Ưu điểm chính sách bảo hộ mậu dịch

Download Tiểu luận Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch miễn phí MỤC LỤCMỞ ĐẦU 4I. Khái niệm bảo hộ mậu dịch 5II. Vì sao các nước áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch 51. Nguyên nhân khách quan, cơ bản nhất 52. Xét về khía cạnh tác dụng 53. Xét về khía cạnh lịch sử và quan hệ giữa các nước 5III. Biểu hiện thực tế 61. Biểu hiện thuế quan 62. Các biểu hiện phi thuế quan : bao gồm : 6a. Giới hạn về số lượng Quota 7b. Các biện pháp làm tăng tính cạnh tranh về giá : điển hình nhất là bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu 7c. Những quy định về kỹ thuật 7IV. Các xu hướng bảo hộ mậu dịch 81. Xuất phát từ ưu - nhược điểm của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch 82. Xuất phát từ các quan điểm về bảo hộ mậu dịch 8a. Quan điểm 1 8b. Quan điểm 2 83. Kết luận : 9V. Liên hệ Việt Nam : 91. Gia nhập ASEAN & AFTA : 92. Gia nhập WTO : 113. Tóm lại : 14KẾT LUẬN 15   /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-33202/

Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

: Khóa : Năm học : Thành phố Hồ Chí Minh Tháng 10/2008 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chúng ta biết rằng, mậu dịch tự do là nền tảng lý tưởng để thực hiện quy luật lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho mỗi quốc gia và cho toàn thế giới. Trong những giai đoạn đầu tiên khi kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, sản xuất hàng hóa vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Adam Smith đã rất ủng hộ tự do mậu dịch, không cần sự can thiệp của chính phủ. Điều này đã thể hiện khá rõ trong lý thuyết lợi thế cạnh tranh dựa vào chất lượng và giá cả sản phẩm. Vì quy mô của các doanh nghiệp còn nhỏ nên chưa có doanh nghiệp nào đủ sức lũng đoạn thị trường. Nếu không đủ sức cạnh tranh thì doanh nghiệp có thể chuyển hướng hoạt động. Sang thế kỉ 19, nền kinh tế phát triển vượt bậc dựa vào các yếu tố thâm dụng của mỗi quốc, các doanh nghiệp lớn áp dụng chính sách độc quyền. Họ đã bắt đầu dựng nên các hàng rào bảo hộ cho sản xuất trong nước, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đã bắt đầu hình thành. Nền mậu dịch tự do trên thế giới không còn tồn tại và bước tiến đến chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch là một bước tất yếu của lịch sử thế giới [mặc dù là bước lùi]. Khái niệm bảo hộ mậu dịch : Là chính sách ngoại thương của các nước nhằm một mặt sử dụng các biện pháp để bảo vệ thị trường nội địa trước sự cạnh tranh dữ dội của hàng hóa ngoại nhập, mặt khác nhà nước nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước bành trướng ra thị trường nước ngoài. Vì sao các nước áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch : Dễ dàng nhận thấy rằng chính sách bảo hộ mậu dịch được áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nước đã phát triển hay chưa. Vậy thì tại sao hiện tượng này lại diễn ra? Nguyên nhân khách quan, cơ bản nhất của hiện tượng này là do : Có sự khác biệt về địa lý và tài nguyên dẫn đến sự khác biệt về nguồn lực kinh tế và năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia – đó là cái gốc của vấn đề. Có sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các công ty trong nước với công ty nước ngoài. Ngoài hai nguyên nhân cơ bản này ra, chúng ta cũng nên nhìn nhận chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch dưới một số khía cạnh khác để làm rõ vấn đề “vì sao các nước áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch” ? Xét về khía cạnh tác dụng : Nói đến khía cạnh tác dụng của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch cũng có nghĩa là nói đến ưu điểm của nó : Giảm bớt sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Bảo hộ các nhà sản xuất trong nước, giúp họ tăng cường thêm sức mạnh trên thị trường nội địa. Giúp nhà xuất khẩu tăng sức cạnh tranh để xâm chiếm thị trường nước ngoài. Giúp điều tiết cán cân thanh toán quốc tế quốc gia, sử dụng hợp lý nguồn ngoại tệ thanh toán của mỗi nước. Xét về khía cạnh lịch sử và quan hệ giữa các nước : Ở buổi đầu hình thành nền thương mại quốc tế, người ta thường quan tâm đến việc đẩy mạnh xuất khẩu để thu về kim khí quý, trong khi đó lại chủ trương hạn chế nhập khẩu để giảm bớt khả năng di chuyển kim khí quý ra ngoài [lý thuyết lợi thế một chiều]. Xét về mặt chủ quan, các nước thực hiện chính sách bảo hộ chủ yếu vì lợi ích cục bộ. Các nước lớn đánh thuế quan để làm giảm khối lượng nhập khẩu nhằm tối đa hóa lợi ích quốc gia ; các nước khác trả đũa, dẫn đến thuế quan có tính chất cấm đoán. Hiện nay Mỹ và các nước châu Âu bảo hộ rất mạnh cho hàng nông sản là thế mạnh của các nước đang phát triển, để trả đũa các nước này bảo hộ ngành công nghiệp và dịch vụ. Biểu hiện thực tế : Bao gồm các biểu hiện thuế và phi thuế như : thuế quan, hệ thống thuế nội địa, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các biện pháp kỹ thuật, trợ cấp…để thực hiện hai mục tiêu của bảo hộ mậu dịch là bảo vệ các nhà sản xuất trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài và hỗ trợ họ bành trướng ra thị trường thế giới. Biểu hiện thuế quan : Là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu của quốc gia. Thuế quan có tính chất là hàng rào mậu dịch chủ yếu là thuế nhập khẩu [ngày nay nhiều nước đã bỏ thuế xuất khẩu để tăng tính cạnh tranh trên thị trường thế giới]. Ví dụ : nhiều sản phẩm nhập khẩu như thịt động vật, sản phẩm sắt thép sẽ được điều chỉnh thuế. Đáng chú ý là thuế nhập khẩu các sản phẩm thịt từ động vật được điều chỉnh tăng lên. Cụ thể, các sản phẩm thuộc các nhóm 0201 là thịt trâu, bò, lợn tươi hay ướp lạnh và đông lạnh thuế sẽ tăng thêm 2%. Các loại thịt bò nhập khẩu có mức thuế mới là 17% so với thuế cũ là 15%. Thịt lợn có mức thuế mới 27% so với 25% trước đây. Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05, tươi, ướp lạnh hay đông lạnh thuộc nhóm 0207 có mức tăng khá mạnh. Nhất là các loại gà nguyên con hay đã chặt mảnh dưới dạng tươi hay đông lạnh có mức thuế mới khá cao là 40% so với mức 15% trước đây. Việc điều chỉnh thuế lần này, theo nhiều doanh nghiệp [DN] chăn nuôi và phân phối thực phẩm là cần thiết vì thời gian qua, Việt Nam đã có mức điều chỉnh thuế nhập khẩu các sản phẩm này thấp hơn so với lộ trình cam kết trong hội nhập WTO. Việc này có thuận lợi là tăng cường một số sản phẩm nhập khẩu bổ sung nguồn thiếu hụt trong nước. Tuy nhiên, điều này lại tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước vì thuế nhập khẩu thấp nên nhiều sản phẩm nhập về có giá thành rẻ hơn đã khiến cho ngành chăn nuôi gặp khó khăn do không cạnh tranh nổi với hàng nhập khẩu. Thuế quan làm tăng số lượng hàng hoá trong nước sản xuất và chính phủ thu được một khoản tiền từ nhập khẩu. Ví dụ: sau sáu tháng thực hiện cam kết với WTO , theo số liệu thống kê của các ngành có liên quan thì thấy: so với cùng kỳ, tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 30,4%, xuất khẩu tăng 19,4%, nhưng số thu thuế XNK chỉ tăng 21,68% và tổng số thu các loại thuế XNK, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng, phí, lệ phí đối với hàng XNK mới đạt 49,8% mức kế hoạch năm. Ước tính đến cuối tháng 8, tổng kim ngạch XNK đạt gần 69 tỷ USD, các chỉ số tốc độ tăng xuất khẩu, nhập khẩu và thu thuế so với cùng kỳ cũng không chênh lệch mấy so với số liệu nêu trên. Các biểu hiện phi thuế quan : bao gồm : Giới hạn về số lượng Quota . Các biện pháp làm tăng tính cạnh tranh về giá Những quy định về kỹ thuật Giới hạn về số lượng Quota : Là giới hạn về số lượng của một loại hàng hóa mà nhà nước cho phép các doanh nghiệp xuất hay nhập khẩu trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ : các chủng loại hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trước đây bị áp đặt hạn ngạch [quota] sẽ không bị quản lý hạn ngạch [quota] . Các hàng dệt may này cũng không phải làm thủ tục cấp visa xuất khẩu tại các Phòng Quản lý xuất nhập khẩu thuộc Bộ Thương mại. Các biện pháp làm tăng tính cạnh tranh về giá : điển hình nhất là bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu

Bán phá giá là bán sản phẩm ở thị trường nước ngoài v

Năm 2017-2021 được ghi nhận là giai đoạn trỗi dậy của làn sóng bảo hộ mậu dịch, với sự xuất hiện nhiều công cụ mới và được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu.

Theo Báo cáo của WTO, việc thiếu các quy định toàn cầu về hạn chế xuất khẩu đã dẫn đến sự ra đời của ít nhất 30 hàng rào mới, được các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Ucraina… đưa ra trong giai đoạn từ tháng 10/2010-4/2011.

Về nguyên tắc, để bảo hộ mậu dịch, các nước có thể dùng phối hợp các công cụ bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chúng có thể có nhiều hình thức, bao gồm: Thuế và Các hàng rào phi thuế quan. Nhưng xu hướng hiện nay là ngày càng giảm các hàng rào thuế quan và gia tăng các công cụ phi thuế quan, bao gồm: Cấm nhập khẩu; Hạn ngạch nhập khẩu; Giấy phép nhập khẩu; Giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, tự nguyện hạn chế xuất khẩu, yêu cầu nội địa hóa, lệnh cấm vận, Giá nhập khẩu tối thiểu, Giá nhập khẩu tối đa, Giá xuất khẩu tối thiểu và Giá hành chính; Các yêu cầu thanh toán trước; Tiền gửi nhập khẩu trước; Yêu cầu giới hạn tiền mặt; Trả trước thuế hải quan; Tỷ giá hối đoái đa dạng; Quản lý ngoại hối; Thuế nội địa đối với nhập khẩu [Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế trị giá gia tăng]; Biện pháp về hành chính kĩ thuật [bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, qui tắc xuất xứ, chất lượng, an toàn hoặc kích thước, kí hiệu, thử nghiệm và các phương pháp thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu, và các yêu cầu dán nhãn cho một sản phẩm]…

Sự bất bình của người dân trước tình trạng mất việc làm do toàn cầu hóa và các chính sách tự do thương mại được cho là vấn đề cốt lõi dẫn tới xu hướng gia tăng bảo hộ, với những công cụ bảo hộ mới đang được áp dụng phổ biến là:

Những quy định về hạn chế xuất khẩu

Các quy định thương mại toàn cầu cho phép các thành viên áp dụng những hạn chế xuất khẩu nếu chúng giúp giảm nhẹ tình trạng thiếu lương thực ở trong nước, cũng như các nguy cơ về môi trường, cho dù các hạn chế đó có thể gây tổn hại đến những nước nhập khẩu ròng lương thực và thậm chí gây ra tình trạng thiếu lương thực trầm trọng.

Theo Báo cáo của WTO, việc thiếu các quy định toàn cầu về hạn chế xuất khẩu đã dẫn đến sự ra đời của ít nhất 30 hàng rào mới, được các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Ucraina… đưa ra trong giai đoạn từ tháng 10/2010-4/2011, tăng so với con số 25 của giai đoạn 12 tháng trước đó. Những rào cản này bao gồm hạn ngạch và các mức thuế xuất khẩu. Cũng theo WTO, những biện pháp hạn chế nhập khẩu nói trên được đưa ra với một loạt lý do, như bảo vệ môi trường hoặc đảm bảo nguồn cung, cũng như giá cả của các mặt hàng nông sản ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, việc sử dụng những biện pháp như thế để giải quyết các vấn đề này là những mối nguy hại. Các chính phủ có thể bị lôi kéo vào xu thế sử dụng những hạn chế xuất khẩu để thay đổi lợi thế của họ về giá hàng hóa xuất khẩu hoặc tăng cường sản xuất theo hướng bất lợi cho các nước khác.

Trung Quốc, nước hiện chiếm tới 97% nguồn cung đất hiếm của thế giới, biện minh rằng những lo ngại về môi trường và tình trạng kiệt tài nguyên đã buộc Bắc Kinh phải hạn chế xuất khẩu, dù phải đối mặt với thách thức pháp lý trong khuôn khổ WTO.

Thủ tục hải quan rườm rà

Điều này làm tăng chi phí, lỡ có hội kinh doanh và thậm chí làm nản long các nhà xuất khẩu của nước hoặc mặt hàng cần hạn chế nhập khẩu.

Các hàng rào kỹ thuật, nâng cao một số tiêu chuẩn, yêu cầu khắt khe hơn đối với chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ và sản phẩm liên quan đến sức khoẻ.

Các tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy cách, chất lượng của sản phẩm. Nhưng nếu chúng quá khác biệt giữa các nước sẽ buộc các doanh nghiệp nước khác có thể phải điều chỉnh lại quy trình sản xuất. Ngoài ra, đòi hỏi thử nghiệm sản phẩm tại nước nhập khẩu để đảm bảo rằng các sản phẩm đó phù hợp với những quy định của nước đó về kỹ thuật và an toàn khiến cho các nhà xuất khẩu phải chịu những quy trình kiểm tra nghiêm ngặt hơn hoặc chi phí kiểm tra cao hơn cho quá trình kiểm tra này.

Giảm giá tiền tệ

Việc giảm giá đồng bản tệ khiến giá các mặt hàng xuất khẩu rẻ hơn và giá các mặt hàng nhập khẩu đắt hơn là công cụ hữu hiệu giúp bảo hộ các mặt hàng của nước sử dụng công cụ này.

Trợ cấp xuất khẩu

Các hoạt động trợ cấp xuất khẩu trực tiếp giúp giảm giá hàng xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh hàng nội địa so vơi hàng nhập khẩu.

Chống bán phá giá

Việc điều tra chống bán phá giá với các cáo buộc và áp thuế nhập khẩu cao hơn có chủ đích có thể giúp cho các nhà sản xuất ở một quốc gia nào đó chống lại các đối tác thương mại bị buộc tội là bán hàng hóa với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất.

Theo báo cáo của WTO, tính từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/2015, trên thế giới đã có 311 vụ khởi xướng áp dụng biện pháp tự vệ. Trong 5.448 vụ phòng vệ thương mại trên thế giới, thì chống bán phá giá chiếm 4.757 vụ. Mức độ ban hành các biện pháp hạn chế thương mại trong thời gian qua của G20 là cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Báo cáo về biện pháp thương mại của G20 cho thấy, từ trung tuần tháng 10/2015 đến trung tuần tháng 5/2016, các nền kinh tế G20 – chiếm 90% GDP toàn cầu – đã áp dụng 145 biện pháp mới về hạn chế thương mại, trung bình mỗi tháng áp dụng 21 biện pháp, nhiều hơn so với mức trung bình 17 biện pháp/tháng trong giai đoạn 7 tháng trước đó, trong đó các biện pháp chống bán phá giá chiếm tuyệt đại đa số. Số lượng các biện pháp này cao hơn rất nhiều so với các biện pháp ghi nhận trong khoảng thời gian trước đó, với chỉ khoảng 15 biện pháp mỗi tháng. 21 biện pháp hạn chế thương mại mỗi tháng cũng được coi là mức trung bình tháng cao nhất kể từ năm 2011, thời điểm ghi nhận những biện pháp hạn chế thương mại đạt mức kỷ lục.

Cũng theo WTO, trong số hơn 2.800 biện pháp hạn chế thương mại ghi nhận qua các thời kỳ kiểm tra chính sách thương mại từ tháng 10/2008 đến nay, mới chỉ có 25% đã được bãi bỏ. Điều này cho thấy sự gia tăng đáng lo ngại về tỷ lệ các biện pháp hạn chế thương mại mới được thiết lập, điển hình là các quốc gia đã ký cam kết G-20.

Thủ tướng Đức Angela Merkel giờ đây đã lên tiếng bảo vệ sự phân chia công bằng lợi ích thương mại, khẳng định toàn cầu hóa không phải chỉ có mặt tích cực, mà nó cũng mang theo bất bình đẳng nhiều hơn giữa các nhóm khác nhau, giữa các dân tộc.

