Xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ cung ứng của các NHTM Việt Nam

Xu hướng chủ đạo của hệ thống tài chính toàn cầu và giải pháp chiến lược đối với Việt Nam

16/12/2021 12:20:00

Nguyễn Viên Trà

Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV

Kinh tế và thị trường tài chính [TTTC] toàn cầu đã trải qua cú sốc bất lợi nhất trong vòng một thế kỷdo ảnh hưởng của dịch Covid-19, song cũng đang chuyển mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên số. Theo đó, hệ thống tài chính toàn cầu giai đoạn 2021 - 2030 chứng kiến nhiều xu hướng chủ đạo, đặt ra các cơ hội đan xen, nhưng cũng không ít nguy cơ, thách thức do những biến động phức tạp và khó lường của dịch Covid-19, sự vận động không ngừng của thị trường và sự xuất hiện của những yếu tố mới. Đến nay, hệ thống tài chính Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần huy động, phân bổ và cung ứng nguồn tài lực cho nền kinh tế. Bài viết sẽ phân tích, đánh giá về các xu hướng chủ đạo đó trên cả góc độ vi mô và vĩ mô, đồng thời nhận diện những cơ hội, thách thức đối với hệ thống tài chính toàn cầu và Việt Nam; từ đó kiến nghị một số giải pháp chiến lược nhằm giúp Việt Nam tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, tăng khả năng chống chịu và phát triển bền vững.

Từ khóa: Xu hướng tài chính toàn cầu, tài chính số, tài chính xanh, tài chính Việt Nam.

The global economy and financial markets have experienced "the most adverse shock in a century" due to the impact of the Covid-19 pandemic, but they are also transforming strongly in the digital era. Accordingly, the global financial system in the period 2021 - 2030 will witness many key trends, posing many intertwined opportunities, as well as many risks and challenges due to the complicated and unpredictable fluctuations of the Covid-19 pandemic, the constant movement of the market and the appearance of new factors. Vietnam's financial system has achieved remarkable achievements, contributing to the mobilization and distribution and providing financial resources for the economy. The article will focus on discussing these major trends from both micro- and macro-management perspectives, and identify opportunities and challenges for the global financial system and Vietnam; thereby proposing some strategic solutions to help Vietnam take advantage of opportunities, overcome challenges, increase resilience and develop sustainably.

Keywords: Global financial trends, digital finance, green finance, Vietnam finance.

1. Xu hướng chủ đạo của hệ thống tài chính toàn cầu giai đoạn 2021 - 2030

Dưới tác động của chuyển đổi số, xúc tác của dịch bệnh và quá trình hội nhập quốc tế cùng sự thay đổi của xu hướng tiêu dùng dịch vụ tài chính theo hướng xanh hơn, có thể quan sát thấy 5 xu hướng chủ đạo của hệ thống tài chính toàn cầu trong giai đoạn tới.

1.1. Xu hướng chuyển đổi số mạnh mẽ

Sự phát triển của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với xu hướng chuyển đổi số đã và đang thay đổi mọi mặt hoạt động của lĩnh vực dịch vụ tài chính. Các công nghệ hiện đại, đột phá như điện toán đám mây, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, Internet vạn vật, tự động hóa quy trình bằng robot, sinh trắc học, công nghệ thực tế - ảo... ngày càng được ứng dụng rộng rãi, góp phần đa dạng hóa các hoạt động và kênh phân phối, hiện đại hóa sản phẩm, dịch vụ tài chính; gia tăng am hiểu nhu cầu, hành vi khách hàng; tăng năng suất, chất lượng hoạt động của hệ thống tài chính. Chuyển đổi số cũng đang diễn ra mạnh mẽ trong các lĩnh vực tài chính như bảo hiểm, kinh doanh bất động sản và giáo dục tài chính cũng như sự phát triển mạnh của các trung tâm công nghệ tài chính toàn cầu, trong đó có các trung tâm tài chính hàng đầu khu vực châu Á như Singapore, Hồng Kông, Dubai

Trên góc độ quản lý và giám sát, phương thức quản lý truyền thống đơn thuần sẽ dần được thay thế bởi các phương thức quản lý hiện đại và đa dạng phù hợp với nền kinh tế số và hệ thống tài chính số. Thực tế, các ngân hàng trung ương trên thế giới đang nỗ lực tìm kiếm phương thức quản lý phù hợp với những bước phát triển mới của công nghệ và sự đa dạng của các các loại hình, chủ thể tài chính, đặc biệt là các công ty fintech và các công ty công nghệ tham gia lĩnh vực tài chính/thanh toán. Ngân hàng Thanh toán quốc tế [BIS] và một số ngân hàng trung ương đã thống nhất thành lập Trung tâm đổi mới ứng phó các xu hướng công nghệ, dự kiến đặt trụ sở tại Basel [Thụy Sỹ], Hồng Kông và Singapore, nhằm ứng phó kịp thời với các xu hướng công nghệ mới, tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu.

1.2. Xu hướng phát triển tiền kỹ thuật số

Tiền kỹ thuật số [KTS] là sản phẩm tài chính dựa trên công nghệ hiện đại, vì vậy xu thế tồn tại và phát triển của tiền KTS là tất yếu bởi sự cộng hưởng của các yếu tố nền tảng và động lực chính như xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ; xu thế phát triển thanh toán hiện đại và kinh tế số; những rủi ro liên quan đến tiền mặt, tiền tệ truyền thống là động lực đồng thời cũng là sức ép đối với sự phát triển đồng tiền số.

Tính đến hết ngày 15/4/2021, trên thế giới ghi nhận sự xuất hiện của 4.684 loại tiền KTS không chính thống, với tổng giá trị vốn hóa gần 2.200 tỷ USD; trong đó, giá trị vốn hóa của 10 đồng tiền KTS phổ biến nhất đạt gần 1.930 tỷ USD [chiếm gần 90% toàn thị trường] và nổi bật nhất là Bitcoin chiếm 55% tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường. Mặc dù có nhiều ưu điểm và tiềm năng nhưng tiền KTS không chính thống cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro [rủi ro pháp lý, nguy cơ bất ổn đối với hệ thống thanh toán, tài chính; rủi ro kỹ thuật và hoạt động phi pháp; thách thức đối với điều hành chính sách của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý] nên loại tiền này chưa được nhiều quốc gia, cơ quan quản lý và đông đảo người dân chấp nhận.

Tiền KTS chính thống được phát hành và quản lý bởi ngân hàng trung ương [CBDC] có nhiều ưu điểm nổi trội hơn, bù đắp những nhược điểm của đồng tiền số không chính thống, đồng thời được đảm bảo bởi các tổ chức uy tín toàn cầu và mức độ chấp nhận rộng rãi. Việc phát triển CBDC là xu thế và đang ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, quan điểm về phát hành đồng CBDC có sự khác biệt lớn giữa nhóm nước phát triển và nhóm nước mới nổi. Theo đó, có thể chia thành 3 nhóm: [i] Nhóm tiên phong [Trung Quốc, Thụy Điển, Uruguay, Barbados, Bahamas]; [ii] Nhóm ủng hộ tích cực và đang nghiên cứu phát hành [Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sỹ, Pháp, Ả rập Xê út, Canada, Thái Lan, Singapore]; [iii] Nhóm thận trọng xem xét bởi lo ngại những tác động tiêu cực, rủi ro do CBDC mang lại đối với sự ổn định tài chính, cấu trúc ngân hàng, sự gia nhập của các tổ chức phi ngân hàng trong hệ thống tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ [Hoa Kỳ, Đức, Anh, Nga].

Theo ước tính của BIS [2020], có khoảng 20% dân số thế giới có thể tiếp cận CBDC trong vòng 3 năm tới, song cũng còn những hạn chế nhất định về mặt công nghệ, pháp lý để chính thức vận hành tại mỗi quốc gia và toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia cần có cách tiếp cận phù hợp và hợp tác quốc tế trong công nhận, quản lý, giám sát các loại tiền KTS.

1.3. Xu hướng tái cấu trúc, lành mạnh hóa và chuẩn hóa hệ thống tài chính

Tái cấu trúc là cụm từ được nhắc đến nhiều nhất trong những kế hoạch khôi phục nền kinh tế và TTTC toàn cầu trong và sau dịch Covid-19. Các chiến lược tái cơ cấu tập trung vào cắt giảm nhân sự, chi phí vận hành; sáp nhập các bộ phận, điều chuyển các vị trí nhân sự; cơ cấu lại màng lưới hoạt động; đầu tư mạnh vào công nghệ số; hợp tác, mua lại một số sản phẩm, dịch vụ của Fintech, hợp tác với Bigtech tạo lập hệ sinh thái Hoạt động mua bán và sáp nhập [M&A] trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng đã tăng mạnh từ nửa cuối năm 2020 và dự báo tiếp tục sôi động về số thương vụ và giá trị trong giai đoạn 2021 - 2022. Thị trường có thể sẽ chứng kiến các thương vụ M&A lớn trong lĩnh vực ngân hàng như: UBS và Credit Suisse [Thụy Sỹ]; Caixa Bank và Bankia [Tây Ban Nha]; Citic Sercurities và CSC Financial [Trung Quốc], làn sóng M&A của các ngân hàng, định chế tài chính Nhật Bản tại khu vực ASEAN1 Trong lĩnh vực chứng khoán, tái cấu trúc, hiện đại hóa hoạt động là yêu cầu quan trọng nhằm khắc phục các sự cố rủi ro kỹ thuật [nghẽn lệnh, tạm ngừng giao dịch, đóng cửa] trên toàn cầu khi nhiều thị trường chứng khoán [TTCK] trên thế giới xác lập mốc lịch sử.

Mặc dù xu hướng nới lỏng tài khóa và tiền tệ vẫn là xu hướng phổ biến toàn cầu hiện nay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình vượt qua khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, nhưng các điều kiện tín dụng dường như lại theo hướng khá chặt chẽ hơn là nới lỏng. Hầu hết các quốc gia không hạ chuẩn tín dụng, các tiêu chuẩn tín dụng được các tổ chức tín dụng [TCTD], định chế tài chính áp dụng ở mức cao nhằm kiểm soát rủi ro, tăng bộ đệm an toàn vốn, áp dụng nhiều hơn các chuẩn mực quản lý rủi ro theo Basel III, IV [nhất là quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro đòn bẩy tài chính và kinh doanh phái sinh.].

1.4. Xu hướng phát triển tài chính xanh, ngân hàng xanh

Trước những tác động nặng nề của dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, nhận thức và hành vi của nhân loại toàn cầu ngày càng chuyển biến mạnh mẽ theo hướng gắn với bảo vệ sức khỏe, môi trường, tiết kiệm và dự phòng, xu hướng ưu tiên phát triển kinh tế xanh, năng lượng sạch. Theo Nhà cung cấp dữ liệu tài chính Refinitiv, xu hướng tìm kiếm về tam giác phát triển bền vững: môi trường, xã hội và quản trị [ESG] qua Google giai đoạn 2017 - 2020 đã tăng gấp 10 lần giai đoạn 2011 - 2015, cho thấy mức độ quan tâm ngày càng lớn đến xanh hóa nền kinh tế và thị trường tài chính. ESG cũng là một trong các tiêu chí bổ sung của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế như Moodys và Fitch Ratings.

