Ví dụ về thuyết đạo đức công lý

Ảnh tư liệu.

Thuyết đạo đức nhân cách [ĐĐNC] cho rằng đạo đức trong một hoàn cảnh cụ thể không chỉ là những quy tắc đạo đức hay đạo lý phổ thông được xã hội chấp nhận, mà hơn thế nữa còn là những gì mà một người có tư cách đạo đức tốt [nhân cách] coi là đúng đắn. Thuyết ĐĐNC coi những quy tắc đạo đức xã hội hiện hành chỉ là những yêu cầu tối thiểu về mặt đạo đức cần thỏa mãn để hình thành nhân cách. Trong triết lý ĐĐNC, tư cách đạo đức, tính tự tôn và sự tu dưỡng bản thân là những khái niệm trung tâm. Thuyết ĐĐNC nhấn mạnh đến vai trò của các “nhân cách then chốt” đối với sự sống còn, an nguy của một nhà nước hay nhỏ hơn như một tổ chức hoặc gia đình.

Trong quản lý, các tổ chức có thể dễ dàng tìm thấy những con người điển hình tiên tiến đại diện cho những giá trị mà tổ chức tôn trọng. Không chỉ vậy, các tổ chức áp dụng các biện pháp quản lý hiện đại [Quản lý sự thay đổi – Management of Change] luôn cố gắng phát hiện, bồi dưỡng và tìm cách phát huy vai trò của các nhân cách then chốt – những người “đầu tàu”. Thuyết ĐĐNC có thể được coi là một lý thuyết động về cách thức tiến hành các hoạt động quản lý.

Trong một tổ chức, nhân cách then chốt không chỉ được quyết định bởi triết lý đạo đức được chấp nhận chung trong tổ chức; nó còn được quyết định bởi quyền lực và quyền hạn chính thức trong việc ra quyết định và thực thi quyết định. Những nhân cách nằm ở vị trí được ủy quyền ra quyết định và thực thi quyết định trong cơ cấu tổ chức luôn có vai trò nhất định trong việc xác định triết lý hoạt động của tổ chức và gây ảnh hưởng đến các thành viên khác. Những tính cách như trung thực, đáng tin cậy, nhường nhịn trong nền kinh tế thị trường, coi trọng cá nhân và tính sòng phẳng trong mối quan hệ là rất quan trọng và cần thiết để thể hiện và phổ biến những chuẩn mực hành vi xã hội mong muốn, để giúp hình thành một nề nếp, truyền thống hay một “bản sắc đạo đức” cho một xã hội, một tổ chức hay một hệ thống vận hành.

Một trong những mặt tiêu cực trong xã hội hiện đại là sự “xói mòn” các giá trị đạo đức truyền thống. Việc coi trọng lợi ích vật chất và cổ vũ cho chủ nghĩa cá nhân – lợi nhuận và tối đa hóa lợi ích [cá nhân] không chỉ làm mờ nhạt và hạ thấp các giá trị tinh thần mà còn dẫn đến việc làm lệch lạc cách tư duy và thước đo giá trị của con người và xã hội. Vì vậy, nhiều người cho rằng rất cần duy trì, nuôi dưỡng và bồi đắp cho các giá trị đạo đức xã hội truyền thống và cân đối với việc phát triển các giá trị mới. Khi đó, các chính phủ, tổ chức, tập thể chính là những nơi xây dựng và phát triển nguồn nhân cách mới chủ yếu cho xã hội.

Một số tính cách có thể đóng góp cho việc duy trì và phát triển giá trị đạo đức xã hội truyền thống trong các tổ chức, đó là lòng tin, biết kiềm chế, sự cảm thông, tính công bằng và tính trung thực. Trong khi đó, có một số tính cách khác lại có thể hủy hoại nhanh chóng thành quả đạt được, ví dụ như tính dối trá, ích kỷ, tính toán, thực dụng, những tính cách này tồn tại trong mọi xã hội như một thực tế, dù mong muốn hay không mong muốn, chúng xuất hiện đâu đó trong các mối quan hệ xã hội và quá trình quản lý.