Tại Mỹ, để bảo vệ lợi ích của mình, nước này đang áp dụng 80% trong số 31.000 biện pháp “bảo hộ mậu dịch” trên thế giới hiện nay; đặc biệt, đã phát triển các biện pháp bảo hộ mậu dịch mới, như thi hành chính sách đồng USD rẻ, tăng cường nới lỏng tiền tệ, mở rộng các gói QE, lãi suất siêu thấp, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hạ tín nhiệm của các đối tác, bài ngoại…

Có thê nói xu hướng bảo hộ thương mại trong thời gian tới sẽ diễn ra cùng với sự chia rẽ nội bộ khu vực và mỗi nước khá sâu sắc về vấn đề toàn cầu hóa và thương mại. Sự thành công của các ứng cử viên tổng thống đắc cử nhờ cương lĩnh tranh cử ủng hộ bảo hộ thương mại, mang việc làm trở lại cho người dân và lợi ích quốc gia là trên hết sẽ là một bài học sâu sắc và sẽ là cương lĩnh chính trong việc thu hút cử tri đối với nhiều nguyên thủ quốc gia trong thời gian tới. Điều này đồng nghĩa với quan ngại về một cuộc chiến tranh thương mại mới đang dần định hình…

Tác động hai mặt của bảo hộ mậu dịch

Việc bảo hộ mậu dịch có tác động hai mặt: Một mặt, bảo hộ đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước và khuyến khích phát triển một số ngành nghề; ; hạn chế tiêu dùng; bảo đảm an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường, cân bằng cán cân thanh toán và đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định nguồn thu NSNN; tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập

Mặt khác, bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng [hay cung cấp dịch vụ] ở mức có lợi nhất cho họ; giảm động lực áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế xét theo mục tiêu dài hạn. Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Không những thế, các hàng rào phi thuế quan thường đòi hỏi chi phí của nhà nước để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thương mại phi thuế quan. Việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nước, mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế.

Theo Tổng thống Indonesia, cộng đồng doanh nghiệp cần ngăn chặn các chính sách mang tính chất bảo hộ mậu dịch; tăng cường đầu tư, duy trì tăng trưởng và tạo việc làm trong khu vực; phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc tăng cường kết nối; bảo đảm tăng trưởng bền vững và công bằng; hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực tư nhân; bảo đảm ổn định tài chính; phát triển cho tất cả, trong đó có mạng lưới an sinh xã hội cho mọi người dân; tăng cường sự hợp tác và đối thoại. Thủ tướng Singapore cũng cho rằng các doanh nghiệp nên khuyến khích chính phủ hạn chế rào cản thương mại thay vì yêu cầu những biện pháp bảo vệ ngành công nghiệp của mình trước sự cạnh tranh từ bên ngoài…

Trong “Thông cáo chung” của Hội nghị cấp cao nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới [G20] ngày 5/9/2016 tại thành phố Hàng Châu Trung Quốc, cũng khẳng định phản đối chủ nghĩa bảo hộ thương mại và đầu tư dưới bất cứ hình thức nào; cam kết sẽ giảm bớt hoặc không thông qua các biện pháp bảo hộ mậu dịch mới, đồng thời, nhấn mạnh rằng đảm bảo được tất cả các bên cùng có lợi mới là biện pháp cơ bản để ngăn chặn chủ nghĩa bảo hộ đầu tư thương mại.

Về triển vọng, chủ nghĩa bảo hộ có thể hiện diện một thời gian, nhưng sẽ không lâu, bởi chính quyền lợi của người tiêu dùng và quy luật kinh tế thị trường. Bất luận trường hợp nào thì các công cụ bảo hộ thuế và phi thuế quan đều ảnh hưởng tiêu cực lên dòng hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục quá trình đổi mới toàn diện, đẩy mạnh chủ động hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi có hiệu quả cam kết của các FTA mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Đồng thời, Việt Nam cũng cần chủ động nhận diện, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực vượt qua các hàng rào kỹ thuật từ các đối tác xuất khẩu; cũng như, nhận thức đúng đắn và coi trọng xây dựng hàng rào kỹ thuật bảo vệ thị trường và lợi ích quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp nội địa.

TS. Nguyễn Minh Phong

Video liên quan

Chủ Đề