như các cuộc phục hồi trước đây, tiêu dùng nội địa là yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng.

Mặc dù đã giảm lãi suất xuống gần mức 0% trong một thời gian dài, nhưng chiến lược nới lỏng định lượng vẫn không đạt được thành công trong việc ngăn chặn giảm phát.[59] Điều này khiến một số nhà kinh tế học, chẳng hạn như Paul Krugman và một số chính trị gia Nhật Bản lên tiếng ủng hộ việc tạo ra kỳ vọng lạm phát cao hơn.[60] Vào tháng 7 năm 2006, chính sách giảm mức lãi suất bằng 0% kết thúc. Năm 2008, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản vẫn duy trì mức lãi suất thấp nhất trong các nước phát triển nhưng giảm phát vẫn chưa được loại bỏ[61] và chỉ số Nikkei 225 đã giảm tới 50% điểm [giai đoạn từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 12 năm 2008]. Mắc dù vậy vào ngày 05 tháng 04 năm 2013, Ngân hàng Nhật Bản ra tuyên bố rằng họ sẽ mua 60-70 nghìn tỷ Yên trái phiếu và chứng khoán nhằm loại bỏ tình trạng giảm phát bằng cách tăng gấp đôi lượng cung tiền ở Nhật Bản trong vòng hai năm. Thị trường trên khắp thế giới đã có những phản hồi tích cực với các chính sách mang tính chủ động hiện hành của chính phủ khi mà chỉ số Nikkei 225 đã tăng hơn 42% điểm kể từ tháng 11 năm 2012.[62] The Economist cho rằng những điều chỉnh mang tính tích cực đối với luật phá sản, luật chuyển nhượng đất và luật thuế sẽ hỗ trợ nền kinh tế Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng đầu của gần 15 quốc gia thương mại trên toàn thế giới.

Tháng 12 năm 2018, một thỏa thuận thương mại tự do giữa Nhật Bản và Liên minh châu Âu đã được thông qua và có hiệu lực vào tháng 2 năm 2019. Thỏa thuận này đã tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới chiếm tới 1/3 tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu. Thỏa thuận này giúp giảm 10% thuế hải quan đánh lên các mặt hàng ô tô xuất khẩu của Nhật Bản, 30% thuế đối với pho mát và 10% đối với sản phẩm rượu vang đồng thời mở ra sự phát triển của hoạt động xuất khẩu dịch vụ.[63]

Vào tháng 1 năm 2020, Thủ tướng Shinzo Abe tuyên vố rằng Đại dịch COVID-19 ở Nhật Bản khiến chính phủ phải ban hành tình trạng khẩn cấp quốc gia[64] đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau thế chiến thứ 2.[65] Jun Saito thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản nhận định rằng đại dịch đã giáng "đòn cuối cùng" vào nền kinh tế lâu đời của Nhật Bản, vốn sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm lại trong năm 2018.[66]

Khoảng dưới một phần tư người Nhật kỳ vọng điều kiện sinh sống sẽ được cải thiện trong những thập kỷ tới.[67]

Vào ngày 23 tháng 10 năm 2020, Nhật Bản và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chính thức ký kết thỏa thuận thương mại tự do đầu tiên kể từ hậu Brexit, thỏa thuận này sẽ thúc đẩy thương mại giữa Nhật Bản và Vương quốc Anh lên khoảng 15,2 tỷ bảng Anh khi miễn thuế đối với 99% hàng hóa xuất khẩu của Anh sang Nhật Bản. [68][69]

Vào ngày 15 tháng 2 năm 2021, chỉ số trung bình Nikkei đã phá vỡ điểm chuẩn 30k, mức cao nhất kể từ tháng 11 năm 1991.[70] Nguyên nhân là sự hồi phục mạnh mẽ đối với thu nhập của doanh nghiệp, dữ liệu GDP và sự lạc quan đối với sự xuất hiện của vắc-xin COVID-19.[70]

Trong năm kết thúc vào tháng 3 năm 2021, Tập đoàn SoftBank đã đạt lợi nhuận ròng kỷ lục 45,88 tỷ đô la, phần lớn là do sự ra mắt của công ty thương mại điện tử Coupang.[71] Đây là mức lợi nhuận hàng năm lớn nhất mà một công ty Nhật Bản đạt được trong lịch sử.[71]

Video liên quan

Chủ Đề