Triết lý ĐĐNC nhấn mạnh việc lựa chọn và sử dụng nhân tố nhân cách [tư cách đạo đức tốt] trong việc xây dựng các mối quan hệ trong quản lý. Những người theo triết lý ĐĐNC luôn tin rằng, “nhân cách” là yếu tố có tác động lan truyền nhanh và có hiệu lực mạnh nhất khi được hậu thuẫn bởi quyền lực và “kênh phân phối” trong hệ thống và cơ cấu tổ chức. Nhân cách sẽ làm cho “cái tốt” hoặc “cái xấu” được nhân rộng trong toàn tổ chức, định hình chuẩn mực giá trị và hành vi giữa các cá nhân bên trong tổ chức, góp phần hình thành “sắc thái đạo đức” của một tổ chức và quy định giá trị hành vi của tổ chức đối với xã hội bên ngoài. Những người theo triết lý ĐĐNC luôn hướng tới những gì cao hơn các giá trị đạo đức xã hội thông thường và cố gắng phấn đấu để ngày càng hoàn thiện hơn về nhân cách.

Tính cách [nhân cách] và bố trí nhân sự trong tổ chức

Nói đến tính cách [nhân cách] của một người là nói đến những đặc trưng về chuẩn mực ra quyết định, tính nhạy cảm về đạo đức và về các nhân tố của hành vi [động cơ, mục đích, phương pháp…]. Sự khác nhau về trình độ, vị trí quyền lực, quan hệ xã hội và mối quan tâm hàng ngày dẫn đến sự khác nhau về tính cách. Người lao động nhìn nhận vấn đề khác với người quản lý cũng là điều dễ hiểu. Nói đến việc thực thi công việc là nói đến mối quan hệ phối hợp, tương tác với những người khác [liên nhân cách], điều đó cũng có nghĩa là đề cập đến các vấn đề phạm vi trách nhiệm, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu tác nghiệp cần hoàn thành trong mối quan hệ tổ chức. Mỗi vị trí công tác đều có những đặc điểm riêng, yêu cầu riêng và luôn là một nhân tố tương tác, một “mắt xích” trong hệ thống tổ chức.

Lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn trong quản lý đã khẳng định rằng, nhà quản lý là người “chỉ ra được công việc cần phải làm cho những người khác, khiến người khác tự giác, nhiệt tình thực hiện chúng theo mong muốn của mình, ngay cả khi họ không hiểu đầy đủ ý nghĩa của việc thực hiện và việc hoàn thành công việc”. Như vậy, nhà quản lý chỉ là người nghĩ ra việc, còn việc thực thi sẽ phụ thuộc chủ yếu vào những người ra quyết định tác nghiệp. Do vậy, việc tuyển chọn người và sắp xếp họ vào những vị trí khác nhau trong tổ chức để thực hiện các công việc cụ thể là một trong những chức năng quan trọng của công tác quản lý.

Lý thuyết hành vi tổ chức xác định, để bố trí nhân sự vào những vị trí thích hợp, cần xác định đúng về năng lực và tính cách của họ. Năng lực chuyên môn có thể được xác định tương đối dễ dàng với sự hỗ trợ của các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong lĩnh vực quản lý nhân lực. Khi thực hiện việc định biên nhân sự hoặc tổ chức phân công công việc, các nhà quản lý thường rất chú trọng tới việc đánh giá năng lực thực thi công việc. Tuy nhiên, yếu tố tính cách chưa được đánh giá đúng mức. Một mặt, là do thiếu phương tiện và phương pháp xác minh thích hợp, mặt khác, do chưa nhận thức đầy đủ và đánh giá hết được vai trò và ảnh hưởng của nhân tố này trong công tác tổ chức, phân công công việc và trong việc xây dựng mối quan hệ cũng như phát triển tổ chức.

Sự không tương thích giữa tính cách và tính chất công việc có thể dẫn đến việc làm tăng áp lực bên trong và làm “xô lệch” hệ thống tổ chức. Tình trạng mất hiệu lực của hệ thống quyền lực, “trên bảo dưới không nghe” có thể xảy ra nếu nhân viên cấp dưới tự đặt mình vào vị trí vượt quá phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của họ trong nhìn nhận vấn đề và ra các quyết định vượt quá thẩm quyền. Những người như vậy thường nhấn mạnh hoặc lấy các lý do như “làm như vậy sẽ có lợi hơn hay tốt hơn cho tất cả mọi người” hay “chúng tôi làm như vậy là vì quyền lợi của anh em”, trong khi họ không định nghĩa được “mọi người” và “anh em” là ai. Những dấu hiệu như vậy hoặc là để che giấu động cơ vị kỷ hoặc thể hiện sự mơ hồ trong việc ra quyết định, căn cứ ra quyết định không chắc chắn. Do đó, việc tuyển chọn nhân viên và sắp xếp công việc phù hợp với tính cách không chỉ nhằm giảm bớt mâu thuẫn, tăng hiệu lực quản lý mà còn làm tăng hiệu quả công tác, tạo cơ hội cho người lao động phát huy “sở trường”, tạo sự tự tin và niềm say mê công việc.

Tài liệu tham khảo:
1. David J. Cherrington, Nyal D. & Bette McMullin. Hành vi tổ chức. Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Nội, tháng 12/2001.
2. Paul Hersey, Ken Blanchard. Quản trị hành vi tổ chức. NXB Thống kê, 2001.
3. Nguyễn Mạnh Quân. Giáo trình Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2011. ThS. Phan Anh Hồng
Học viện Hành chính Quốc gia

Loạt bài giảng của GS Michael Sandle, Đại học Harvard, vừa được dịch phụ đề trọn vẹn ra tiếng Việt, đang trở thành một cơn sốt không hề thấp của cư dân mạng quan tâm đến giáo dục đại học.

Có thể nói không quá lời rằng, nghe - xem - thấy bài giảng này, dù đã từng biết, từng nghe không ít bài giảng ở các giảng đường đại học [và kể cả kinh nghiệm bản thân], người viết bài này thấy rất nên trao đổi một vài ghi nhận, như là những bài học cần thiết.

Từ những ví dụ bất ngờ

Sandle đã từng giảng cho hàng vạn sinh viên Harvard nghe suốt nhiều năm qua. Con số thống kê ấy nói lên rằng tính hấp dẫn và kỳ thú là khỏi phải bàn. Vậy mà, GS Sandle vẫn làm cho người nghe bị choáng khi ông đưa ra những ví dụ vừa giả thiết, vừa thật, gây sốc đến không ngờ.

Đầu tiên là chuyện về một con tàu không thể kiểm soát, đang chạy với vận tốc 60 dặm/h. Phía trước có năm công nhân đang sửa đường. Người lái tàu biết chắc ngay trước mặt có nhánh ray phụ, nhưng trên đó cũng có một công nhân đang làm việc. Có nên rẽ vào nhánh phụ để làm chết một người hay cho tàu đi tiếp theo lộ trình, và làm chết năm người?

Một ví dụ khác có thật, là chuyện một con thuyền cứu sinh sau vụ đắm tàu. Trên thuyền có bốn người, gồm thuyền trưởng, thuyền phó, thủy thủ và một cậu bé 17 tuổi tên là Parker. Parker đang chết từ từ và là một đứa trẻ mồ côi không người thân thuộc.

Thuyền trưởng và thuyền phó đã quyết định giết Parker ở ngày thứ 20 của đói và khát. Nhờ ăn thịt và uống máu Parker, bốn ngày sau họ được cứu sống. Tòa án Anh đã đem vụ việc ra xét xử.

Không ít ý kiến biện hộ [kể cả dư luận từ báo chí] cho rằng dùng thịt và máu của Parker để cứu ba người có gia đình, có nhiều trách nhiệm, có ích cho xã hội nhiều hơn thì cái chết của Parker là điều... có thể chấp nhận được[!]?

Trong những phần tiếp theo, GS Sandle đã đưa ra các ví dụ khác liên quan đến vấn đề đạo đức - trên thực tế có dính dáng rất nhiều đến chính trị. Chẳng hạn, liệu Bill Clinton có dối trá hay không khi ông làm cho người khác hiểu nhầm sự thật khi nói trước truyền hình rằng: "Tôi không hề có quan hệ tình dục với cô Monica Lewinsky. Tôi không bao giờ nói dối. Đó là một luận điệu sai lầm".

GS Michael Sandle, Đại học Harvard

Một trường hợp khác là việc người chủ quán trả đủ tiền thừa cho khách sau khi cân nhắc rằng nếu trả thiếu, sẽ ảnh hưởng đến uy tín kinh doanh và sau đó sẽ mất khách. Vậy, có thể coi hành động của chủ quán là chưa đủ yếu tố cấu thành đạo đức?

GS Sandle còn đưa ra rất nhiều ví dụ khác khi nêu vấn đề cho sinh viên thảo luận như tính đạo đức của việc tuyển quân bắt buộc và chế độ tình nguyện khác nhau như thế nào? Cái nào nên hơn? Việc ưu tiên điểm số đầu vào đại học cho sinh viên Texas [bang có 40% dân số là người Mexico và da đen], khiến cho nhiều sinh viên da trắng có điểm số tương tự bị trượt đại học là nên hay không nên?

Có phải việc ưu tiên ấy dựa trên cơ sở thế hệ hôm nay phải đền bù cho quá khứ sai lầm [nguyên văn: past wrong] của cha ông hay không? Một trong những bất ngờ lớn nhất của GS Sandle là ông đã đưa ra một dẫn chứng thật giản dị [vì ai cũng biết]. Đó là, trong một cuộc thi đấu thể thao - môn chạy chẳng hạn, việc hàng chục người xuất phát cùng một điểm xuất phát có thật sự là công bằng không khi ta biết rằng số phận, sức khỏe, những yếu tố tự nhiên mang tính ngẫu nhiên mà con người bất khả chuyển nhượng, đã làm cho các vận động viên không thể như nhau, như cách hiểu thông thường...

Triết học và đạo đức

Trong loạt bài giảng của mình, GS Sandle đã phân tích, phản biện các quan điểm triết lý về đạo đức của nhiều nhà triết học nổi tiếng như quan điểm về chủ nghĩa vị lợi của Jeremy Bentham, về khẩu hiệu nổi tiếng của John Locke "Lợi ích tốt nhất cho nhiều người nhất" chính là công lý.

Đặc biệt, GS Sandle đã dành khá nhiều thời gian cho việc trình bày quan điểm của một trong những nhà triết học lỗi lạc nhất của thế kỷ khai sáng là Immanuel Kant [22.4.1724-12.2.1804].

Kant cho rằng, chúa tể của cuôc sống không phải là Niềm vui và Nỗi buồn như Bentham nhìn nhận mà chính là đạo đức tối thượng. Đạo đức tối thượng là tính TRÁCH NHIỆM [có lý trí xác đáng dẫn dắt, phù hợp với quy luật đạo đức] của động cơ trong hành động.

Có thể thấy rằng một khi 30 phút có thể tạo nên chất lượng cao về nhận thức thì chắc hẳn những bài giảng đạo đức kéo dài lê thê sẽ phản tác dụng đến mức nào. Nên chăng, về giờ giấc học tập ở các trường đại học hiện nay cũng cần được điều chỉnh?

Yếu tố này đặc biệt quan trọng với những người lãnh đạo vì họ nắm trong tay sinh mạng và số phận, hạnh phúc hay khổ đau của người dân. Bởi, đa số con người chỉ hành động theo ý muốn chủ quan, cái ham thích nhất thời, vị kỷ hoặc vì tư lợi tàn nhẫn nên bất kể đạo đức và, thường là, nhân danh đạo đức để che đậy các động cơ ích kỷ, xấu xa.

Tính tối thượng đạo đức yêu cầu con người không được dùng người khác làm công cụ để thỏa mãn ý đồ riêng, không được lạm dụng cái gọi là đa số để làm phương hại hay tước đoạt nhân phẩm của con người - dẫu chỉ một người.

Theo quan điểm khắt khe của Kant, nói dối cũng là cách chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Nếu Kant đúng, thì xã hội ta bây giờ, nhiều người đều vi phạm đạo đức vì đa số họ nói dối là... phẩm chất tự nhiên!

Quyền trình bầy ý kiến và quyền... im lặng

Nhìn - nghe GS Sandle giảng bài, thấy sinh viên Harvard thảo luận, có lẽ, ai cũng ước ao được ngồi ở giảng đường Sandle ấy một lần. Ngay cái tên đã kích thích suy tư: "Người một hạt cát" - Sandle. Có thể là một, hoặc một số nhưng chắc chắn đó là một phần làm nên bãi biển rực nắng mênh mông. Để trở thành cát, phải có hàng triệu lần "vật lộn" với sóng lừng, sóng dữ; phải trải biết bao gian khó, dập vùi. Xem ra, muốn làm nên sự lấp lánh và tinh khiết, không thể đo bằng vài năm tháng bọt bèo...

Ấn tượng đầu tiên từ các bài giảng của GS Sandle đó là sự lôi cuốn không chỉ nhờ chất giọng rõ ràng, hấp dẫn mà trước hết, người thầy phải có một cái nền kiến thức vững chắc, một "kho" ngôn từ dường như vô tận thì mới không lặp đi lặp lại, không có chuyện thì, là, mà, à, ờ... như không ít giảng viên của ta hiện nay.

Phần hài hước của ông [cái không thể thiếu của bất kỳ người thầy nào khi giảng về những vấn đề khô khan, khó khăn] chỉ chiếm chưa đến 2% thời gian - vừa đủ để tạo nên sự thư giãn cần thiết mà lại không làm loãng phần nội dung.

Chẳng hề có bất kỳ một câu chửi thề nào và tuyệt đối chẳng cần đến sự dung tục tầm thường tuy trong bài giảng có cả chuyện tình dục của Tổng thống Hoa Kỳ cũng như có cả chuyện công lý trong việc mang thai thuê!

Lượng thời gian dành cho sinh viên thảo luận của GS Sandle chiếm khoảng 30%. Điều đặc biệt là tất cả sinh viên khi phát biểu đều rất tự tin, trình bày lưu loát [cũng chẳng có sinh viên nào à, thì, là, mà].

Cái đáng ghi nhận nữa là mặc dù có những lúc chỉ có một, hai cánh tay giơ lên nhưng họ không hề ngần ngại, dẫu có hàng ngàn sinh viên khác im lặng [tức là không đồng ý]. Quyền được trình bày ý kiến của mình bất kể người khác không tán thành là một trong những điểm tích cực vượt trội của tính tự chủ trong giảng đường Sandle.

Không có sự phân biệt về trình độ do màu da, chủng tộc. Ta hãy nghe một chút phần tranh luận giữa hai sinh viên gốc Á: "Nếu bạn phản đối hôn nhân đồng tính thì tôi hỏi bạn, bạn đã bao giờ thủ dâm chưa"?

Tính sâu sắc của câu hỏi- trả lời, thực sự làm chúng ta bị hấp dẫn. Nếu ai đã nghe- xem qua toàn bộ bài giảng này thì sẽ  phải "ngạc nhiên" vì một điều nữa: Hàng ngàn người nghe, không hề điểm danh, không hề thiếu hụt bất ngờ và cũng chẳng hề có ai nói chuyện riêng[!]

Ảnh minh họa

Dường như việc nói chuyện riêng trong một lớp học của sinh viên Mỹ bị coi là thiếu văn hóa thì phải?

Một điều đáng xem xét nữa là trong khi ở nước ta hiện nay, sử dụng bài giảng có máy chiếu- màn hình được coi là thời thượng, phản ánh trình độ cao [?] của giảng viên, thì GS Sandle sử dụng rất ít, hầu như chỉ chiếu cho sinh vên xem những trích dẫn cần độ chính xác cao, ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề đang nêu ra.

Đây là chuyện cần phải cân nhắc bởi chúng ta biết rằng nếu lạm dụng máy chiếu, tức là vừa làm hư cho thầy [lười giảng], vừa không đảm bảo tính liên tục của lập luận.

Điều cuối cùng cần đặc biệt nhấn mạnh là mỗi buổi giảng chỉ gói gọn trong 30 phút [ít nhất là các video clip cho biết như thế], nhưng vẫn đủ tất cả những nội dung cần thiết trong cái nguyên tắc tương tác hợp lý giữa thầy và trò.

Từ đây có thể thấy rằng một khi 30 phút có thể tạo nên chất lượng cao về nhận thức thì chắc hẳn những bài giảng đạo đức kéo dài lê thê sẽ phản tác dụng đến mức nào. Nên chăng, về giờ giấc học tập ở các trường đại học hiện nay cũng cần được điều chỉnh?

Loạt bài giảng Công lý, việc đúng nên làm với sự mở đầu thật khó - đúng như GS Sandle đã nói. Cái khó của ông là trình bày điều mà ai cũng biết [dẫu nhiều hay không nhiều lắm] như công lý, đạo đức.

Khó hơn nữa là những dẫn chứng ông đưa ra hầu hết đều cũ, nhưng ông phải làm cho khác lạ. Rồi, cái nguy hiểm của điều mới lạ ấy là nó làm cho bản chất hay cái vỏ của vấn đề không còn như cũ nữa...

Nói chung là có rất nhiều sự thách thức đối với một người thầy phải "trình diễn" trước cử tọa khắt khe, thông minh, dũng cảm - những người luôn coi thách thức là cơ hội - điều kiện để sống, để vươn tới.

Sandle không trả lời thẳng các câu hỏi mà ông đã đưa ra. Theo ông, lời khuyên của Kant luôn đúng: Phải sống trong sự bất an của lý trí, tức là sống trong câu trả lời chứ không phải là sống bằng sự thỏa mãn từ các câu trả lời.

Công lý của tất cả những điều đúng nên làm, đó là hành động có trách nhiệm theo đúng quy luật tối thượng của đạo đức. Đó là phải tôn trọng nhân phẩm của người khác, dẫu là hàng triệu người hay chỉ một người!

Hà Văn Thịnh

Xem bài khác trên Tuần Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề