Xử lý hành chính và xử phạt hành chính

Luật Xử lý vi phạm hành chính [VPHC] năm 2012 được sửa đổi bổ sung năm 2020 quy định trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC. Đến thời điểm hiện tại các quy định của Luật và Nghị định là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC, các văn bản đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc tăng cường trách nhiệm cũng như năng lực thực thi pháp luật của hệ thống các cơ quan, các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Trên cơ sở quy định của Luật và Nghị định hướng dẫn thi hành, ngày 12/02/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định cụ thể về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC và ngày 30/12/2021 Bộ Tư pháp ban hành Thông số 14/2021/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, tăng cường và nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền xử phạt VPHC được quy định thông qua hai nội dung lớn, quan trọng của Nghị định:  [i] Kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC và [ii] Xử lý kỷ luật người có thẩm quyền, trách nhiệm tương ứng trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC.

Cơ chế kiểm tra và xử lý kỷ luật người có thẩm quyền xử phạt góp phần tăng cường năng lực thực thi pháp luật về xử lý VPHC chính xác, kịp thời, công khai và minh bạch: Nghị định ban hành hướng tới các mục đích cơ bản, quan trọng, đó là: [1] xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật về xử lý VPHC; động viên, khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện pháp luật về xử lý VPHC; phát hiện những hạn chế, vướng mắc, bất cập, sai sót, vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC để kịp thời chấn chỉnh, xử lý, khắc phục; [2] phòng, chống, ngăn chặn các vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong việc tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý VPHC; [3] phát hiện các quy định chưa thống nhất, đồng bộ hoặc chưa phù hợp với thực tiễn để kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật về xử lý VPHC hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định rõ việc áp dụng đối với bốn loại chủ thể: [1] Cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về xử lý VPHC; cơ quan quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC; [2] Thủ trưởng cơ quan của người có thẩm quyền xử lý VPHC, Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền xử lý VPHC; [3] người có thẩm quyền xử lý VPHC, người có thẩm quyền lập biên bản VPHC; [4] cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC.

Với các quy định cụ thể, trực tiếp về kiểm tra, xử lý kỷ luật Nghị định 19/2019/NĐ-CP hướng tới mục tiêu cụ thể đó là tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền xử phạt trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC.

Công tác kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC được quy định tại Chương II của Nghị định, bao gồm các nhóm vấn đề chính: căn cứ, phương thức kiểm tra; thẩm quyền kiểm tra và thành lập đoàn kiểm tra; trình tự, thủ tục kiểm tra; nội dung kiểm tra; và kết luận kiểm tra. Ngoài ra còn quy định các nội dung khác liên quan đến hoạt động kiểm tra như: thành lập đoàn kiểm tra; tổ chức hoạt động của đoàn kiểm tra; quyền hạn, trách nhiệm của đoàn kiểm tra và trưởng đoàn kiểm tra, thành viên đoàn kiểm tra; quyền, trách nhiệm của đối tượng được kiểm tra. Giai đoạn thực hiện kết luận kiểm tra và theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra, bao gồm: tổ chức và báo cáo thực hiện kết luận kiểm tra; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra; thẩm quyền theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra.

Hoạt động kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC, quy định rõ căn cứ kiểm tra theo từng phương thức kiểm tra. Cụ thể, việc kiểm tra định kỳ có thể thực hiện theo địa bàn, chuyên đề hoặc theo ngành, lĩnh vực nhưng được tiến hành trên cơ sở kế hoạch kiểm tra hàng năm và được tiến hành khi có một trong những căn cứ pháp luật quy định như: theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; theo đề nghị của tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ trên cơ sở theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý VPHC; theo đề nghị của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp trên cơ sở theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý VPHC; theo yêu cầu quản lý nhà nước về xử lý VPHC; việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC thuộc phạm vi quản lý liên ngành đang có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập hoặc đối với vụ việc phức tạp. Về phương thức kiểm tra đột xuất là phương thức kiểm tra không theo kế hoạch vì có thể được tiến hành trên cơ sở yêu cầu quản lý và tình hình thực tế, đối với từng vụ việc trọng điểm, phức tạp hoặc có dấu hiệu sai phạm, trên cơ sở: theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của cá nhân, tổ chức hoặc có phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng về việc áp dụng pháp luật về xử lý VPHC chưa chính xác, có dấu hiệu xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; khi phát hiện vướng mắc hoặc dấu hiệu vi phạm trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, tài liệu do cơ quan, người có thẩm quyền xử lý VPHC gửi đến hoặc đang được lưu trữ, bảo quản theo quy định; qua theo dõi thi hành pháp luật về xử lý VPHC phát hiện có dấu hiệu vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Về thẩm quyền kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC: quy định Bộ Tư pháp với tư cách cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách người đứng đầu ngành, lĩnh vực có thẩm quyền kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC. Đối với vụ việc phức tạp, thuộc phạm vi quản lý liên ngành, trong phạm vi toàn quốc thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định cơ quan có trách nhiệm chủ trì thực hiện việc kiểm tra. Ở phạm vi địa phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC trong phạm vi địa bàn quản lý của mình trên cơ sở các căn cứ kiểm tra quy định tại Điều 5 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP. Ở cấp độ cơ quan, đơn vị cụ thể thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ hoặc cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp thì thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý người có thẩm quyền xử phạt VPHC thực hiện việc kiểm tra theo yêu cầu quản lý nhà nước về xử lý VPHC hoặc việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC thuộc phạm vi quản lý liên ngành đang có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập hoặc đối với vụ việc phức tạp [quy định tại các điểm đ và e khoản 1, khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP].

Người có thẩm quyền tiến hành kiểm tra việc thi hành pháp luật xử lý VPHC phải tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục kiểm tra được thực hiện theo trình tự cơ bản như: xây dựng và ban hành Kế hoạch kiểm tra; ban hành quyết định kiểm tra; tiến hành kiểm tra [Chương II Nghị định số 19/2020/NĐ-CP]:

Về nội dung kiểm tra: Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC về ba nội dung lớn: [1] Kiểm tra việc áp dụng pháp luật về xử phạt VPHC; [2] kiểm tra việc áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính; [3] kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC.

 Về Kết luận kiểm tra: là văn bản quản lý nhà nước do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành, có tính chất là văn bản hành chính để giải quyết vụ việc cụ thể đối với một hoặc nhiều đối tượng. Kết luận kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC là văn bản phản ánh toàn diện, đầy đủ về kết quả của cuộc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC nói chung, xử phạt VPHC nói riêng. Kết luận kiểm tra được người ra quyết định kiểm tra ban hành để đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền xử lý VPHC, chủ thể có thẩm quyền quản lý các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC, xác định tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, kiến nghị với cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp hoàn thiện hoạt động quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC và các biện pháp xử lý hành vi vi phạm phát luật phát hiện qua kiểm tra. Sau khi ban hành, kết luận kiểm tra được gửi cho đối tượng được kiểm tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thực hiện các nội dung nêu trong kết luận kiểm tra và công khai theo quy định của pháp luật.

Về tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra: Theo Nghị định số 19/2020/NĐ-CP công tác tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra thuộc trách nhiệm chính của đối tượng được kiểm tra. Tuy nhiên, người có thẩm quyền ban hành kết luận kiểm tra cũng có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra đối tượng được kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra và đây cũng là một trong những khâu quan trọng của công tác tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra, cụ thể: Đối tượng được kiểm tra phải tổ chức kịp thời và đầy đủ kết luận kiểm tra, cụ thể là các nội dung kiến nghị được nêu tại kết luận kiểm tra, đồng thời báo cáo thực hiện kết luận kiểm tra; người có thẩm quyền ban hành kết luận kiểm tra có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra.

Về Xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC: nhằm mục đích phòng, chống, ngăn chặn các vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong việc tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý VPHC. Xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC được quy định tại Chương IV của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, bao gồm: [1] Các hành vi vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC; [2] các hình thức xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC; [3] nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật công chức, viên chức có hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC. Trong đó nội dung về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật công chức, viên chức có hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC được thực hiện theo quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức; thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ có hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC được thực hiện theo quy định pháp luật áp dụng đối với cán bộ. Đối với người có thẩm quyền xử phạt và lập biên bản VPHC thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu, việc xử lý kỷ luật được được thực hiện theo quy định pháp luật có liên quan áp dụng đối với đối tượng này, trên cơ sở yêu cầu, kiến nghị tại kết luận kiểm tra; riêng đối những người trong cơ quan, đơn vị Quân đội nhưng không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng; những người trong cơ quan, đơn vị Công an nhưng không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ, công nhân công an; những người trong tổ chức cơ yếu nhưng không làm công tác cơ yếu thì được thực hiện theo quy định tại Nghị định này.

Với các nội dung đã nêu có thể thấy rõ, Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định rất đầy đủ, cụ thể hoạt động kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý VPHC, với mục tiêu hướng tới là nhằm bảo đảm yêu cầu áp dụng pháp luật về xử lý VPHC chính xác, công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội và không bỏ sót VPHC. Bên cạnh đó, các quy định về xử lý kỷ luật trong Nghị định số 19/2020/NĐ-CP đã cụ thể hóa các hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý VPHC, có sự kết nối giữa quy định về các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 12 Luật XLVPHC với chế tài kỷ luật của Luật Cán bộ công chức; các quy định này góp phần tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền xử phạt VPHC.

Chủ Đề