Bài tập lớn pháp luật về người khuyết tật năm 2024

  • 1. KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THANH TÂM PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THANH TÂM PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng được bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc và đảm bảo tính thực tiễn. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo chương trình và thực hiện các nghĩa vụ về tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Đà Nẵng, ngày tháng năm Tác giả luận văn Phạm Thị Thanh Tâm
  • 4. ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT, LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT........................................................................7 1.1. Người khuyết tật...................................................................................................7 1.2. Lao động là người khuyết tật .............................................................................11 1.3. Điều chỉnh của pháp luật về lao động là người khuyết tật.................................16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..........................................................................................................................33 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.....................................................................................................................33 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.....................................................................................................................44 2.3. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay...................................................54 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......61 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật....................61 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật .......................64 KẾT LUẬN..............................................................................................................74 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. CHỮ VIẾT TẮT ADA : The American with Disabilities Act Đạo luật người Mỹ khuyết tật ADAAA : The American with Disabilities Act Amendments Act Luật sửa đổi Đạo luật người Mỹ khuyết tật BLLĐ : Bộ luật lao động DDA : Disability Discrimination Act Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật LNKT : Luật người khuyết tật NKT : Người khuyết tật ILO : International Labour Organization Tổ chức Lao động Quốc tế WHO : World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới
  • 6. BẢNG Bảng 2.1: Tham gia lực lượng lao động/Participation in labor force .......................47 Bảng 2.2: Tỷ lệ tìm được việc làm của người lao động dựa trên trình độ học vấn.....49 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Lý do người khuyết tật không làm việc hoặc không có nhu cầu tìm việc...48
  • 7. cấp thiết của đề tài Lao động là một trong những hoạt động chủ yếu của con người. Ngay từ thuở sơ khai con người đã ý thức được rằng phải lao động để tạo ra thức ăn duy trì cuộc sống. Theo thời gian và không gian, xã hội phát triển thì lao động không chỉ đơn thuần là để tạo ra thức ăn cho bản thân mà sức lao động còn trở thành một loại hàng hóa đặc biệt được mua bán giữa người lao động và người sử dụng lao động. Có lẽ vì vậy mà các quy định về lao động của mỗi quốc gia nói riêng và các văn kiện pháp lý quốc tế hiện đại nói chung luôn dành rất nhiều sự quan tâm cho lĩnh vực lao động. Mặc dù, tính chất lao động có thể khác nhau giữa công việc này với công việc kia, sức lao động có thể khác nhau giữa người này với người kia song bất kì ai cũng đều được quyền tự do lao động nếu họ có đủ khả năng, bao gồm cả người khuyết tật. Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần dẫn đến suy giảm khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Chính vì vậy, ở tất cả các quốc gia trên thế giới, người khuyết tật luôn được coi là thành viên thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và bị xâm phạm những quyền lợi chính đáng. Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và tạo việc làm cho người khuyết tật, tạo điều kiện cho họ vượt qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng đồng là những hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc. Theo Tổ chức y tế thế giới, hiện nay trên thế giới có hơn 1 tỷ người có khiếm khuyết về thể chất, cảm giác, trí tuệ hoặc tâm thần dưới các hình thức khác nhau. Con số này tương đương với khoảng 15% dân số thế giới. Quốc gia nào cũng có người khuyết tật, và hơn 2/3 trong số đó sống tại các nước đang phát triển [56, tr.8]. Tại Việt Nam, lao động khuyết tật chiếm một lượng không nhỏ, khoảng 7,8% tổng dân số [31, tr.1]. Để bảo vệ và tạo điều kiện tốt nhất cho người khuyết tật dễ dàng tham gia vào thị trường lao động, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách cũng như ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, tạo việc làm,…. Đặc biệt là gần đây, ngày 11/3/2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
  • 8. đã ký văn kiện phê chuẩn Việt Nam gia nhập vào Công ước 159 của Tổ chức Lao động quốc tế - ILO. Đây là bước phát triển quan trọng trong tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm cho người khuyết tật, khẳng định mạnh mẽ cam kết của Việt Nam trong việc bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khuyết tật không bị phân biệt đối xử về lao động và việc làm. Tuy nhiên, pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về lao động là người khuyết tật chưa đảm bảo được tính tương thích cao với công ước này. Bên cạnh đó, thực tế lao động là người khuyết tật vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vay ưu đãi để học nghề hoặc mở các cơ sở sản xuất, kinh doanh, số người khuyết tật tìm được việc sau đào tạo nghề còn thấp. Mặc dù pháp luật cũng đã có các quy định cụ thể về yêu cầu các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức không được từ chối tuyển dụng người lao động là người khuyết tất nếu có đủ tiêu chuẩn, nhưng nhiều đơn vị, doanh nghiệp luôn viện các lí do để từ chối nhận họ vào làm việc. Từ thực trạng trên, việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về lao động là người khuyết tật, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng quy định và hiệu quả thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về lao động là người khuyết tật trong thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện là một vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp luật về lao động là người khuyết tật là một vấn đề không phải mới nhưng nó luôn mang tính thời sự và cần được quan tâm, nghiên cứu. Nhất là khi các văn kiện quốc tế về bảo vệ quyền của người khuyết tật và lao động là người khuyết tật được Liên Hợp Quốcvà Tổ chức lao động thế giới thông qua đã thúc đẩy nhiều công trình khoa học chọn đây là đề tài nghiên cứu. Trong đó, có một số đề tài liên quan đến nội dung nghiên cứu luận văn của tác giả, cụ thể là: - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam” của Phạm Thị Thanh Việt, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2009.
  • 9. Thạc sĩ Luật học “Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của Đinh Thị Nga Phượng, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2011. - Luật văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Trần Thị Tú Anh, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014. - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Bích Ngọc, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật lao động về người khuyết tật” của Nguyễn Thị Hiền, Đại học Luật – Đại học Huế, năm 2016. - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật đào tạo nghề cho lao động khuyết tật, qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế” của Ngô Thùy Khiêm, Đại học Luật – Đại học Huế, năm 2019. Nhìn chung, giải quyết việc làm và bảo vệ quyền lợi cho lao động là NKT đã và đang được cả xã hội quan tâm, nhưng những vấn đề cụ thể về nó thì chưa được nghiên cứu nhiều. Các đề tài hiện nay đa phần đều đề cập đến lao động khuyết tật dưới góc độ quyền con người hoặc vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật, chưa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về các cải thiện chất lượng môi trường lao động phù hợp cho người khuyết tật. Trên cơ sở kế thừa và phát huy, đề tài “Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” nhằm làm sáng tỏ, bổ sung thêm ý nghĩa của hệ thống lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó. Từ đây, có thể đưa ra được những giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật và tổ chức thực hiện nhằm đóng góp những bổ sung cần thiết vào khoa học luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định đó ở Việt
  • 10. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu này đề tài sẽ tiến hành những nhiệm vụ sau: - Phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về người khuyết tật và lao động là người khuyết tật. - Làm rõ những vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật đối với lao động là người khuyết tật. - Đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay. - Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định đó tại Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật về việc làm, học nghề, an toàn lao động, vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi thông qua các quy định cụ thể của Luật người khuyết tật năm 2010, Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn liên quan đến lao động là người khuyết tật. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích và hệ thống hóa: phương này này được sử dụng để tiến hành liệt kê và hệ thống hóa các quy định trong các văn kiện quốc tế, quy định pháp luật liên quan đến lao động là người khuyết tật để từ đó phân tích, nghiên cứu sự phù hợp của từng quy định đó. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở chương 1 và chương 2.
  • 11. phân tích luật viết: phương pháp này chủ yếu sử dụng ở chương 2 và chương 3 nhằm phân tích ý nghĩa của các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề về lao động là người khuyết tật, làm cơ sở đối chiếu với thực tiễn thực hiện các quy định đó ở Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp. - Phương pháp phân tích, so sánh: phương pháp này được sử dụng để làm rõ thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật từ đó đưa ra những đánh giá vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật thuộc lĩnh vực mà đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 2. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch được sử dụng xuyên suốt đề tài nhằm luận giải, chứng minh cho các luận điểm khoa học được đề cập. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận - Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về người khuyết tật và lao động là người khuyết tật, tính đặc thù của lao động là người khuyết tật và pháp luật về lao động là người khuyết tật. - Luận văn hệ thống hoá và đánh giá thực trạng quy định pháp luật hiện hành về lao động là người khuyết tật. Trên cơ sở đó nhằm tìm ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập của pháp luật và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật đó ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Trên cơ sở những phân tích và đánh giá chung về thực trạng pháp luật hiện hành, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các quy định đó trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay của Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan xây dựng chính sách và pháp luật về lao động là người khuyết tật. Luận văn cũng có giá trị tham khảo và là nguồn tài liệu hữu ích sử dụng trong các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về lao động là người khuyết tật.
  • 12. của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bảng biểu thì Luận văn có kết cấu gồm 3 chương: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người khuyết tật, lao động là người khuyết tật và pháp luật về lao động là người khuyết tật; - Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay; - Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
  • 13. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT, LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Người khuyết tật 1.1.1. Khái niệm Người khuyết tật, là một trong các nhóm người dễ bị tổn thương cần được ưu tiên và bảo vệ. Theo WHO thì NKT có ba mức suy giảm là: “Khiếm khuyết [impairment], khuyết tật [disability] và tàn tật [handicap] [56, tr.7]. Khiếm khuyết là tình trạng mất mát hoặc không như bình thường tạm thời hoặc vĩnh viễn về tâm lý hoặc/và sinh lý của cấu trúc cơ thể con người. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động hằng ngày, là hậu quả của sự khiếm khuyết gây ra và cần các biện pháp can thiệp để khắc phục nhược điểm. Còn tàn tật là tình trạng bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh tác động lên tình trạng khuyết tật của họ”. Như vậy có thể hiểu, NKT là người bị khiếm khuyết về tâm lý hoặc/và sinh lý các bộ phận cơ thể người dẫn đến sự hạn chế trong thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Cách hiểu này cũng gần giống với cách hiểu trong Đạo luật người Mỹ khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 [ADA]: “Khuyết tật là sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống của một cá nhân và được ghi nhận trong hồ sơ về sự suy giảm” [52, tr.7]. Pháp luật các nước cũng giới hạn rõ ràng về thời gian khiếm khuyết kéo dài là bao lâu thì sẽ được xem là NKT để phân biệt giữa NKT với người bị suy giảm chức năng tạm thời. Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật do Liên Hợp Quốcthông qua vào ngày 13/3/2007 định nghĩa: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Cách định nghĩa này tương tự cách sử dụng thuật ngữ “Người khuyết tật” tại khoản 1, Điều 1 Công ước số
  • 14. về tài thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm 1983: “Thuật ngữ người có khuyết tật dùng để chỉ người mà triển vọng tìm được một việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về mặt nghề nghiệp, đều bị giảm sút một cách rõ rệt, do một sự khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần được công nhận rõ ràng”. Ở Việt Nam, khái niệm NKT chỉ mới được sử dụng vào khoảng năm 2006, còn về trước đó chúng ta sử dụng khái niệm “người tàn tật”, thậm chí gọi gộp “người tàn tật khuyết tật” để nói về những người bị khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng. Cụ thể, trong Pháp lệnh số 06/1998/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Quốc hội về Người tàn tật, tại Điều 1 có ghi nhận và giải thích: “Người tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Tuy nhiên có thể nhìn thấy rằng, luật pháp quốc tế không cho rằng cách gọi tàn tật là đúng, vì giữa người tàn tật và NKT là hai khái niệm khác nhau. Theo quan điểm của Ủy ban về các quyền của người khuyết tật, NKT trở thành “tàn tật” là vì do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác của xã hội. Do đó, việc đánh đồng hai khái niệm “tàn” và “khuyết” là một sẽ làm hạn chế sự tham gia và hòa nhập vào cộng đồng của người khuyết tật. Ngày 17.6.2010, Quốc hội chính thức thông qua LNKT thay thế cho Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998, từ đây khái niệm NKT chính thức được thừa nhận và sử dụng rộng rãi: “NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Khái niệm này được sự dụng rộng rãi trong hầu hết các văn bản điều chỉnh về người khuyết tật sau này, ví dụ như Bộ luật lao động năm 2012, Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015, Thông tư số 03/2018/TT-BGDĐT quy định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật. Như vậy, NKT là người khiếm khuyết về bộ phận cơ thể dẫn đến bị hạn chế trong quá trình tham gia vào các hoạt
  • 15. Cũng như các nước Anh, Mỹ, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận người bị khiếm khuyết về tinh thần và trí tuệ là người khuyết tật. Cụ thể là tại Điều 3 LNKT năm 2010 có quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật, cụ thể: Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần kinh, tâm thần; Khuyết tật trí tuệ… Vì nhìn nhận từ thực tế thì những người bị suy giảm về tinh thần và trí tuệ, nhất là trẻ em cũng gặp rất nhiều rào cản trong sinh hoạt và hòa nhập cùng cộng đồng, chẳng hạn trẻ em mắc: bệnh tự kỉ, hội chứng tăng động rối loạn, tâm thần phân liệt… Các khiếm khuyết này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển và tăng trưởng bình thường của cá nhân, dễ có những hành vi không kiểm soát được. Từ những phân tích trên, có thể hiểu “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần dẫn đến suy giảm lâu dài về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày”. 1.1.2. Đặc điểm người khuyết tật Thứ nhất, NKT là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần. Một người bị xem là khuyết tật khi người đó bị khiếm khuyết về các bộ phận trên cơ thể hoặc/và tinh thần, trí tuệ. Sự khiếm khuyết đó có thể vì nhiều nguyên nhân như: bẩm sinh, bệnh tật, tai nạn hay nguyên nhân đến từ chiến tranh, thảm họa thiên nhiên… Điều 3, LNKT 2010 và Điều 2, Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LNKT quy định cụ thể về các dạng tật mà NKT có thể mắc phải bao gồm: Một là, khuyết tật vận động. Khuyết tật vận động là một dạng khiếm khuyết làm cho NKT suy giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. NKT vận động thường không thể tự mình hoặc gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hà ng ngày như người bình thường. Họ chủ yếu phải nhờ sự giúp đỡ của người khác hoặc máy móc hỗ trợ mới có thể sinh hoạt. Hai là, khuyết tật nghe, nói. Khuyết tật nghe, nói là tình trạng suy giảm hoặc
  • 16. chức năng nghe, nói hoặc cả hai, không thể phát âm thành tiếng, câu rõ ràng và nghe hiểu dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói với những người xung quanh. Ba là, khuyết tật nhìn. Khuyết tật nhìn là tình trạng cá nhân bị giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Tuy nhiên, so với khái niệm này thì người cận thị nặng cũng có thể xem là NKT vì họ cũng bị giảm về khả năng nhìn, cảm nhận ánh sáng, màu sắc, sự vật. Theo WHO định nghĩa thì khuyết tật nhìn là tình trạng suy giảm khả năng nhìn ở một mức độ nhất định gây ra những vấn đề không thể khắc phục bằng phương tiện hỗ trợ thông thường như kính, mà sau khi điều chỉnh thị lực tốt nhất kém hơn 20/40 hoặc 20/60 theo thang điểm thị lực [56, tr.20]. Bốn là, khuyết tật thần kinh, tâm thần. Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. Năm là, khuyết tật trí tuệ; khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc như người thường. Thứ hai, khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần của NKT phải là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm lâu dài về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hằng ngày Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật [DDA] do Quốc hội Anh ban hành - nay chỉ có hiệu lực ở Bắc Ireland, khi xét về mặt thời gian tác động của những khiếm khuyết dẫn đến suy giảm về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt của NKT thì sự suy giảm đó phải kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài, nếu ít hơn 12 tháng bình thường thì không được coi là NKT, trừ khi là bị tái phát đi tái phát lại [49, tr.51]. Nghĩa là, NKT thì ngoài sự khiếm khuyết về cơ thể hoặc/và tinh thần, thì còn phải đáp ứng điều kiện về mặt thời gian mà sự suy giảm về cơ thể hoặc/và tinh thần đó gây ra cho họ dẫn đến những hạn chế trong cuộc sống. Khoảng thời gian suy giảm đó phải đủ lâu để làm ảnh hưởng đến các hoạt động sinh hoạt
  • 17. như là khả năng tự lao động nuôi sống bản thân của chính NKT đó. Pháp luật Việt Nam không giới hạn cụ thể sự suy giảm kéo dài bao lâu thì được xem là khuyết tật. Tuy nhiên, dựa vào các quy định về “xác nhận khuyết tật” tại chương II, LNKT năm 2010 và mẫu phiếu 01 xác định mức độ khuyết tật quy định tại Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH về việc xác định mức độ khuyết tật do hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện thì có thể thấy tình trạng khiếm khuyết được đánh giá là phải diễn ra rất lâu dài, không có cơ hội phục hồi hoặc có nhưng tỉ lệ phục hồi rất thấp. Chính sự suy giảm lâu dài đó là rào cản hạn chế NKT trong thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày và hòa nhập với cộng đồng. Ở Mỹ, lần đầu tiên cụm từ khuyết tật được sử dụng trong các văn bản pháp luật là vào năm 1880 và khái niệm lúc bấy giờ cũng khác so với cách định nghĩa về NKT như hiện nay. Cụ thể, vào thời kỳ này khái niệm NKT chỉ tập trung nhận dạng NKT dựa vào các điều kiện sức khỏe như bệnh liên quan đến giác quan, tứ chi, trạng thái tinh thần mà không tập trung vào mối quan hệ giữa sự suy giảm sức khỏe, chức năng với sự tham gia vào các hoạt động xã hội của cá nhân đó. Khái niệm này mãi đến năm 1970 mới được điều chỉnh và một người được xem là NKT khi và chỉ khi sự suy giảm về cơ thể hoặc/và tinh thần khiến họ hạn chế trong khả năng sinh hoạt và làm việc. Như vậy, có thể thấy rằng NKT là người bị khiếm khuyết về cơ thể hoặc/và tinh thần thôi là chưa đủ, mà khiếm khuyết đó phải dẫn đến sự suy giảm như thế nào về vận động, di chuyển và thực hiện các hoạt động cần thiết để phục vụ nhu cầu của cá nhân đó và gia đình họ. Thông qua đó, mỗi quốc gia sẽ có những chính sách hỗ trợ phù hợp để kéo ngắn khoảng cách tham gia vào cộng đồng của người khuyết tật, giảm thiểu dần đi sự khó khăn bởi các khiếm khuyết tạo ra. 1.2. Lao động là người khuyết tật 1.2.1. Khái niệm lao động là người khuyết tật Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Theo từ điển Tiếng Việt năm 2018 do giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên thì: “Lao động là hoạt động có mục
  • 18. người nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội” [33, tr.485]. Hay nói cách khác, lao động chính là quá trình kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người. Ngày nay, con người sử dụng sức lao động của mình không chỉ gói gọn trong việc tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu cấp thiết của mình mà còn sử dụng nó để tìm kiếm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Theo khoản 1 Điều 3 Luật việc làm 2013 thì: “Người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc”. Và khoản 1 Điều 3 của BLLĐ năm 2012: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Khi có nhu cầu tìm kiếm việc làm, các cá nhân phải ứng tuyển và đáp ứng các yêu cầu đặt ra của người tuyển dụng thì mới được tuyển vào doanh nghiệp. Tại đó, quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động được thể hiện thông qua một hợp đồng. Và người sử dụng lao động sẽ phải chi trả một khoản tiền lương xứng đáng với sức lao động mà người lao động đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói lao động không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc tạo ra giá trị phục vụ nhu cầu cần thiết của bản thân, mà nó còn là nguồn đem lại thu nhập lớn cho cá nhân biết khai thác và sử dụng. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốcghi nhận: “Mỗi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp”. Và NKT cũng không là ngoại lệ. Để tham gia vào quan hệ lao động, trở thành người lao động thì NKT phải đảm bảo các điều kiện về chủ thể đặt ra theo yêu cầu của pháp luật lao động. Thứ nhất, về độ tuổi. Theo quy định của BLLĐ năm 2012 và Nghị định 148/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của BLLĐ thì NKT muốn trở thành chủ thể và tham gia kí kết hợp đồng lao động phải là người thuộc các trường hợp sau đây: [i] Người lao động từ đủ
  • 19. lên; [ii] Người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người lao động; [iii] Người đại diện theo pháp luật đối với người dưới 15 tuổi và có sự đồng ý của người dưới 15 tuổi; [iv] Người lao động được những người lao động trong nhóm ủy quyền hợp pháp giao kết hợp đồng lao động. Thứ hai, NKT phải có khả năng lao động. NKT là người có những khiếm khuyết làm hạn chế trong thực hiện các hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên không vì thế mà nhầm lẫn giữa khiếm khuyết và không có khả năng lao động hay mất khả năng lao động. Dẫn chiếu theo quy định tại mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tối hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng , quy định về “mất khả năng lao động” được bồi thường thiệt hại như sau: “Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc [người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên] thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại”. Theo khoản 2 Điều 3 LNKT năm 2010 thì NKT được chia thành ba nhóm dựa theo mức độ khuyệt tật gồm có: NKT đặc biệt nặng, NKT nặng và NKT nhẹ. Từ những phân tích trên, ngoại trừ những NKT mà được cơ quan có thẩm quyền xác định mức độ khuyết tật làm suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì NKT vẫn có đủ khả năng lao động và tiếp ứng công việc theo yêu cầu đặt ra của người sử dụng lao động. Thứ ba, phải do chính NKT thực hiện trên thực tế. Quan hệ lao động là quan hệ tồn tại yếu tố phụ thuộc pháp lý giữa người lao động và người sử dụng lao động phát sinh thông qua hợp đồng lao động. Trên cơ sở hiệu quả công việc mà người lao động thực hiện, người sử dụng lao động sẽ trả một khoản tiền công tương ứng. Chính vì vậy, quan hệ lao động mang tính đích danh, phải do chính người lao động thực hiện. NKT khi kí hợp đồng và trở thành người lao động, thì phải tự mình thực
  • 20. việc được giao theo đúng thỏa thuận. Ngoài ra, với tính đặc thù là sự khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần khiến NKT gặp nhiều khó khăn để có thể thực hiện các công việc trong điều kiện và môi trường làm việc như người bình thường. Theo ILO thì cơ hội có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó của NKT bị bị hạn chế rất nhiều bởi hậu quả của các khiếm khuyết. Vì vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách và cơ chế riêng đối với lao động là người khuyết tật. Một phần là để hỗ trợ họ trong quá trình lao động tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, phần khác làm tốt các chính sách này sẽ giúp quốc gia đó khai thác và sử dụng nguồn lao động trong xã hội một cách hợp lý và hiệu quả. Do đó, không doanh nghiệp nào được quyền từ chối nếu NKT tham gia ứng tuyển và đáp ứng được tất cả các điều kiện tuyển dụng mà người sử dụng lao động đặt ra cũng như các điều kiện về mặt chủ thể do pháp luật quy định. Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm: “Lao động là người khuyết tật là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có những khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần nhưng vẫn có khả năng lao động và làm việc theo hợp đồng lao đồng, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Nhà nước luôn tạo điều kiện tốt nhất để NKT phục hồi khả năng lao động, được làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật. LNKT năm 2010 cũng nghiêm cấm các doanh nghiệp từ chối tuyển dụng hoặc đặt ra các yêu cầu trái pháp luật nhằm hạn chế hoặc từ chối cơ hội tìm kiếm việc làm của lao động là người khuyết tật. 1.2.2. Tính đặc thù của lao động là người khuyết tật Lao động đặc thù là lao động có những đặc điểm riêng biệt về thể chất, tinh thần, chức năng sinh học… Cũng như lao động nữ, lao động chưa thành niên hay lao động cao tuổi, lao động là NKT có những đặc điểm riêng dẫn đến họ chỉ phù hợp trong những điều kiện lao động nhất định: Một là, lao động là NKT là người lao động mà khả năng lao động, trụ lâu dài với một công việc và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của sự khiếm
  • 21. chất và tinh thần được thừa nhận. Đây là quy định được ghi nhận đầu tiên ngay tại khoản 1 Điều 1 Phần 1 Công ước 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm [Người khuyết tật] năm 1983 và được nhắc đi nhắc lại xuyên suốt trong bản công ước này. Như đã đề cập ở phần khái niệm về NKT, thì NKT gặp nhiều hạn chế trong vận động, di chuyển và sinh hoạt. NKT có thể cố gắng vượt qua các hạn chế về chức năng do tình trạng khuyết tật gây ra bằng cách điều trị y khoa và/hoặc sử dụng các dụng cụ trợ giúp y tế, ví dụ như xe lăn, máy trợ thính...[32, tr.32]. Tuy nhiên, để tham gia với điều kiện thông thường thì với họ là rất khó khăn. Do vậy, các quốc gia đều được Liên Hợp Quốcvà ILO khuyến cáo áp dụng các cải tiến lao động phù hợp để người lao động được làm việc tốt nhất. Ví dụ như một người bị khuyết tật vận động sẽ được hỗ trợ các phương tiện chuyên dụng để di chuyển và làm việc trong nông trại, thông dịch viên phiên dịch cho người khiếm thính. Hai là, lao động là NKT không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với những chất độc hại có tác động không tốt đến các khiếm khuyết của bản thân. Người khuyết tật, nhất là NKT có khả năng suy giảm ở mức độ đặc biệt nặng thì cùng thực hiện một công việc có tính chất như nhau, nhưng NKT có mức độ hao phí sức lao động và có nhu cầu chăm sóc y tế cao hơn người bình thường [42, tr.69]. Do đó, khả năng phục hồi sức khỏe, tái tạo sức lao động của lao động là NKT đòi hỏi khoảng thời gian dài hơn so với lao động là người bình thường. Chưa kể, việc sử dụng lao động là NKT làm việc trong các điều kiện môi trường khắc nghiệt, độc hại, công việc có tính chất nặng nhọc và nguy hiểm càng dễ dẫn đến nguy cơ tai nạn lao động và mất khả năng lao động. Chính vì thế, bảo vệ sức lao động của NKT, không để họ đảm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với những chất độc hại có tác động xấu đến các khiếm khuyết của bản thân là một trong những nội dung quan trọng mà hầu hết các công ước quốc tế và pháp luật quốc gia hướng đến. Điều 27, Công ước về quyền của người khuyết tật có quy định: “Cấm phân
  • 22. sở sự khuyết tật trong mọi vấn đề liên quan đến việc làm, bao gồm điều kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng, thăng tiến nghề nghiệp và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe”. Nhà nước phối hợp với xã hội tạo ra điều kiện lao động an toàn, thân thiện và không cưỡng bức, bóc lột NKT làm việc trong môi trường khắc nghiệt. Như quy định tại LNKT của Việt Nam: “Người khuyết tật không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định. Người khuyết tật bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên không phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm. Ngoài ra, hàng năm người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho lao động là người khuyết tật ít nhất 6 tháng một lần”. Ngoài ra, pháp luật các nước rất chú trọng đến việc bảo vệ sức lao động và hạn chế suy giảm chức năng lao động ở NKT thông qua các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để lao động là NKT có thời gian nghỉ dưỡng, phục hồi khả năng lao động. Tránh tình trạng làm thêm giờ, làm việc ban đêm gây ảnh hưởng không tốt đến các khiếm khuyết của bản thân 1.3. Điều chỉnh của pháp luật về lao động là người khuyết tật 1.3.1. Vai trò và sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về lao động là người khuyết tật Thứ nhất, bảo đảm quyền con người được sống và làm việc trong môi trường xã hội công bằng. Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Và quyền lao động và việc làm là một trong các quyền cơ bản được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 của Liên Hợp Quốcvà một số công ước của ILO. Điều 35 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có ghi nhận: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương
  • 23. các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Như vậy, có thể thấy mọi công dân đều có quyền tự do lao động, kể cả người khuyết tật. Tuy nhiên, hiện nay cơ hội tìm kiếm việc làm trong điều kiện và môi trường làm việc thông thường là rào cản đối với NKT vì họ không thể sử dụng sức lao động hạn chế của mình để tạo ra thành phẩm như người lao động bình thường được. Theo ADA năm 1990 của Hoa Kì có ghi nhận: “Sự khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần không là lí do làm giảm quyền tham gia của một cá nhân vào bất kì khía cạnh nào của xã hội, nhưng nhiều người đã bị từ chối chỉ vì khuyết tật hoặc có hồ sơ ghi nhận sự khuyết tật” [52, tr.48]. Chính vì lẽ đó, việc Nhà nước ban hành các quy định pháp luật bảo vệ người lao động là NKT là hết sức cần thiết. Vì bình đẳng về quyền được làm việc không có nghĩa là tất cả mọi người cùng làm việc dưới một chế độ và điều kiện như nhau, mà là tạo ra điều kiện phù hợp nhất để bất kì ai dù khỏe mạnh hay khiếm khuyết vẫn đều có thể dùng sức lao động của mình tạo ra một thành quả lao động ngang nhau. Và sự đối xử đặc biệt với lao động khuyết tật so với lao động thông thường không bị coi là phân biệt đối xử giữa những người lao động với nhau. Theo khuyến nghị 111 của ILO về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp năm 1958 thì mọi biện pháp đặc biệt nào nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của những người mà việc bảo vệ hoặc sự trợ giúp đặc biệt đối với họ nói chung được thừa nhận là cần thiết vì những lý do như là giới tính, độ tuổi, tàn tật, gánh nặng gia đình, trình độ xã hội hoặc văn hoá đều không xem là sự phân biệt đối xử. Thứ hai, tạo ra các điều kiện phù hợp để NKT có cơ hội tiếp cận việc làm của mình một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Trước đây, hầu hết các quốc gia đều xem vấn đề hỗ trợ NKT là một hoạt động phúc lợi xã hội hoặc hành động nhân đạo từ phía cộng đồng dành cho người khuyết tật. Tuy nhiên, nhờ vào sự nổ lực đấu tranh của các tổ chức, hiệp hội và đặc biệt là bản thân NKT mà các quan điểm không đúng đắn trên dần được thay đổi. Ví dụ, một bệnh nhân khiếm thính tại Úc đã gặp khó khăn trong việc hiểu các nội dung
  • 24. bác sĩ điều trị của mình và đã khởi kiện bệnh viện này vì không đảm bảo quyền bình đẳng trong sử dụng các dịch vụ y tế. Sau vụ kiện này, pháp luật của quốc gia này đã có quy định các bệnh viện phải chịu trách nhiệm cung cấp phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu cho các bệnh nhân điếc [10, tr.29]. Nội dung của Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội cho NKT năm 1993 đã ghi nhận lại rằng: “Trong nhiều năm qua, chính sách khuyết tật đã phát triển từ mức chăm sóc cơ bản tại các cơ sở đến việc giáo dục cho trẻ em khuyết tật và phục hồi chức năng cho người bị khuyết tật trong giai đoạn trưởng thành. Thông qua việc giáo dục và phục hồi chức năng, NKT trở nên hoạt bát hơn và trở thành động lực đối với sự phát triển hơn nữa của chính sách dành cho người khuyết tật. Các tổ chức của người khuyết tật, gia đình và những người ủng hộ họ đã được thành lập với cam kết cung cấp điều kiện tốt hơn cho họ. Khái niệm hòa nhập và bình thường hóa mới chỉ xuất hiện sau Chiến tranh thế giới II đã phản ánh nhận thức ngày càng cao về khả năng của người khuyết tật”. Chẳng hạn, Hoa Kỳ có ADA năm 1990 và nay là Đạo luật sửa đổi ADA năm 2008 [ADAAA] nhằm bảo vệ quyền dân sự toàn diện cho NKT trong những lĩnh vực việc làm, dịch vụ của chính phủ tiểu bang và địa phương, nhà ở công cộng, vận tải và viễn thông, nhằm giúp cho người bị khuyết tật sống vui vẻ và có một đời sống hòa nhập với cộng đồng [52, tr.50]. Người bị khuyết tật được đi học, lập gia đình hoặc trở thành cha mẹ, đi làm, lái xe, chơi thể thao, và trở thành một nhà chuyên nghiệp theo khả năng của mình. Đường sá, các tòa nhà… đều được quy hoạch, thiết kế hợp lý để người gặp khuyết tật vận động vẫn có thể tự dùng xe lăn di chuyển, mà không gặp bất kỳ sự bất tiện hay cần đến sự trợ giúp nào. [53, tr.65] Tại Việt Nam, bên cạnh các pháp luật riêng biệt bảo vệ quyền của NKT thì pháp luật lao động cũng có những quy định cụ thể về tìm kiếm việc làm, học nghề và ban hành các quy định cấm đối với bản thân các doanh nghiệp không được ngược đãi, phân biệt đối xử với người lao động là người khuyết tật. Các quy định này đều được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Nhờ đó mà người lao động là NKT có nhiều cơ hội tiếp cận việc làm, nếu cá nhân, tổ chức có hành vi
  • 25. phân biệt đối xử sẽ bị áp dụng các chế tài xử lý. Thứ ba, giúp NKT có thể tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, không trở thành gánh nặng của gia đình và xã hội. Trong suốt một thời gian dài, hầu hết chúng ta đều cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng không có việc làm và thu nhập thấp của NKT là đến từ sự sút kém về tinh thần và thể chất của họ. Hầu hết những người không khuyết tật đều có thái độ tiêu cực khi tiếp xúc với người khuyết tật. Xem NKT như là một gánh nặng về mặt phúc lợi xã hội. Nhưng phải thừa nhận rằng nguyên nhân chính của những bất lợi mà NKT đang phải đối mặt, cũng như việc họ thường xuyên bị tách biệt khỏi xã hội không phải do tình trạng khuyết tật của từng cá nhân, mà chính là hậu quả của những phản ứng tiêu cực xã hội đối với người khuyết tật. Do đó, NKT chưa có nhiều cơ hội và môi trường để họ thể hiện khả năng của bản thân và tự tin phát huy trong học tập cũng như lao động. Chính luật pháp và các chính sách đã góp phần tạo ra các thay đổi tích cực. Theo công ước số 159 của ILO Về phục hồi chức năng lao động và việc làm [Người khuyết tật] năm 1983 tại Điều 2 quy định: “Mọi Nước thành viên phải coi mục đích của tái thích ứng nghề nghiệp là làm cho người có khuyết tật có thể tìm được và duy trì một việc làm thích hợp, có thể tiến bộ được về mặt nghề nghiệp, và do đó dễ dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội”. Được lao động, được có cơ hội tìm kiếm một việc làm tạo ra thu nhập là tiền đề cho NKT thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của mình. Vì chỉ khi NKT có thể nuôi sống bản thân bằng sức lao động, không phụ thuộc vào gia đình và xã hội thì khi đó họ mới đủ tự tin để tham gia vào các hoạt động văn hóa – xã hội tại khu dân cư mình sinh sống, tại cơ quan nơi mình làm việc. Thứ tư, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ người lao động là người khuyết tật, là cơ sở để cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động. Tổ chức Lao động Quốc tế là một cơ quan chuyên trách của Liên Hợp Quốccó nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao động bình đẳng và phù hợp trên toàn thế giới. Với sứ mệnh được giao, tổ chức này đã soạn thảo nên các điều khoản dưới hình
  • 26. và khuyến nghị về bình đẳng lao động bao gồm: Công ước số 111 năm 1958 của ILO về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; Công ước số 159 năm 1983 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm [Người khuyết tật]; Khuyến nghị số 111 năm 1958 của ILO về phân biệt đối xử [việc làm và nghề nghiêp]; Khuyến nghị số 168 năm 1983 của ILO về tái ứng nghề nghiệp và vấn đề việc làm [cho người khuyết tật]. Trên cơ sở này, các quốc gia thành viên tự nguyện tham gia và cam kết thực hiện thông qua việc ghi nhận và đảm bảo thi hành tại các văn bản pháp luật. Mỗi quốc gia có cách đề cập đến NKT khác nhau, có thể là ban hành một văn bản pháp luật riêng nhưng cũng có thể đưa ra các điều khoản trong hai hay nhiều văn bản khác nhau. Nhiều quốc gia đề cập đến NKT ngay trong bản Hiến pháp quốc gia – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Một khi đã được Hiến pháp ghi nhận thì có thể hiểu rằng đây là vấn đề cần được chú trọng và cân nhắc. Do đó, luật pháp, chính sách và luật bất thành văn [án lệ] phải phù hợp với nội dung của Hiến pháp. Bên cạnh đó, để tăng cường tính hiệu quả và đảm bảo đáp ứng thỏa đáng nguyện vọng của cá nhân được bảo vệ thì các nhà lập pháp cũng tiến hành quá trình tham vấn rộng rãi với các bên liên quan như tổ chức của người khuyết tật, các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động và của người lao động, các nhà cung cấp dịch vụ cũng như bản thân người khuyết tật. Từ đây, tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc cũng như tăng cường bộ máy tư pháp, phù hợp với nhu cầu đặt ra của phát triển kinh tế xã hội mà vẫn đảm bảo được các quyền lợi chính đáng của lao động là người khuyết tật. Và ở nhiều quốc gia, một hoặc nhiều cơ quan điều tra độc lập được thành lập để thúc đẩy các cơ quan chính phủ thực hiện tốt chính sách đối với người lao động khuyết tật. Những cơ quan này theo thông lệ được giao trách nhiệm điều tra những vụ kiện cáo qua đơn thư hoặc qua phản ảnh miệng của công dân về hành vi của chính phủ hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Với mục tiêu thúc đẩy nhà nước quan tâm thực hiện tốt chính sách và quy định pháp luật. Thứ năm, điều chỉnh pháp luật về lao động là NKT là một trong số những nhiệm vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội của Nhà nước.
  • 27. hội của nhà nước là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước, tác động đến các lĩnh vực xã hội có liên quan và tất cả cộng đồng xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội mang tính tổng thể, vì lợi ích chung của toàn xã hội. Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm lo đời sống người dân. Nhà nước tạo điều kiện để mỗi công dân đều có việc làm, khuyến khích mở rộng sản xuất, thu hút sức lao động; tích cực trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp... Xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu nhập giữa những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp qua các chính sách về thuế. Đảm bảo chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với trẻ nhỏ, những người có công, người về hưu, người già yếu cô đơn, người khuyết tật… Và chủ động tìm các biện pháp giải quyết các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm để đảm bảo nhân dân được sống trong xã hội trật tự, an toàn, văn minh. Điều 54 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có quy định: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động là nghĩa vụ của Nhà nước phải thực hiện”. Do vậy, có thể thấy rằng việc Nhà nước quan tâm đến lao động là NKT thông qua các quy định pháp luật chính là đang thực hiện tốt vai trò, nghĩa vụ, chức năng xã hội của mình. Bởi vì, một khi pháp luật quốc gia được xây dựng để nhằm loại bỏ những bất công mà NKT đang phải gánh chịu, xóa bỏ các rào cản khiến NKT bị tách biệt ra ngoài xã hội, đồng thời tăng cường các cơ hội việc làm bình đẳng cho họ thì chính là họ đang được Nhà nước chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần. 1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về lao động là người khuyết tật 1.3.2.1. Đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật Quyền lao động là một trong số những quyền quan trọng được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, đặc biệt là trong Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 của Liên Hợp Quốcvà một số công ước của Tổ chức Lao động quốc tế [ILO]. Thế nhưng, trong một khoản thời gian rất dài, hầu hết các văn kiện quốc tế về quyền con người đều không đặt vấn đề về quyền lao động và tìm kiếm việc làm của khuyết tật, ví dụ như Công bố Toàn cầu của Liên Hợp Quốcvề Quyền con
  • 28. Công ước của Liên Hợp Quốcvề Quyền Kinh tế, Văn hóa, Xã hội năm 1966, và Công ước của Liên Hợp Quốcvề Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 - đều không đề cập đến NKT. Năm 1980, cả thế giới mới có cách nhìn nhận đúng đắn về NKT, rằng sự khiếm khuyết không phải là trở ngại hạn chế họ tham gia vào xã hội mà chính những định kiến và kì thị xã hội mới khiến bộ phận NKT thu hẹp mình lại, biến họ thành những sản phẩm lỗi, mang gánh nặng. Nhiều văn kiện quốc tế đã được Liên Hợp Quốcvà Ủy ban Châu Âu thông qua như: Chính sách Nhất quán của Ủy ban Châu Âu về tái thích ứng nghề nghiệp cho NKT năm 1992, và quy định của Liên Hợp Quốcvề tạo cơ hội bình đẳng cho NKT, năm 1993. Từ đây đã tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ trong pháp luật của các quốc gia. Cách tiếp cận về quyền của NKT dưới góc độ phúc lợi xã hội dần chuyển sang cách tiếp cận từ luật nhân quyền, minh chứng là ngày càng có nhiều các quy định về quyền con người được sửa đổi, bổ sung nội dung về quyền của NKT, hoặc ngày càng có nhiều các văn bản pháp luâtk mới, kể cả pháp luật mang tính tổng quát và văn bản chuyên về quyền lao động của NKT được thông qua. ILO đã tham gia tích cực trong việc thúc đẩy bảo vệ quyền và cơ hội việc làm bình đẳng cho NKT cụ thể: Công ước ILO số 168 về Xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp [1988]; Công bố của ILO về Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại công sở [1998] và Quy tắc thực hành trong quản lý NKT tại công sở [2002]. Như vậy, vấn đề lao động là NKT được xem xét dưới góc độ quyền con người – dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều có quyền được sống và thụ hưởng các quyền cơ bản như nhau - đặt nền móng vững chắc để NKT được có cơ hội tiếp cận với những lợi ích khác trong lao động như: được bố trí thời gian làm việc hợp lý, hỗ trợ lao động, chế độ ưu đãi cao… Vì NKT nói chung và lao động là NKT nói riêng hoàn toàn có khả năng học tập, lao động, cống hiến cho xã hội và xứng đáng nhận lại những lợi ích mà họ cần được có. 1.3.2.2. Bảo đảm bình đẳng và không phân biệt đối xử về khuyết tật Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử được xây dựng trên cơ sở quan điểm nhìn nhận rằng tất cả mọi người, bất kể họ khác nhau về trí lực, thể lực
  • 29. điểm khác, đều có giá trị và tầm quan trọng ngang nhau. Mỗi một con người đều có quyền được hưởng và cần được nhận sự quan tâm và tôn trọng như nhau. Và nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Công ước về Quyền của người khuyết tật do Đại hội đồng Liên Hợp Quốcthông qua ngày 13/3/2007. Theo công ước này thì: “Các quốc gia thành viên công nhận tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, tuân theo pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, được hưởng lợi từ pháp luật một cách bình đẳng mà không bị phân biệt đối xử. Các quốc gia thành viên phải ngăn cấm mọi sự phân biệt đối xử do bị khuyết tật và đảm bảo tất cả mọi NKT được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng và chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử. Các quốc gia tham gia tái khẳng định rằng NKT có quyền được công nhận ở tất cả mọi nơi là những con người trước pháp luật”. Sự công bằng giữa lao động là NKT với người lao động thông thường ở đây không có nghĩa là những người trong cùng hoàn cảnh như nhau phải đối xử giống nhau, cùng nhau làm việc, lao động trong một môi trường như nhau. Mà cần phải tính đến sự khác biệt và bất lợi của từng cá nhân để tạo ra cơ hội tiếp cận điều kiện môi trường phù hợp nhất cho họ cùng phát huy hết khả năng lao động của mình để tạo ra thành quả như cá nhân bình thường khác. Và giá trị đi kèm với sự công bằng, bình đẳng chính là cấm phân biệt đối xử. Tuyên bố của ILO tại Philadelphia [1944] đã khẳng định mọi con người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng tôn giáo, giới tính, đều có quyền được mưu cầu sự đầy đủ về vật chất và phát triển về tinh thần trong điều kiện tự do, bảo đảm nhân phẩm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng về cơ hội. Điều này có nghĩa là tất cả mọi người, kể cả nam và nữ, NKT và người lành lặn, lao động khuyết tật là nam giới với lao động khuyết tật là nữ giới đều cần được đối xử công bằng và có cơ hội bình đẳng để tham gia các hoạt động xã hội, kể cả thị trường lao động. Sự bình đẳng và cấm phân biệt đối xử còn phải được đặt trong mối quan hệ về khuyết tật và giới. Tức là, so với nam giới thì nữ giới cũng là một trong những lao động đặc thù và bị yếu thế, thiệt thòi rất nhiều trong tìm kiếm việc làm và thăng tiến. Và điều này sẽ càng trở nên nặng nề hơn nếu họ vừa là phụ nữ vừa bị khuyết tật. Khi phụ nữ khuyết tật làm việc, họ thường phải đối mặt với những bất công trong tuyển dụng và
  • 30. công trong đào tạo và đào tạo lại, bị trả lương thấp trong khi làm như mọi người và bị tách biệt với những người khác [42, tr.87]. Ngày 20/12/1993, trên cơ sở những kinh nghiệm đạt được trong suốt Thập niên từ 1983 đến 1992 về NKT, Liên Hợp Quốcđã ban hành Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội cho người khuyết tật. Các quy tắc này được xây dựng không mang tính bắt buộc thực hiện, song về lâu dài nếu nó được sự ủng hộ và cam kết thực hiện của nhiều quốc gia trên thế giới thì sẽ trở thành những quy tắc tập quán quốc tế quan trọng. Và cho đến nay, có thể thấy rằng ngày càng nhiều quốc gia quy định về chống phân biệt đối xử với NKT trong hầu hết các lĩnh vực bao gồm cả lĩnh vực lao động. Luật Bình đẳng việc làm năm 1986 của Canada ban hành nhằm điều chỉnh riêng và nghiêm cấm phân biệt đối xử với các đối tượng là phụ nữ, thổ dân, NKT hoặc thành viên của các nhóm người thiểu số. Airơlen có Luật Bình đẳng Việc làm ban hành năm 1998 không cho phép phân biệt đối xử vì lý do giới tính, tình trạng hôn nhân, tình trạng gia đình, định hướng giới tính, tín ngưỡng tôn giáo, tuổi tác, khuyết tật, chủng tộc và vì lý do tham gia vào cộng đồng lữ hành Namibia - Luật về Việc làm Ưu đãi ban hành năm 1998, áp dụng cho những người bị bất lợi về chủng tộc, cho phụ nữ thuộc mọi sắc tộc và NKT [có những hạn chế về thể lực hoặc trí thể lực, không phân biệt sắc tộc và giới] [51, tr.6]. LNKT năm 2010 của Việt Nam quy định về Nhà nước tạo cơ hội bình đẳng tìm kiếm việc làm cho NKT và cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng NKT có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. Thế nhưng, thực tế là NKT đang phải đối mặt với những khó khăn về tìm kiếm việc làm và tình trạng bị cô lập với xã hội. Có nhiều bằng chứng cho thấy NKT dễ vấp phải những bất lợi, bị đứng ngoài lề và bị phân biệt đối xử trên thị trường lao động và ở cả những nơi khác nữa. Hậu quả là tỉ lệ NKT không có việc làm cao hơn tỉ lệ những người khác. Kể cả khi họ có việc làm, đó cũng thường là những việc không thuộc thị trường lao động chính thức với đồng lương rẻ mạt và những vị trí đòi hỏi kỹ năng thấp, có ít hoặc không có cơ hội thăng tiến trong nghề
  • 31. ở rất nhiều quốc gia hiện nay vấn đề đảm bảo bình đẳng và không phân biệt đối xử trong lao động cho NKT là một trong những nội dung được chú trọng hàng đầu. Và một trong nhiều biện pháp, công cụ được các quốc gia lựa chọn đó chính là các biện pháp hỗ trợ việc làm và áp dụng chính sách định mức. Thứ nhất, các biện pháp hỗ trợ việc làm. Các biện pháp hỗ trợ việc làm không chỉ áp dụng cho NKT mà còn hỗ trợ cho cả doanh nghiệp nơi NKT làm việc. Biện pháp này được thể hiện dưới các hình thức cụ thể: Một là, hỗ trợ tài chính. Đây là biện pháp nhằm trợ giúp về tài chính hoặc vật chất để khuyến khích hoạt động tham gia lao động và công tác tuyển dụng. Về phía người khuyết tật, ngoài những khoản trợ cấp khuyết tật thì họ sẽ được hỗ trợ thêm các chi phí để học việc, bù lương hay khen thưởng khi tạo ra các thành quả có giá trị hữu ích. Chẳng hạn như ở Đức, NKT sẽ được hỗ trợ về tiền công hoặc bù đắp cho đủ số tiền lương mà đáng ra họ sẽ được nhận nếu làm việc hết khả năng lao động mà không gặp trở ngại vì khiếm khuyết. Hỗ trợ về tiền công được áp dụng khi một nhân viên có hiệu quả công việc thấp. Số tiền trợ cấp phụ thuộc vào mức độ tàn tật nặng hoặc các yếu tố khác gây cản trở cho quá trình NKT tham gia môi trường việc làm chung. Phụ cấp lương được áp dụng trong một thời hạn, trong khoảng từ ba đến tám năm, phụ thuộc vào nhiều yếu tố [10, tr.40]. Đối với các bộ phận doanh nghiệp tiếp nhận lao động là người khuyết tật, sẽ được Chính phủ hỗ trợ dưới dạng trợ cấp hoặc giảm thuế, hỗ trợ vật chất để xây dựng môi trường lao động phù hợp. Khoản hỗ trợ tài chính này phải được cam kết sử dụng đúng mục đích, nhằm giúp doanh nghiệp trang trãi chi phí tuyển dụng và các phúc lợi cho người khuyết tật. Ví dụ như ở Bỉ, một thỏa thuận tập thể có sự tham gia ký kết của các đối tác xã hội quy định rằng trong những điều kiện nhất định doanh nghiệp có thể trả một phần trong tổng chi phí cho người lao động là NKT và phần còn lại sẽ do một cơ quan nhà nước trả [45, tr.41]. Ngoài ra, một số quốc gia còn áp dụng chính sách thưởng tiền nhằm khuyến khích tuyển dụng. Giá trị tiền thưởng này sẽ được định đoạt dựa trên những ý nghĩa thực tế mà doanh nghiệp này đem lại khi tuyển dụng một lao động là NKT hay nói cách khác sẽ dựa
  • 32. toán về mức độ khó khăn doanh nghiệp phải gánh chịu khi thu nhận người khuyết tật. Ví dụ, một NKT có năng lực lao động giảm sút, tình trạng thất nghiệp kéo dài và thường xuyên bị đau ốm bởi những đau đớn từ khiếm khuyết nhưng doanh nghiệp vẫn tiếp nhận, tạo điều kiện lao động thuận tiện nhất cho người đó để lúc đau ốm không đến công ty được vẫn có thể làm việc tại nhà [27, tr.5]. Hai là, hỗ trợ phương tiện và các trang thiết bị chuyên dụng. Đây là hình thức được tất cả các quốc gia sử dụng để giúp NKT phục vụ sinh hoạt hằng ngày và tham gia vào thị trường lao động. Biện pháp này giúp NKT có thể đi lại, vận chuyển hoặc làm việc tốt hơn. Ví dụ như ở Việt Nam, số NKT có thể tham gia giao thông tương đối lớn, gồm những NKT vận động [ngồi xe lăn], người khiếm thị, khiếm thính. Vì vậy, đề án “Hệ thống giao thông tiếp cận vì cộng đồng” đã được triển khai thực hiện, mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ NKT được tiếp cận phương thao sẽ tăng lên 80% [31]. Bản thân doanh nghiệp có số lượng tuyển dụng lao động là NKT nhiều được Chính phủ hỗ trợ để có xe đưa đón NKT đi làm. Trong một số trường hợp, NKT còn cần được hỗ trợ các thiết bị chuyên dụng để làm việc và học tập. Chẳng hạn, một người bị mù muốn sử dụng máy tính thì cần phải được hỗ trợ một máy tính có bàn phím thiết kế chữ nổi. Và để có được thiết bị này phục vụ cho lao động đôi khi là khoản chi phí rất lớn đối với người khuyết tật. Trong những trường hợp như vậy, các cơ quan nhà nước cần đóng một vai trò quan trọng giúp họ có được những thiết bị đó, có thể thông qua cho vay không lãi suất hoặc tặng cho miễn phí. Ba là, cung cấp các dịch vụ miễn phí. Đây là những dịch vụ nhằm hỗ trợ NKT học nghề, tiếp cận thông tin hoặc nhận tư vấn, giới thiệu việc làm. Tư vấn cho doanh nghiệp các thông tin cần thiết khi tuyển dụng và thu nhận lao động là NKT vào làm việc. Ví dụ, chương trình hỗ trợ sắp xếp việc làm miễn phí dành cho người khuyết tật, tư vấn cho doanh nghiệp về môi trường làm việc phù hợp hoặc các thiết bị trợ giúp cần thiết cho lao động là người khuyết tật. Thứ hai, ưu đãi việc làm thông qua áp dụng chính sách định mức. Những nội dung này được ban hành trong luật và trong một số trường hợp khác thông qua các
  • 33. quy định của Chính phủ. Theo quy định của chính sách định mức thì doanh nghiệp sử dụng đạt số lượng lao động định mức nhất định sẽ phải tuyển dụng một số lượng lao động là NKT theo con số mà Nhà nước yêu cầu. Việc áp dụng các ưu đãi thông qua chính sách định mức chủ yếu được triển khai ở các quốc gia phát triển, có tiềm lực kinh tế lớn và thị trường lao động đắt đỏ. Có ba chính sách định mức được áp dụng đó là: định mức bắt buộc, định mức không bắt buộc và định mức khuyến khích [45, tr.34]. Định mức bắt buộc thường sẽ đi kèm với chế tài phạt định mức. Tức là, nếu doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ sẽ phải nộp một khoản tiền gọi là tiền phạt định mức. Đức là một trong những nước đầu tiên thông qua chính sách phạt định mức này vào năm 1974. Theo Bộ luật Xã hội Đức, Quyển 9, năm 2002, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sử dụng ít nhất 20 lao động phải đảm bảo có ít nhất 5% trong số họ là người khuyết tật. Doanh nghiệp không đáp ứng được định mức này buộc phải nộp một khoản tiền phạt theo quy định cho từng xuất định mức công việc [10, tr.40]. Định mức không bắt buộc là những quy định về định mức mà không đi kèm chế tài nhằm ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Thông thường để thực hiện được các ưu đãi định mức thì phải thông qua các ưu đãi đi kèm như hỗ trợ về thuế, ưu đãi đầu tư hoặc quy định mang tính đặc thù với một số ngành nghề như các nghề thủ công nghiệp. Định mức khuyến khích là hình thức mà doanh nghiệp không bắt buộc phải nhận một tỉ lệ lao động khuyết tật nhất định mà việc thực hiện định mức hoàn toàn mang tính tự nguyện và không có cơ chế, chế tài áp đặt lên họ trong trường hợp họ không thực hiện. Trên thực tế cũng đã có một vài quốc gia áp dụng như Hà Lan, khuyến khích các doanh nghiệp tiếp nhận từ 3% – 5% lao động khuyết tật trong thời hạn là 3 năm [55]. Tuy nhiên, hiệu quả của phương thức này không cao, bởi lẽ không có ràng buộc không có chế tài mạnh thì doanh nghiệp luôn tìm cách trốn tránh và ít có thái độ tự giác thực hiện. Nên dường như phương thức ưu đãi lao động này không có tác động đáng kể nào đến số lượng công ăn việc làm cho người
  • 34. tật. 1.3.2.3. Bảo hộ lao động đối với lao động là người khuyết tật Theo Điều 4 Phần 2 Công ước 155 về sức khỏe và an toàn lao động của ILO năm 1981, thì việc quy định các nội dung liên quan đến bảo hộ lao động đối với lao động là NKT như: an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và môi trường làm việc là nhằm mục đích ngăn ngừa tai nạn và thương tích vì lí do sức khỏe phát sinh, liên kết hoặc xảy ra trong quá trình làm việc, bằng cách giảm thiểu đến mức tối thiểu những nguyên nhân của các mối nguy hiểm vốn có trong môi trường làm việc. Như đã phân tích thì lao động là NKT là dạng lao động đặc thù, họ không thể làm việc và đảm nhận những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với những chất độc hại có tác động không tốt đến các khiếm khuyết của bản thân. Như vậy, ngoài các quy định đảm bảo về an toàn lao động và môi trường làm việc như các lao động bình thường, thì còn cần có các quy định bảo vệ riêng dành cho NKT khi làm việc, phá bỏ những rào cản do môi thiếu hụt cơ sở vật chất và xã hội tạo ra. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốcnăm 1948 đã ghi nhận: “Quyền làm việc và quyền nghỉ ngơi là một trong những quyền rất cơ bản của con người”. Việc pháp luật ghi nhận các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo vệ sức khỏe người lao động trong quan hệ lao động để họ có thể làm việc lâu dài. Điều này không chỉ đem lại lợi ích cho bản thân người lao động mà vô cùng có lợi cho người sử dụng lao động. Cụ thể là khi pháp luật đảm bảo được một tỷ số hợp lý giữa hai loại thời giờ này, có tính đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, vừa không thiệt hại cho sản xuất kinh doanh, vừa không làm giảm sút khả năng lao động, khả năng sáng tạo của người lao động thì cũng chính là góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của lao động, hướng vào chiến lược con người. Công ước Thời giờ làm việc [Công nghiệp], năm 1919 [Số 1] và Công ước Thời giờ làm việc [Thương mại và Văn phòng], năm 1930 [Số 30] ghi nhận tiêu chuẩn giờ làm việc chung là 48 giờ trong một tuần và tối đa 8 giờ một ngày. Trãi
  • 35. động nổ lực đấu tranh của tập thể người lao động về đòi tăng lương giảm giờ làm, năm 1935 Công ước tuần 40 giờ được ra đời. Và năm 1962, ILO đã ban hành Khuyến nghị số 116 về rút ngắn giờ làm việc, đề ra nguyên tắc tuần làm việc 40 giờ. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng mức tiêu chuẩn về thời giờ làm việc không qua 48 giờ như các công ước và khuyến nghị mà ILO đã quy định. Ngoài ra các công ước về Công ước làm việc ban đêm, năm 1990 [số 171], Công ước Việc làm bán thời gian năm 1994 [số 175] cũng được pháp luật quốc gia thừa nhận và áp dụng. Điểm I khoản 1 Điều 27 Công ước về Quyền của NKT năm 2007 có quy định cụ thể trách nhiệm của người sử dụng lao động là phải bảo đảm tạo điều kiện hợp lý cho NKT ở nơi làm việc; trong đó bao gồm cả thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Đạo luật phân biệt đối xử NKT 1995 của Quốc hội Vương quốc Anh [DDA] quy định: “Chủ sử dụng lao động mềm dẻo trong điều chỉnh về thời giờ làm việc cho người khuyết tật”. Đạo luật bình đẳng năm 2010 – đạo luật thay thế Đạo luật phân biệt đối xử NKT 1995 - của Quốc hội Vương quốc Anh cũng ghi nhận lại nội dung này, cụ thể: “Chủ sử dụng lao động phải có những điều chỉnh hợp lý để tránh đặt NKT vào tình huống bất lợi khi so sánh với người không khuyết tật như: điều chỉnh thời gian làm việc hoặc cung cấp những thiết bị đặc biệt để giúp NKT thực hiện công việc” [50, tr.50]. Chủ sử dụng lao động không nên áp dụng giờ làm việc của NKT như người không khuyết tật, mà linh hoạt điều chỉnh chẳng hạn: NKT vận động cần tiêu tốn nhiều thời gian trong di chuyển từ nhà đến chỗ làm, thì sẽ điều chỉnh giờ vào làm trễ hơn so với người không khuyết tật hoặc hỗ trợ xe đưa đón. NKT phải tái khám định kì cũng được bố trí giờ làm việc hợp lí để họ có thể tham gia khám chữa bệnh và đảm bảo giờ làm. Căn cứ trên khả năng lao động của NKT, rất nhiều quốc gia quy định về giờ làm việc của NKT thấp hơn người không khuyết tật. BLLĐ năm 1994 của Việt Nam quy định đối với lao động là NKT thì thời giờ làm việc không được quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần. Pháp luật các nước cũng thường nêu chi tiết các quy định về an toàn lao động và giải thích khái niệm môi trường làm việc phù hợp cho NKT để tránh sự hiểu
  • 36. đối xử và giúp doanh nghiệp hiểu rõ những nghĩa vụ họ cần thực hiện. Doanh nghiệp không được sử dụng lao động là NKT suy giảm khả năng lao động nặng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Không sử dụng lao động là NKT làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Và có nghĩa vụ điều chỉnh hiệu quả [một số quốc gia sử dụng tên gọi “cải tiến môi trường làm việc phù hợp - Improving the appropriate working environment]. Theo quy định tại ADA năm 1990 của Hoa Kì: “Môi trường làm việc phù hợp ở đây được hiểu là bất kỳ thay đổi nào trong môi trường làm việc hoặc thay đổi trong cách thức làm việc nhằm giúp NKT được hưởng cơ hội việc làm bình đẳng. Có ba hình thức tạo môi trường làm việc phù hợp: cải tiến quá trình xin việc, thay đổi môi trường làm việc hay cách thức làm việc, tạo điều kiện cho người lao động khuyết tật hưởng một cách công bằng các phúc lợi và quyền lợi do công việc đem lại” [52, tr.56]. Hay tại Điều 33 LNKT năm 2010 của Việt Nam: “Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là NKT tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật”. Nhiều quốc gia như Niu Dilân, Nam Phi còn coi việc doanh nghiệp không tạo ra môi trường an toàn và phù hợp với lao động là NKT là hành vi phân biệt đối xử và hành vi này sẽ bị áp dụng các chế tài xử lý khá nặng. [10, tr.28, 29] 1.3.2.4. Cơ chế đảm bảo thực thi quy định pháp luật điều chỉnh về lao động là người khuyết tật Bên cạnh việc xây dựng, tham vấn và ban hành các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi cho lao động là người khuyết tật, thì công tác tổ chức thực hiện pháp luật được các quốc gia hết sức quan tâm, thậm chí nhiều quốc gia còn đốc thúc thực hiện ngay từ khi đang soạn thảo các văn bản này. Các cơ quan được giao nhiệm vụ có trách nhiệm giám sát, đánh giá việc tuân thủ các chính sách và pháp luật. Cụ thể, để tăng hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về lao động là NKT các quốc gia tiến hành các nội dung sau: Một là, thành lập thanh tra lao động hoặc cơ quan điều tra độc lập: tiếp nhận thông tin và tiến hành thu thập số liệu, điều tra về các hành vi hoặc những vụ vi
  • 37. về lao động là NKT hoặc luật quy định quyền bình đẳng lao động liên quan đến người khuyết tật. Cơ quan điều tra độc lập thường được trao quyền điều tra trong một số nội dung nhất định, với mục tiêu thúc đẩy nhà nước quan tâm thực hiện tốt chính sách, những cơ quan này thường không có thẩm quyền điều tra những tố cáo liên quan đến các chủ sử dụng lao động thuộc thành phần tư nhân. Ở Na uy, ủy ban điều tra độc lập về vấn đề công bằng có trách nhiệm hành chính thường xuyên trong việc thúc đẩy thực hiện quyền và cơ hội bình đẳng, trong giám sát thực hiện Luật về quyền bình đẳng. Văn phòng ủy ban có thể nhận khiếu nại, công bố các kiến nghị [và trong những trường hợp đặc biệt, có thể ra mệnh lệnh] và có thể đưa trường hợp khiếu kiện ra trước Ban vì quyền bình đẳng xem xét; Ban này cũng có thẩm quyền ra mệnh lệnh trong một phạm vi hẹp [nhưng không được liên quan đến việc nhận hay sa thải người lao động]. [32, tr.41] Hai là, tăng cường bộ máy tư pháp: xây dựng và nâng cao hệ thống cơ quan xét xử, xây dựng quy trình tố tụng minh bạch, đơn giản. Giảm bớt gánh nặng tâm lý cho NKT như cho phép các tổ chức phi chính phủ hoặc đại diện công đoàn nộp đơn kiện và đứng ra làm nguyên đơn. Những đòi hỏi về chứng minh lỗi khi người nộp đơn kiện là NKT có thể được giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm chứng minh. Trong trường hợp đó, bên bị kiện phải chứng minh được rằng cách làm của họ không mang tính phân biệt đối xử hoặc không vi phạm các nghĩa vụ theo yêu cầu của pháp luật. [52, tr.52] Ba là, người sử dụng lao động có nghĩa vụ thu thập số liệu về NKT được tuyển dụng và báo cáo những số liệu đó hằng năm lên một cơ quan chuyên trách, cơ quan này sẽ phân tích, đánh giá và đưa ra kết luận về hiệu quả mà các chính sách và pháp luật đem lại cho NKT trong lao động. Điều 520 BLLĐ của Pháp quy định: “Chủ sử dụng lao động có trách nhiệm thu thập dữ liệu, số liệu liên quan đến số lượng lao động là NKT đang được tuyển dụng, nhưng không được nêu tên của những cá nhân này”. [45, tr.66]
  • 38. 1 Chương 1 đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về: khái niệm NKT và lao động là NKT; các đặc điểm của NKT. Đặc biệt, đề tài tập trung nghiên cứu về tính đặc thù của lao động là NKT, đây là cơ sở quan trọng làm nền tản cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động là NKT. Đồng thời, chương 1 đưa ra những vấn đề lý luận về pháp luật về lao động là NKT bao gồm: nội dung điều chỉnh và vai trò, sự cần thiết của điều chỉnh pháp luật về lao động là NKT. Với nội dung điều chỉnh của pháp luật về lao động là người khuyết tật, luận văn tập trung nghiên cứu bốn nội dung lớn gồm: [i] Đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật; [ii] Bảo đảm bình đẳng và không phân biệt đối xử về khuyết tật; [iii] Bảo hộ lao động đối với lao động là người khuyết tật; [iv] Cơ chế đảm bảo thực thi quy định pháp luật điều chỉnh về lao động là người khuyết tật
  • 39. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 2.1.1. Đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật Người khuyết tật là một bộ phận của dân số thế giới nói chung và dân số Việt Nam nói riêng, họ được có những quyền chính đáng và đóng góp nghĩa vụ như những công dân khác. Tại Điều 35 của Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rõ: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Do đó, NKT đương nhiên có quyền được làm việc, lựa chọn nghề nghiệp và hưởng lương, chế độ như những lao động thông thường khác mà không ai được hạn chế quyền của họ. Quyền lao động của NKT được ghi nhận trong các quy định về quyền tiếp cận và tìm kiếm việc làm, quyền được làm việc trong các môi trường phù hợp với những khiếm khuyết của mình mà không ai được xâm phạm hay hạn chế thông qua LNKT năm 2010, BLLĐ năm 2012, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Việc làm; Luật Xây dựng; Luật Giao thông đường bộ; Luật Bảo hiểm y tế; Luật An toàn, vệ sinh lao động… Năm 2014, Việt Nam phê duyệt Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền của NKT. Theo công ước này thì: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Do vậy, khi Việt Nam tham gia vào Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của NKT sẽ là cơ hội thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm cho NKT được hưởng một cách bình đẳng và đầy đủ tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người, trong đó bao gồm cả quyền
  • 40. đây nhất, Việt Nam đã tiếp tục phê duyệt Công ước 159 của ILO về việc làm cho NKT, tạo ra bước chuyển mình rất lớn trong đảm bảo quyền lao động cho NKT. Khoản 1 Điều 2 Công ước quy định: “Trong Công ước này, mọi Nước thành viên phải coi mục đích của tái thích ứng nghề nghiệp là làm cho người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được một việc làm thích hợp, có thể tiến bộ được về mặt nghề nghiệp, và do đó được dễ dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội”. Công ước 159 sẽ là cơ hội mở ra rất rộng mở cho NKT được tham gia vào thị trường lao động, được thực hiện và bảo vệ đầy đủ tất cả các quyền có được trong lao động như những người không khuyết tật. Mỗi quốc gia đều xây dựng luật pháp phù hợp với hoàn cảnh riêng của đất nước nhằm tăng cường các cơ hội bình đẳng cho NKT trên thị trường lao động, cũng như có các biện pháp chính sách để tạo điều kiện tốt nhất bảo vệ quyền lao động và làm việc của họ. Ở Việt Nam, Nhà nước sẽ đứng ra bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của lao động là NKT, có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tạo việc làm và nhận lao động là NKT vào làm việc để thúc đẩy tuyển dụng và tăng cơ hội việc làm cho NKT. Quyền lao động của NKT luôn được đặt trong mối tương quan với thị trường lao động. Ngày nay, chúng ta đã thừa nhận được rằng những hạn chế trong lao động không đến từ những khiếm khuyết của họ mà chính từ cách hành xử của xã hội đối với họ. Do đó, bên cạnh những nổ lực về đảm bảo các quyền cho NKT về lao động thì Nhà nước cũng có các chính sách, quy định pháp luật mang tính kích cầu, khuyến khích tuyển dụng và hỗ trợ việc làm cho các doanh nghiệp để quyền lao động của NKT đạt được hiệu quả tối ưu nhất. Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động nhận NKT vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là NKT được hưởng chính sách ưu đãi cụ thể quy định tại Điều 34 của LNKT năm 2010 như sau: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là NKT được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh
  • 41. tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp”. Doanh nghiệp sử dụng từ 10 NKT làm việc ổn định thì theo Nghị định số 763/VBHN-BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi sau: [i] Được hỗ trợ kinh phí để sử dụng vào việc cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho NKT theo yêu cầu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Tùy thuộc vào tỷ lệ NKT làm việc ổn định tại cơ sở sản xuất, kinh doanh tương thích với mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô của cơ sở sản xuất, kinh doanh để làm căn cứ mà được hưởng các mức ưu đãi khác nhau; [ii] Được ưu tiên hỗ trợ vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Điều kiện vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi suất vay thực hiện theo quy định hiện hành áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc làm. Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 NKT làm việc ổn định cũng được hỗ trợ kinh phí để cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho NKT theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội như doanh nghiệp. Còn đối với các trường hợp NKT tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho NKT thì sẽ được Nhà nước hỗ trợ cho vay với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo đầu ra. 2.1.2. Đảm bảo bình đẳng và không phân biệt đối xử về khuyết tật 2.1.2.1. Các quy định pháp luật về đảm bảo bình đẳng và không phân biệt đối xử về việc làm cho lao động là người khuyết tật Bình đẳng về cơ hội và trong đối xử là nguyên tắc cơ bản của công bằng xã hội. Khoản 3 Điều 2 LNKT năm 2010 giải thích: “Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó”. Cũng như các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật các quốc gia, pháp luật Việt Nam

Chủ Đề