Chiến lược xanh hóa tài chính sẽ bao trùm toàn bộ các bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính: trung gian tài chính xanh, [bao gồm thị trường các-bon, thị trường trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh và chỉ số chứng khoán xanh], công cụ huy động vốn xanh và đầu tư xanh. Xu hướng đầu tư bền vững [qua các quỹ ESG] đang trở thành xu hướng chủ đạo trên toàn cầu, bên cạnh các tiêu chí truyền thống như tăng trưởng lợi nhuận, năng lực tài chính. Đối với TTCK, sự ra đời và phát triển TTCK xanh bền vững [SSE]2 là giải pháp quan trọng để khắc phục rủi ro, biến động, hướng tới phát triển bền vững hơn, xanh hơn. Tính đến cuối năm 2020, vốn hóa SSE đã lên tới hơn 88.300 tỷ USD, số lượng thành viên SSE đã lên tới 107 TTCK và 53.403 doanh nghiệp niêm yết, đáng chú ý là sự tham gia của nhiều TTCK quy mô nhỏ của các nước đang phát triển thu nhập thấp.

1.5. Xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

Cùng với sự phát triển của các hiệp định thương mại tự do [FTA] thế hệ mới và các trung tâm fintech, cơ hội hợp tác, phát triển thương mại và đầu tư quốc tế, tài chính quốc tế ngày càng rộng mở, đặc biệt với các nền kinh tế đang phát triển năng động. Trên góc độ quản lý, sự hợp tác trong quản lý, chia sẻ dữ liệu, thông tin giữa các ngân hàng trung ương, các cơ quan quản lý tiền tệ quốc tế sẽ góp phần đổi mới nguyên tắc và phương thức quản lý theo hướng tập trung quản lý quá trình cung ứng dịch vụ tài chính, thay vì chú trọng vào tổ chức hay công nghệ; chuyển từ quản lý dựa trên nguyên tắc chung sang quản lý dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro theo thông lệ quốc tế. Đồng thời, hội nhập quốc tế sẽ góp phần tăng cường bảo mật thông tin và an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và đảm bảo ổn định hệ thống tài chính. Theo đó, các quy định về thanh tra, giám sát, xử phạt vi phạm hành chính; phòng chống tội phạm công nghệ cao cần thường trực hơn, có sự hợp tác trên phạm vi khu vực và quốc tế, với quy mô, phạm vi rộng lớn hơn để thích ứng với sự phát triển nhanh, liên tục, đa chiều, xuyên biên giới của công nghệ tài chính, tiền KTS, cũng như sự tinh vi, phức tạp của tội phạm công nghệ cao và tội phạm tài chính.

2. Rủi ro, thách thức hệ thống tài chính toàn cầu

Xu hướng phát triển tài chính toàn cầu và kỳ vọng phục hồi, tăng trưởng của nền kinh tế và doanh nghiệp là nền tảng tạo nên sự khởi sắc của TTTC toàn cầu trong năm 2020 - 2021 và trung hạn. Tuy nhiên, hệ thống tài chính toàn cầu đã, đang và sẽ chịu tác động không nhỏ bởi diễn biến phức tạp khó lường của dịch Covid-19, vấn đề sản xuất và phân phối vắc-xin chưa đồng đều, sự phục hồi chưa bền vững của nền kinh tế và nguy cơ rủi ro nội tại của TTTC.

2.1. Nguy cơ bất ổn tài chính toàn cầu tiềm ẩn

Sau hơn 1 năm kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu, các dấu hiệu rủi ro chính đối với hệ thống tài chính toàn cầu mặc dù đã được nhận diện và cảnh báo song vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ gia tăng, bùng phát thậm chí kéo dài 2 - 3 năm tới. Trong đó, 6/7 dấu hiệu chính của rủi ro tài chính vẫn có biểu hiện gia tăng, đặc biệt là khu vực chính phủ, khu vực hộ gia đình, bảo hiểm, quản lý tài sản.

[i] Bom nợ vẫn là nguy cơ lớn nhất, trong cả 3 khu vực nợ chính phủ và nợ của doanh nghiệp và hộ gia đình3. Gánh nặng nợ sẽ khó lường hơn khi lãi suất tăng lên, nhất là tại các nước đang phát triển và thu nhập thấp và khó khăn hơn trong việc tiếp cận vắc-xin4.

[ii] Rủi ro gia tăng với khu vực bảo hiểm và quản lý tài sản. Theo Báo cáo của Hãng kiểm toán Deloitte [tháng 01/2021], thị trường bảo hiểm toàn cầu chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19. Quy mô thị trường bảo hiểm toàn cầu năm 2020 đạt 6.100 tỷ USD, giảm 2,8% so với năm 2019, chủ yếu do bảo hiểm nhân thọ giảm mạnh 6,0%/năm. Đối với lĩnh vực quản lý tài sản, tình trạng suy giảm lợi nhuận/thua lỗ/tạm dừng hoạt động của các quỹ đầu tư [đặc biệt là các quỹ đầu tư cổ phiếu] khá phổ biến trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, biến động giá cả hàng hóa, tiền tệ.

[iii] Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản vẫn tiềm ẩn nguy cơ sụt giảm do đà phục hồi kinh tế chưa chắc chắn và không đồng đều, áp lực lạm phát gia tăng, tâm lý bầy đàn và tình trạng tăng nóng của TTCK toàn cầu.

[iv] Các thị trường mới nổi đối mặt với nguy cơ đảo chiều dòng vốn ngoại. Dòng vốn đầu tư gián tiếp [FII] đã ổn định hơn từ cuối năm 2020 nhưng vẫn có nguy cơ sụt giảm trong năm 2021 - 2022. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF [tháng 4/2021], nếu tốc độ phục hồi kinh tế không đạt dự kiến và tiến trình cung ứng vắc-xin xấu hơn so với kịch bản cơ sở, dòng vốn FII ròng toàn cầu sẽ giảm khoảng 25 - 28% so với năm 2020, xuống -110 tỷ USD và mức sụt giảm lớn hơn là ở các quốc gia có thu nhập thấp, thâm hụt vãng lai lớn, nợ công cao, tình trạng dịch bệnh diễn biến phức tạp, việc phân phối vắc-xin chậm.

[v] Hệ thống ngân hàng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Mặc dù khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng toàn cầu ngày càng tốt hơn, nhưng nợ xấu một số khu vực như Trung Quốc, các nước mới nổi vẫn ở mức cao, thậm chí gia tăng. Thêm vào đó, hệ thống ngân hàng còn phải đối mặt với các thách thức mới như tình trạng báo động của ngân hàng ngầm, sự phát triển của fintech, tiền KTS

[vi] Vấn đề an ninh mạng và tội phạm tài chính ngày càng phức tạp. Sự phát triển của các công nghệ mới trong Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như 5G, IoT, điện toán đám mây, AI góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của tài chính số, ngân hàng số, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán xuyên biên giới, tuy nhiên đây cũng là cơ sở để tội phạm mạng lợi dụng tấn công có chủ đích trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

2.2. Nguy cơ phục hồi chưa chắc chắn và không đồng đều của nền kinh tế toàn cầu làm rủi ro tài chính gia tăng

Cuộc khủng hoảng kinh tế và y tế do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã làm cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 sụt giảm -3,3% so với năm 2019 - mức thấp nhất kể từ năm 1930; đà phục hồi dự báo ở mức tăng trưởng 6% năm 2021 và 4,4% năm 2022 [IMF, tháng 4/2021]. Quá trình phục hồi kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào việc phát triển, cung cấp, phân phối và tiêm chủng vắc-xin trên phạm vi toàn cầu. Theo Công ty nghiên cứu CitiResearch [tháng 02/2021], vắc-xin sẽ giúp GDP toàn cầu tăng trưởng thêm 4,1 điểm phần trăm trong năm 2021 - 2022. Tuy nhiên, việc phân phối vắc-xin đang đối diện với nhiều khó khăn, đáng lo ngại nhất là tình trạng bất bình đẳng, không đồng đều và yếu tố tâm lý. Những yếu tố tiêu cực này làm cho đà phục hồi kinh tế bị chậm lại, kéo dài và mức độ phục hồi không chắc chắn, từ đó có thể ảnh hưởng, làm trầm trọng thêm nguy cơ rủi ro tài chính. Thêm vào đó, biến động địa chính trị còn phức tạp làm cho giá vàng, giá dầu biến động mạnh, có tác động đến TTTC toàn cầu cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, áp lực lạm phát tăng, lãi suất tăng và xu hướng giảm dần các gói nới lỏng định lượng; xu hướng bảo hộ thương mại; cạnh tranh chiến lược, căng thẳng thương mại - công nghệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc; sự biến động mạnh và khó đoán của giá cả hàng hóa thế giới đều làm rủi ro bất ổn tài chính gia tăng.

3. Xu hướng, triển vọng và thách thức của hệ thống tài chính Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2030

3.1. Xu hướng và triển vọng

Việt Nam cũng đang bắt nhịp theo 5 xu hướng chủ đạo của TTTC toàn cầu. Đó là các xu hướng chuyển đổi số; tái cấu trúc, lành mạnh hóa và chuẩn hóa; phát triển tài chính xanh, ngân hàng xanh; hội nhập tài chính - ngân hàng. Riêng xu hướng phát triển tiền KTS, Việt Nam có thể thuộc nhóm 3 - nhóm thận trọng xem xét bởi lo ngại những tác động tiêu cực, rủi ro của tiền KTS nói chung và CBDC đối với sự ổn định tài chính, cấu trúc của hệ thống tài chính [trong đó có sự gia tăng của các tổ chức phi ngân hàng] và sự vận hành của chính sách tiền tệ. Sau 34 năm đổi mới và phát triển, cùng với những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính Việt Nam đã phát triển nhanh về cả chất và lượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế. Năm 2020, quy mô TTTC Việt Nam [gồm cả 3 khu vực: ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm] tương đương 334% GDP. Cùng với đó, khuôn khổ pháp lý cho TTTC ngày càng được hoàn thiện nâng cao tính minh bạch, an toàn, chuẩn mực, tiệm cận thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao sức chịu đựng, khả năng phòng ngừa, ứng phó với nguy cơ rủi ro.

Xu hướng phát triển tài chính số

Việt Nam đã và đang khẳng định vị thế một trong những quốc gia năng động nhất thế giới trong phát triển kinh tế số, tài chính số, đặc biệt là giai đoạn phát triển mới hậu Covid-19. Động lực quan trọng để trở thành TTTC phát triển khu vực châu Á và thế giới chính là sự gia tăng dân số trong độ tuổi lao động [khoảng 58% dân số Việt Nam], dân cư đô thị [40% dân số] và mức độ sử dụng internet, điện thoại thông minh tăng mạnh [tỷ lệ sử dụng internet chiếm 70,4% dân số, đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN; số lượng kết nối di động đã đạt 145,8 triệu, gấp 1,5 lần dân số Việt Nam]. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam cao nhất khu vực ASEAN đạt trung bình 27% trong giai đoạn 2015 - 2020 và dự kiến đạt trung bình 25 - 30% trong giai đoạn 2021 - 2025 [Google and Temasek, 2020]. Việt Nam cũng đã và đang có những bước tiến vượt bậc về tài chính số Việt Nam, đặc biệt là thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển đổi số của các ngân hàng thương mại ̣[NHTM] và các công ty fintech.

Việt Nam đứng đầu ASEAN về tốc độ phát triển fintech, số lượng các công ty fintech năm 2020 đạt 115, gấp 2,6 lần năm 2017. Theo khảo sát của Hãng kiểm toán PwC [2017], 72% các công ty fintech Việt Nam đang tích cực hợp tác với NHTM trong khai thác bộ phận thị trường dân cư chưa có tài khoản ngân hàng [40%] và khai thác mảng dịch vụ tài chính ngân hàng mới [thanh toán, gọi vốn cộng đồng, cho vay trực tuyến, AI, Blockchain], góp phần xóa bỏ tín dụng đen, minh bạch hóa TTTC cá nhân, phát triển TTTC tiêu dùng Việt Nam.

Tính đến cuối năm 2020, có 78 NHTM và tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán qua internet; 45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán di động; 34/37 tổ chức phi ngân hàng cung cấp dịch vụ ví điện tử; thí điểm Mobile money qua các doanh nghiệp viễn thông Viettel, VNPT, MobiFone. Theo Ngân hàng Nhà nước [NHNN], năm 2020, số tài khoản cá nhân đạt 95.6 triệu tài khoản, tăng 45,5% so với năm 2016; giá trị thanh toán di động, thanh toán internet và thanh toán qua POS tăng lần lượt 794%, 353,1% và 139,5% so với cùng kỳ năm 2016.

Xu hướng tái cơ cấu, lành mạnh hóa hệ thống tài chính Việt Nam

Hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục được cơ cấu lại góp phần cạnh tranh, tăng tính minh bạch, chuyên nghiệp và hiện đại [áp dụng Basel III và IV]. Tăng trưởng của các TCTD sẽ dựa nhiều hơn vào nguồn thu phí, dịch vụ [tỷ lệ thu phí dịch vụ sẽ tăng dần từ khoảng 20% năm 2020 lên khoảng 30 - 35% vào năm 2025]. Nợ xấu thực chất hơn và được kiểm soát ở mức 2 - 3%. Cùng với quá trình tái cơ cấu TCTD, M&A trong lĩnh vực ngân hàng sẽ tiếp tục sôi động trong giai đoạn 2021 - 2025, do đó, số lượng các TCTD có thể giảm nhưng sẽ tăng trưởng theo chiều sâu với mô hình tăng trưởng dựa vào ít vốn hơn.

Thị trường vốn ngày càng phát triển đa dạng, hiện đại. Việt Nam là một trong 10 thị trường chứng khoán có sức chống chịu với dịch Covid-19 và tăng trưởng tốt nhất thế giới năm 2020. Thị trường trái phiếu chính phủ được đánh giá là thị trường phát triển nhất ASEAN. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng mạnh và có chuyển biến về chất, quy mô thị trường đạt khoảng 13% GDP năm 2020, vượt mục tiêu đề ra. TTCK phái sinh dù mới ra đời 3 năm song đã có bước tăng trưởng vượt bậc với khối lượng mở [OI] tăng 143% và khối lượng giao dịch bình quân năm 2020 tăng gần 80% so với năm 2019 phát huy hiệu quả vai trò phòng vệ rủi ro. Thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng khá [doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 19,5%, đạt 3,3% GDP, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ đạt gần 11% trong giai đoạn 2010 - 2020], các sản phẩm bảo hiểm đa dạng. Các doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số góp phần nâng cao trải nghiệm của khách hàng.

Xu hướng xanh hóa hệ thống tài chính Việt Nam được chú trọng

Xu hướng phát triển tài chính xanh đã được quan tâm đẩy mạnh: phát hành thí điểm thành công trái phiếu chính quyền xanh [thành phố Hồ Chí Mình và Vũng Tàu]. NHTM bước đầu đã có những chính sách cho tín dụng xanh ưu tiên một số ngành, lĩnh vực theo hướng đầu tư theo chiều sâu, sử dụng công nghệ cao; đã có 3 NHTM áp dụng được Hệ thống quản lý trách nhiệm với môi trường và xã hội [ESMS], 17 NHTM đã xây dựng quy trình thẩm định rủi ro môi trường và xã hội trong các quy định nội bộ, đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Chỉ số Phát triển bền vững phiên bản 1.0 [chỉ số VNSI] theo các tiêu chí ESG được chính thức vận hành từ tháng 7/2017 tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư ngoại. Xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn ESG trong lựa chọn cổ phiếu đã bắt đầu tăng mạnh từ quý II/2020...

Xu hướng hội nhập quốc tế

Hội nhập là cơ hội để nền kinh tế và TTTC Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại và hội nhập, minh bạch hóa theo chuẩn mực quốc tế. Cùng với các cam kết theo các FTAs thế hệ mới, dịch vụ tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được tự do hóa. Xu hướng liên kết ngân hàng - bảo hiểm - chứng khoán - dịch vụ tài chính khác tạo nên hệ sinh thái hoàn chỉnh, vượt qua giới hạn về khoảng cách về địa lý. Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài sẽ được nâng dần, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài và tăng thanh khoản thị trường. Bên cạnh đó, NHNN sẽ tăng dần tính độc lập, chủ động, giải trình và hiện đại; tăng cường năng lực thể chế, hiệu lực, hiệu quả và phạm vi thanh tra, giám sát, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, hệ thống tài chính Việt Nam có cơ hội khẳng định vị thế trên các bảng xếp hạng quốc tế, đáng chú ý là Việt Nam đã chính thức trở thành thị trường có tỷ trọng cổ phiếu lớn nhất trong rổ chỉ số các thị trường cận biên và có cơ hội phát triển lên thị trường mới nổi trước năm 2025 với chất lượng quản trị công ty hướng tới mức bình quân ASEAN-6; triển vọng phát triển trung tâm tài chính công nghệ quốc tế thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với đó, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Diễn đàn thị trường vốn ASEAN [ACMF] năm 2020 góp phần nâng cao năng lực thích ứng, quản lý rủi ro tài và sẵn sàng xử lý bất ổn tài chính khu vực và toàn cầu.

3.2. Một số thách thức, rủi ro

Là một nền kinh tế có độ mở lớn, hệ thống tài chính Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi sự phục hồi chưa thực sự bền vững của nền kinh tế và TTTC toàn cầu cũng như những khó khăn nội tại của nền kinh tế. Theo đó, hệ thống tài chính Việt Nam cũng đối diện với 5 rủi ro, thách thức chính.

[i] Hệ thống tài chính Việt Nam đối mặt với nguy cơ rủi ro tài chính do ảnh hưởng của thế giới. Mức độ rủi ro và sức chịu đựng của TTTC Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình - khá5. Tuy nhiên, một số khu vực đang có sức chịu đựng ở mức trung bình nhưng lại bị ảnh hưởng nhiều bởi biến động TTTC thế giới và luôn tiềm ẩn nguy cơ chuyển sang trạng thái rủi ro cao hơn nếu thiếu các biện pháp kịp thời, hiệu quả. Đáng chú ý, TTCK Việt Nam được dự báo tiếp tục tăng trưởng song nguy cơ rủi ro, mức độ biến động cũng tương đối cao [đặc biệt nếu dòng vốn rẻ còn phổ biến và tình trạng đòn bẩy tải chính thiếu kiểm soát chặt chẽ]6. Quy mô còn nhỏ, hàng hóa chưa phong phú, tính minh bạch chưa cao, chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Các loại hình quỹ đầu tư chưa phát triển. Hệ thống công nghệ thông tin còn lạc hậu. Khu vực ngân hàng luôn chịu áp lực tăng vốn [do nền vốn còn mỏng; CAR còn thấp trong khi phụ thuộc vào tín dụng; tỷ lệ tín dụng/GDP khá cao, khoảng 138%, cao hơn so với mức bình quân ASEAN-9 là 86% GDP]. Nợ xấu tiềm ẩn có nguy cơ gia tăng [có thể lên 2,5 - 3% trong năm 2021 - 2022 khi các hỗ trợ giãn hoãn, gia hạn thời gian trả nợ hết hiệu lực]. Cùng với đó là trách nhiệm trích lập dự phòng rủi ro tăng thêm trong giai đoạn 2021 - 20237. Thị trường bảo hiểm và quản lý tài sản Việt Nam mặc dù có sự tăng trưởng khá tích cực [lần lượt tăng 15% và 20% trong giai đoạn 2016 - 2020, mức tăng cao so với nhiều thị trường mới nổi đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19] song vẫn là các thị trường non trẻ, khả năng cạnh tranh còn thấp so với khu vực và thế giới.

[ii] Quy mô, sức cạnh tranh của nền kinh tế và hệ thống tài chính Việt Nam ngày càng được tăng cường, củng cố nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Hệ thống thể chế, công nghệ, nguồn nhân lực đối với TTTC ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển ổn định, lành mạnh của nền kinh tế và bản thân hệ thống tài chính. Hệ thống luật chuyên ngành chi phối lĩnh vực tài chính - ngân hàng đang được chuẩn hóa, hoàn thiện theo thông lệ quốc tế. Mạng lưới an toàn hệ thống tài chính - tiền tệ; năng lực quản lý tài chính - tiền tệ được hình thành. Năng lực phòng chống rủi ro có nhiều cải thiện theo hướng chủ động, linh hoạt. Chính sách tài khóa và tiền tệ đã có nhiều bước tiến quan trọng, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô Tuy nhiên, sức cạnh tranh của TTTC Việt Nam còn thấp so với khu vực nên nguy cơ rủi ro cao và sức chịu đựng có thể suy giảm. Mặc dù đã đạt kết quả ấn tượng trong năm 2020 nhưng quy mô, giá trị giao dịch và vốn hóa TTCK, thị trường trái phiếu, bảo hiểm chưa tương xứng với tiềm năng. Tỷ lệ tài khoản chứng khoán/dân số và tài khoản ngân hàng/dân số ở mức thấp so với khu vực8. Tỷ lệ thâm nhập sử dụng bảo hiểm của Việt Nam còn rất thấp, chỉ 2,7% dân số so với trung bình các quốc gia mới nổi khác là 3,3%. Phí bảo hiểm bình quân đầu người mới chỉ ở mức 72USD/người/năm chưa bằng một nửa so với trung bình các quốc gia mới nổi. Tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán của Việt Namcòn cao hơn mục tiêu 10% đến cuối năm 2020. Vì vậy, vấn đề thể chế, năng lực quản lý rủi ro hệ thống tài chính; tính minh bạch, chuyên nghiệp của môi trường đầu tư vẫn là thách thức khá lớn trong bối cảnh kinh tế số, tài chính - tiền tệ số đang phát triển nhanh.

[iii] Hệ thống tài chính Việt Nam còn gặp thách thức đến từ nội tại nền kinh tế. Mặc dù đã đạt được kết quả tăng trưởng kinh tế tích cực trong bối cảnh suy thoái toàn cầu [tăng trưởng 2,91% năm 2020 và dự báo tiếp tục tăng trưởng ở mức 6,5 - 7% trong giai đoạn 2021 - 2025], song nền kinh tế Việt Nam vẫn đang đối diện với 5 thách thức nội tại lớn: chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh chưa cao, tái cơ cấu còn chậm và chưa đi vào chiều sâu; sức ép cạnh tranh, rủi ro pháp lý, rủi ro lan truyền trong quá trình hội nhập; kết quả thực hiện ba đột phá chiến lược [thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng] còn chưa đạt kỳ vọng; vấn đề già hóa dân số ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực; Việt Nam là một trong 6 quốc gia bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu; ô nhiễm môi trường gia tăng.

[iv] Hệ thống tài chính Việt Nam đối mặt với rủi ro tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong phòng ngừa và trấn áp tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng; làm chủ 90% hệ sinh thái các sản phẩm an toàn, an ninh mạng và đầu tư nhiều giải pháp an toàn thông tin như tường lửa thế hệ mới, phần mềm ngăn chặn mã độc, xác thực bằng sinh trắc học [vân tay, tĩnh mạch lòng bàn tay, giọng nói], chữ ký số. Tuy nhiên, hoạt động phòng chống tội phạm tài chính - ngân hàng còn gặp nhiều thách thức do hạn chế về thể chế, năng lực tổ chức quản lý; còn nhiều lỗ hổng bảo mật chưa được khắc phục kịp thời; số vụ tấn công lừa đảo chiếm đoạt tài khoản ngân hàng dự báo tiếp tục tăng.

[v] Phát triển tài chính xanh, ngân hàng xanh còn gặp nhiều thách thức. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020 [Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 06/8/2015], Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam [Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018], tài chính xanhđã đạt được những kết quả bước đầu; chỉ số VN-Index và HNX-Index đã tham gia sáng kiến SSE từ năm 2015 Tuy nhiên, tài chính xanh Việt Nam mới được xem là một xu hướng đầu tư, phát triển và vẫn đang đối diện với nhiều thách thức như hệ thống pháp luật về tài chính xanh còn sơ khai; các NHTM chưa có bộ phận riêng chuyên trách về tín dụng xanh; lượng vốn tín dụng xanh khá lớn trong khi hiệu quả tài chính chưa cao; chưa phát triển trái phiếu doanh nghiệp và các công cụ nợ xanh; ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp và người dân về bảo vệ môi trường và phát triển tài chính xanh, tiêu chuẩn ESG còn hạn chế Theo Công ty Tư vấn chuyên về đầu tư bền vững RobecoSAM9, Việt Nam là một trong 10 nước có chỉ số ESG thấp nhất.

4. Một số giải pháp chiến lược đối với Việt Nam

Hệ thống tài chính Việt Nam đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ và sức chịu đựng ngày càng được tăng cường song triển vọng phát triển phụ thuộc khá lớn vào vào sự phục hồi của nền kinh tế và TTTC toàn cầu, sự ổn định, bền vững của niềm tin nhà đầu tư trên thị trường. Vì vậy, để có thể vừa chủ động nắm bắt cơ hội, triển vọng phát triển, vừa phòng ngừa rủi ro, hướng tới phát triển bền vững, cần có những giải pháp chiến lược.

Các chiến lược và thể chế pháp luật trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cần được hoàn thiện và thực thi có hiệu quả. Theo đó, việc sửa đổi Luật NHNN, Luật các TCTD, Luật Bảo hiểm tiền gửi cần được xem xét; Luật Chứng khoán 2019 [có hiệu lực ngày 01/01/2021] cần được thực hiện và Luật Kinh doanh bảo hiểm [cho phép mô hình Tập đoàn tài chính] cần được hoàn thiện. Các đề án như Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 [Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018]; Chiến lược phát triển tài chính xanh, ngân hàng xanh cần được xây dựng thống nhất triển khai từ trung ương đến địa phương

Hành lang pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới trong nền kinh tế số và tài chính - tiền tệ số và tài chính xanh [bao gồm cơ chế quản lý thử nghiệm] cần sớm hoàn thiện, nhằm tạo điều kiện cho hoạt động của các công ty fintech, các mô hình kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ, ứng dụng Blockchain, AI, điện toán đám mây Bên cạnh đó, Trung tâm Fintech [có thể lựa chọn tại thành phố Hồ Chí Minh bởi đây là nơi đặt trụ sở của 60% công ty fintech và các câu lạc bộ fintech] cần sớm được xây dựng để hỗ trợ NHNN, Ban chỉ đạo fintech, các TCTD trong quá trình vận hành cơ chế quản lý thử nghiệm. Ngoài ra, nhóm chuyên trách nghiên cứu về xu hướng CBDC và cách tiếp cận của Việt Nam cần được nghiên cứu thành lập. Đồng thời, lộ trình phát triển hệ thống tài chính xanh của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 cũng cần sớm được xây dựng với 4 trụ cột chính: trung gian tài chính xanh, các công cụ huy động vốn xanh, các doanh nghiệp đầu tư xanh và TTTC xanh.

Năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính - tiền tệ cần được nâng cao. Theo đó, NHNN và các cơ quan quản lý, giám sát [Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi] cần độc lập và được trao quyền nhiều hơn. Mô hình quản lý - giám sát rủi ro hệ thống, mô hình ổn định tài chính - tiền tệ và cơ chế xử lý khủng hoảng cần được xây dựng. Các công cụ, hình thức thanh tra, giám sát cần được hiện đại hóa. Các vi phạm trên thị trường cần có chế tài nghiêm minh. Bên cạnh đó, hiệu quả phối hợp chính sách [nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa] cần tiếp tục nâng cao nhằm đạt hiệu quả trong chính sách lãi suất, huy động vốn trung, dài hạn; thúc đẩy tiến trình nâng hạng của TTCK Việt Nam. Các khoản tín dụng chính sách với tín dụng thương mại cần được tách bạch rõ để tăng tính tự chủ trong hoạt động của các định chế tài chính. Bộ chỉ số đánh giá mức độ xanh hóa hệ thống tài chính [ngân hàng xanh, đầu tư xanh, chứng khoán xanh, bộ chỉ số phát triển bền vững doanh nghiệp - SSI và bộ chỉ số tổng hợp tài chính xanh - GFI] cần được hình thành để xác định tiêu chí đánh giá.

Cơ quan quản lý cần chủ động xây dựng và nhất quán thực thi Chiến lược chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, trong đó xây dựng, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, xây dựng nguồn nhân lực số và hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại là then chốt. Ngoài ra, Đề án nâng hạng TTCK Việt Nam cũng cần được xây dựng và thực thi, trong đó, tính minh bạch, chuyên nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm - dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm hỗ trợ quản lý rủi ro, sản phẩm tài chính số và tài chính xanh, phải được đặc biệt chú trọng. Thêm vào đó, kiến thức tài chính cần được phổ cập nhằm nâng cao nhận thức của người dân khi sử dụng các dịch vụ tài chính số và phát triển tài chính xanh, xem đây như là một trụ cột trong Chiến lược tài chính toàn diện đến năm 2030.

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. Cấn Văn Lực [2021], Hình hài Việt Nam 2045.

2. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV [2021], Kinh tế - xã hội và hệ thống tài chính Việt Nam 2011 - 2030 - Định hướng và giải pháp trọng tâm đến năm 2030.

3. Ngân hàng phát triển châu Á [ADB], Chiến lược 2030 - Hướng tới một châu Á - Thái Bình Dương thịnh vượng, đồng đều, thích ứng và bền vững.

4. Ngân hàng Standard Chartered [2021], Triển vọng TTTC toàn cầu - Thời điểm tái cấu trúc?.

5. Vũ Nhữ Thăng [2021], Định hướng phát triển TTTC Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, Tạp chí Tài chính tháng 2/2021.

Tiếng Anh

6. Australia Aid, Csiro and Data 61 [2018], Vietnams Future Digital Economy Towards 2030 & 2045.

7. Google and Temasek [2018, 2019, 2020], E-Conomy SEA 2018 - 2020.

8. IMF [2021], Global Financial Stability Report and Fiscal Monitor.

9. OECD [2017], Green Finance and Investment Mobilising Bond Markets for a Low-Carbon Transition.

10. WB [2021], World Economic Outlook.

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 4 tháng 10/2021

*1 Chiến lược M&A của Nhật Bản được hỗ trợ bởi nguồn tiền dồi dào tích lũy trong 20 năm, lên tới hơn 2.345 tỷ USD, dưới hình thức tiền gửi ngân hàng với lãi suất 0%... Năm 2020, Việt Nam thuộc danh sách nhóm 5 điểm đến M&A của Nhật Bản.

*2 Đây là chương trình phối hợp của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển [UNCTAD], Hiệp ước toàn cầu Liên hợp quốc [UNGC]

*3 Theo IIF [tháng 3/2021], gánh nặng nợ toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng lên 365 - 375% GDP trong năm 2021.

*4 Tổ chức Y tế thế giới [WHO], tháng 4/2021 cho biết, sự mất cân bằng đáng báo động trong việc phân phối vắc-xin ngừa Covid-19 trên toàn cầu, tỷ lệ ở các nước thu nhập cao là 1/4 trong khi ở các nước thu nhập thấp, tỷ lệ này là 1/500.

*5 Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV [tháng 10/2020], Báo cáo Rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu và Việt Nam - Nhận diện và giải pháp.

*6 Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV [2021], Áp lực lạm phát và bong bóng tài sản năm 2021, //vneconomy.vn/ap-luc-lam-phat-va-bong-bong-tai-san-2021-647725.htm.

*7 Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc NHNN Việt Nam quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

*8 Theo WB, tỷ lệ người trưởng thành trên 15 tuổi có tài khoản ngân hàng mới chỉ đạt 45%, tỷ lệ tài khoản chứng khoán/dân số mới ở mức 2,7%, chưa đạt mục tiêu 3% đến năm 2020.

*9 RobecoSAM sử dụng bộ chỉ số bao gồm 17 chỉ số về môi trường [17%], xã hội [25%] và quản trị công ty [60%]. Các quốc gia được xếp điểm số từ 1 đến 10, với 10 là xếp hạng cao nhất, điểm của Việt Nam là 4.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề