Bài văn thuyết minh về thắng cảnh hội an

Dàn ý thuyết minh về danh lam thắng cảnh Phố cổ Hội An dưới đây sẽ cung cấp những tri thức cơ bản và hữu ích nhất cho độc giả, giúp bạn hiểu hơn về một trong số những địa danh tiêu biểu nhất của mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió này.

Bài viết liên quan

  • Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Phố cổ Hội An
  • Dàn ý thuyết minh về danh lam thắng cảnh núi Voi
  • Dàn ý thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chùa Hương
  • Dàn ý Thuyết minh về danh lam thắng cảnh
  • Dàn ý thuyết minh về Đà Lạt - Thành phố sương mờ

Dàn ý thuyết minh về danh lam thắng cảnh Phố cổ Hội An

I. Dàn ý thuyết minh về danh lam thắng cảnh Phố cổ Hội An [Chuẩn]

1. Mở bài

Giới thiệu và nêu cảm nhận chung của bản thân về Phố cổ Hội An.

2. Thân bài

  1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành của Phố cổ Hội An - Vị trí địa lý: Nằm ở hạ nguồn của dòng sông Thu Bồn, nằm cách xa thành phố Đà Nẵng khoảng 30 ki-lô-mét về phía Nam. - Lịch sử hình thành và phát triển: + Thế kỷ 17 và 18, Phố cổ Hội An là một trong số những trung tâm buôn bán sầm uất nhất cả nước. + Trong hai cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nơi đây may mắn không bị chiến tranh tàn phá. + Thế kỉ 20, không phải chịu nhiều tác động của quá trình đô thị hóa. + Từ năm 1980, các học giả cũng như du khách trong và ngoài nước chú ý đến những nét đẹp của kiến trúc, văn hóa ở Phố cổ Hội An, dần dần, nơi đây đã trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn ở nước ta.
  1. Giới thiệu những nét đặc sắc của Phố cổ Hội An - Phố cổ Hội An có những công trình kiến trúc, những địa điểm tham quan du lịch hấp dẫn và thú vị: + Phố cổ Hội An là nơi có những mái rêu phong cũ kỹ và cổ kính, những ngôi nhà gỗ từ xa xưa và đặc biệt là những chiếc đèn hoa đăng trên những cây cao và cả ở mỗi ngôi nhà. + Phố cổ Hội An nổi tiếng với nhiều cảnh đẹp với kiến trúc độc đáo: chùa Cầu, hội quán, các nhà thờ tộc, những ngôi đền miếu,... - Ẩm thực: + Cao lầu + Mì Quảng + Bánh bao và bánh vạc - Lễ hội và các trò chơi dân gian + Phố cổ Hội An vẫn còn được lưu giữ được nhiều lễ hội truyền thống từ xưa, đó chính là lễ hội kính ngưỡng thành hoàng làng, lễ hội tưởng niệm những vị tổ sư trong các ngành nghề, lễ hội kỷ niệm các bậc thánh nhân, lễ hội tín ngưỡng tôn giáo và có lẽ đặc biệt hơn cả lễ hội đêm rằm phố cổ. + Các trò chơi dân gian: đánh bài chòi, hò khoan, hò giã gạo, thi đấu cờ tướng và nhất là thả đèn hoa đăng.
  1. Ý nghĩa và những giá trị văn hóa, lịch sử của Phố cổ Hội An - Trước thế kỉ 20, nơi đây là một trong số những địa điểm buôn bán sầm uất nhất cả nước. - Ngày nay, Phố cổ Hội An là địa điểm du lịch hấp dẫn, mỗi năm thu hút hàng triệu hàng triệu lượt khách du lịch trong và ngoài nước về thăm. - Phố cổ Hội An còn là nguồn cảm hứng cho thi ca, nhạc họa.

3. Kết bài Nêu cảm nghĩ, ấn tượng của em về Phố cổ Hội An.

II. Bài văn mẫu thuyết minh về danh lam thắng cảnh Phố cổ Hội An [Chuẩn]

Dọc theo dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta, mỗi tỉnh thành của đất nước chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh khác nhau. Thủ đô Hà Nội có Hồ Hoàn Kiếm, Ninh Bình có chùa Bái Đính, Tràng An, về Nghệ An, chúng ta lại được về thăm Nam Đàn quê Bác và khi nhắc tới Quảng Nam - mảnh đất đầy nắng và gió, chúng ta sẽ nhớ ngay tới Phố cổ Hội An. Phố cổ Hội An là một danh lam thắng cảnh, một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.

Như chúng ta đã biết, Phố cổ Hội An là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, là một đô thị cổ nằm ở hạ nguồn của dòng sông Thu Bồn, nằm cách xa thành phố Đà Nẵng khoảng 30 ki-lô-mét về phía Nam. Nhìn lại chặng đường ra đời, xây dựng và phát triển của Phố cổ Hội An chắc hẳn mọi người sẽ không khỏi ngỡ ngàng. Vào những năm thế kỷ 17 và 18, Phố cổ Hội An là một trong số những trung tâm buôn bán sầm uất nhất cả nước, là một thương cảng quốc tế - nơi gặp gỡ, giao lưu, buôn bán của các thương lái Trung Quốc, Nhật Bản và cả các nước phương Tây...[Còn tiếp]

Trên đây là một số bài văn thuyết minh về Phố cổ Hội An hay nhất mà Đọc tài liệu muốn để các em tham khảo và hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất! Đừng quên tham khảo tuyển chọn văn mẫu 9 đặc sắc với các chủ đề đã được thầy cô ra em nhé!

Tư liệu sưu tầm, được chia ra thành 3 phần, phần 1: cảm nghĩ, phần 2:các di tích tiêu biểu ở Hội An, phần 3: thuyết minh về Hội quán Phúc Kiến

PHẦN 1: BÀI VIẾT VỀ CẢM NGHĨ

Từ lâu, người ta đã nghe đến một thành phố cổ Hội An với những nếp nhà mái ngói rêu phong, những quán hàng rong, những con sông hiền hòa ôm lấy thành phố nhỏ bé. Nhộn nhịp, tấp nập người buôn, kẻ bán vào ban ngày, nhưng lại trở nên hiền hòa, lung linh nhiều màu sắc vào buổi tối. Cổ kính, thanh bình, lung linh là 3 từ tôi nói về Phố cổ Hội An sau chuyến đi của mình. Vào cuối tháng 3 trong cái nắng gay gắt của nắng miền trung gió cát. Thật tình cờ trong tuyến tour du lịch Hội An của tôi, đến với Hội An vào một buổi chiều gió mát, nhìn ngắm những con đò nhè nhẹ bên sông, những mái nhà rêu phong in bóng bên dòng nước. Tôi nhận ra rằng Hội An cũng yên bình như bao vùng làng quê khác ở Bắc Bộ. Thị xã Hội An nằm bên bờ sông Thu Bồn. Nơi đây xưa kia đã có một thời nổi tiếng với tên gọi Faifoo mà các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Ðào Nha, Italia v.v.. đã biết đến từ thế kỷ 16, 17. Từ thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đỗ chính của thương thuyền vùng Viễn Ðông…Thật may mắn cho tôi được một lần đặt chân đến thành phố cổ còn lưu lại bao nhiêu mái nhà cổ kính, rêu phong này. Thị xã có những dãy phố cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quý, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rất cầu kỳ… Hội An là một bảo tàng sống, khu phố cổ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới.

Thương cảng Hội An với tên gọi xưa kia là cảng Ðại Chiêm được hình thành khi những thương gia nước ngoài, nhất là người Nhật Bản và người Trung Quốc từng bước thiết lập cơ ngơi để sinh sống cũng như buôn bán lâu dài. Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện với giọng ca Bài Chòi, Hò Khoan, Giã Gạo…vẳng lên từ con thuyền đậu dưới bến sông, dưới mái hiên, nơi đầu phố … Thị xã nhỏ bé nằm trên đất Quảng Nam này từng là nơi chứng kiến hai cuộc giao thoa văn hoá lớn trong lịch sử dân tộc Việt: Lần thứ nhất cách đây hơn 5 thế kỷ, khi nước đại Việt tiến về phương Nam mở mang bờ cõi, và lần thứ hai cách đây hai thế kỷ, khi người phương tây theo các chiến thuyền và thương thuyền đặt chân lên mảnh đất này với ý đồ truyền bá và thôn tính. Cả hai sự kiện lớn đó đều kéo theo tương tác văn hoá lớn lao và nền văn hóa Việt đã vượt qua thử thách đồng hoá để tự cải biến và tồn tại cùng thời cuộc. Giờ đây, du khách tới Hội An, ngoài việc khám phá sự bình dị chân thật trong tâm hồn người dân phố Hội, sẽ mất nhiều thời gian chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng của các mái ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ tinh vi trong những căn nhà gỗ đã tồn tại từ hơn ba trăm vòng quay xuân hạ thu đông.

Bước chân vào khu phố cổ, du khách sẽ ngỡ ngàng trước một thế giới biệt lập, tách khỏi mọi dòng chẩy và sức phá huỷ của thời gian. Không có tiếng động cơ gầm rú cũng chẳng có những thương hiệu rực rỡ đèn mầu. Tất cả đã lùi xa sau lưng, cả không gian và thời gian đều lắng đọng trong những nếp nhà gỗ cổ xưa. Cầu chùa, dẫy nhà cổ hai tằng quay lưng phía bến sông Hoài, Hội quán Quảng Ðông, Phúc Kiến… đang lặng lẽ tồn tại để con người hoài niệm về một thời quá khứ. Ðặc biệt, khu phỗ cổ mạng một vẻ lãng mạng, sâu lắng và bình yên dưới ánh đèn lồng huyền ảo mỗi đêm 14 âm lịch hàng tháng. Xưa kia, nếu như người Việt quen dùng đĩa đèn dầu lạc, thì người Nhật Bản và Trung Hoa đã đưa tới Hội An thói quen sử dụng đèn lồng. Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng thay cho ánh sáng điện từ mùa thu năm1998 đã mang lại hiệu quả không ngờ ngay từ buổi đầu tiên. Vào mỗi đêm 14 âm lịch, mọi sinh hoạt của thị xã bình yên này được quay trở về với tập quán của hơn 300 năm trước, và khu phố cổ nằm trong giới hạn của bốn con đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học, Lê Lợi, Bạch Ðằng đã hàng loạt tắt đèn và treo trước hiên nhà những ngọn đèn lồng huyền ảo.

Dù toả sáng nhờ ngọn điện thông thường, song ánh sáng của đèn lồng mờ dịu và phảnh phất dấu ấn của thời gian xưa cũ. Những chiếc đèn tròn, lục lăng theo phong cách Trung Hoa treo dưới mái hiên và hai bên cửa ra vào, đèn quả trám hoặc ống dài kiểu Nhật Bản phất giấy trắng lơ lửng dọc theo hàng cột, đèn trụ vuông, đèn quả trám to nhỏ các cỡ… tất cả đã tạo lên một thế giới lung linh, huyền ảo. Trong đêm hoa đăng, phố cổ đã tự nguyện ngừng sử dụng các thiết bị điện như TV, đèn đường, đèn neon… nhưng người dân Hội An không thấy đó là điều bất tiên cho cuộc sống của mình.

Cường độ ánh sáng giảm đi, song chất men say của thị xã lãng mạn đã bốc mạnh trong mỗi con người khi đi qua phố cổ. Trong ngôi nhà cổ rêu phong, bóng người phụ nữ áo dài thời trước cặm cụi làm việc dưới ánh đèn lồng được tạo thành từ chiếc nơm cá giản dị, bên vỉa hè, hai người già râu tóc bạc phơ đang chìm đắm vào suy nghĩ với ván cờ tướng thắp sáng bởi ngọn nến lung linh… Dường như con người đang được sống với dĩ vãng khi mà những phiền toái của cuộc sống hiện tại chưa hiện hữu.

Trong bầu không khí cổ tích đó, hãy kiểm nghiệm sự hiện hưu bằng việc nếm một vài món ăn phong vị xứ Quảng như bánh Bo, bánh Vạc, Cao lầu tại các nhà hàng còn giữ nguyên hình ảnh đầu thế kỷ. Tại tiệm ăn FaiFo trên đường Trân Phú, những chiếc đèn lồng nhỏ xíu hình dáng cổ điển chiếu một nguồn ánh sáng vàng ấm áp, hoà điệu cùng cặp đèn lớn có dán lời cầu ước chữ Hán theo phong tục cổ xưa trước mái hiên. Ðộc đáo hơn là cách bài trí của tiệm cafe có tên “Treated”. Tại đây, người chủ đã khoét thủng trần gỗ và lồng vào những chiếc rá tre vo gạo bình dị. Hàng lỗ thủng đều đặn của rá tre đã tạo ra một nguồn ánh sáng ngộ nghĩnh và độc đáo. Có phải người chủ nào cũng đủ cam đảm khoét thủng trần gỗ của nhà mình ra ? Hiện diện trên phố Hội An là vô số các cửa hàng bầy bán các loại đèn lồng làm kỷ niệm. Tuỳ theo chất liệu vải bọc ngoài mà ngọn đèn đưa tới những loại ánh sáng khác nhau. Ðó có thể là mầu đỏ may mắn, mầu vàng tươi vui, mầu gấm huyết diụ kiêu sa hay sắc xanh lãnh lẽo. Tuy nhiên khó so sánh được với những chiếc đèn lồng có tuổi hàng thế kỷ đang được các gia đình sinh sống lâu đời ở đây gìn giữ và chỉ chưng ra trong đêm hội hoa đăng. Những ngọn đèn này được chế tác từ gỗ quý, chạm trổ cầu kỳ và trên mỗi tấm kính là một tác phẩm hội hoạ thật sự. Các tích truyện cổ nổi tiếng được nghệ nhân xưa vẽ trên kính, sinh động và hoàn hảo như một bức tranh đắt giá. Mỗi khi ngọn nến bên trong toả sáng, cảnh mây trắng, trời xanh hoặc nước biếc sẽ liên tục quay tròn, hắt bóng các chi tiết lên mặt kính. Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện với giọng ca bài chòi, hò khoan, giã gạo… vẳng lên từ con thuyền đậy dưới bến sông, dưới mái hiên, nơi đầu phố… tạo ra sức cuốn hút kỳ lạ đối với du khách. Không quá trang nghiêm như Cố Ðô Huế, không quá sôi động như chợ Lớn, nét cổ truyền nơi đây mang một vẻ thuần khiết, thu hút những tâm hồn ưa chuộng lãng mạn của những ngày xa xưa.

Nếu bạn đã từng đặt chân đến Hội An một lần giống tôi thì chắc hẳn các bạn sẽ muốn quay lại lần nữa. Bởi đến Hội An một lần chưa thể hiểu hết cũng như khám phá hết thành phố còn bao điều bí ẩn đó.

PHẦN 2: MỘT SỐ DI TÍCH TIÊU BIỂU CỦA PHỐ CỔ HỘI AN.

Chùa Cầu – Biểu tượng của Hội An Nằm tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, Hội An, Chùa Cầu [hay còn gọi chùa Nhật Bản] là công trình kiến trúc do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 16. Do ảnh hưởng của thiên tại địch hoạ, Chùa Cầu đã qua nhiều lần trùng tu và dần mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt.

Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong mềm và được chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo. Trên cửa chính của Chùa Cầu có chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều [có nghĩa là cầu của những người bạn từ xa đến] tên do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt trong một lần viếng thăm Hội An vào năm 1719. Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – thần chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu. Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù – một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản và mỗi lần Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài việc xây cầu để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình.

Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An. Nhà cổ Quân Thắng [77 Trần Phú, Hội An] Là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà có niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ – Trung Hoa. Qua năm tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến trúc và các bài trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây. Toàn bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh tế của ngôi nhà này đều do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng, Hội An thực hiện. Đây là một trong những điểm tham quan chính trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế giới

Hội An của du khách.

Nhà cổ Tấn Ký [101 Nguyễn Thái Học, Hội An] Được xây dựng cách đây trên 200 năm, nhà cổ Tấn Ký có kiểu kiến trúc hình ống – đặc trưng của loại nhà phố Hội An, với nội thất chia làm nhiều gian, mỗi gian có chức năng riêng. Mặt tiền nhà là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt sau thông với bến sông để làm nơi xuất, nhập hàng hoá. Vật liệu trang trí nội thất ngôi nhà chủ yếu là các loại gỗ quý và được trạm trỗ, điêu khắc rất tinh xảo các hình về giao long, hoa quả, bát bửu, dải lụa… thể hiện sự sung túc của các thế hệ chủ nhân. Ngày 17 tháng 2 năm 1990, nhà cổ Tấn Ký đã được cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia. Nhà cổ Phùng Hưng [04 Nguyễn Thị Minh Khai, Hội An] Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà cổ Phùng Hưng có kết cấu độc đáo với phần gác cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây. Ngôi nhà chứa đựng nhiều thông tin về lối sống của tầng lớp các thương nhân ở thương cảng Hội An xưa. Mặc dù cũng được thực hiện bằng chất liệu quý nhưng nhà cổ Phùng Hưng không trạm trổ, điêu khắc cầu kỳ mà được giữ thô một cách cố ý.

Nhà cổ Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia vào tháng 6 năm 1993 Hội quán Phúc Kiến [46 Trần Phú, Hội An] Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu [bà Chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương] vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa Kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền hiền [lục tánh], bà mụ, thần tài … hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con người. Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu [15 tháng Giêng Âm lịch], Vía Lục Tánh [16 tháng 2 Âm lịch], vía Thiên Hậu [23 tháng 3 Âm lịch] … tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.

Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990. Hội quán Triều Châu [157 Nguyễn Duy Hiệu, Hội An]

Hội quán được Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 để thờ Phục Ba tướng quân Mã Viện – vị thần giỏi chế ngự sóng gió giúp cho việc đi lại buôn bán trên biển được thuận buồm xuôi gió, đắc lợi. Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.

Hội quán Quảng Đông [17 Trần Phú, Hội An] Hội quán được Hoa Kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885. Thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử, sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của bang. Với nghệ thuật sử dụng hài hòa các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và họa tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu [15 tháng Giêng Âm lịch], vía Quan Công [24 tháng 6 Âm lịch] tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.

Hội quán Ngũ Bang [64 Trần Phú, Hội An] Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương hay Trung Hoa hội quán. Hội quán do các thương khách người Hoa gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia Ứng xây dựng vào năm 1741. Đây là nơi thờ Thiên Hậu Ngũ Bang và sinh hoạt đồng hương để giúp nhau làm ăn buôn bán. Hội quán Ngũ Bang mang đậm phong cách kiến trúc Trung Hoa.

Chùa Ông [24 Trần Phú, Hội An] Chùa Ông được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 17. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại đây thờ vị tướng tài ba Quan Vân Trường [một biểu tượng về trung – tín – tiết – nghĩa] nên còn có tên gọi là Quan Công Miếu. Chùa Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may. Quan âm Phật tự Minh Hương [07 Nguyễn Huệ, Hội An] Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ. Quan âm Phật tự Hương có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.

Nhà thờ tộc Trần [21 Lê Lợi, Hội An] Do một vị quan họ Trần xây dựng khoảng đầu thế kỷ 19 theo những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa và người Việt. Tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m2, có nhiều hạng mục: nhà thờ tự ông bà và trưng bày các di vật liên quan đến dòng họ, nhà ở … Đây là nơi tụ họp con cháu vào dịp lễ bái, tri ân tổ tiên và giải quyết những vấn đề trong dòng tộc. Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm. ——————— PHẦN 3: BÀI THUYẾT MINH VỀ HỘI QUÁN PHÚC KIẾN TẠI HỘI AN

Hội An là một thị xã nhỏ bé nằm trên đất Quảng Nam, là nơi chứng kiến hai cuộc giao thoa văn hóa lớn trong lịch sử Việt. Lần thứ nhất là cách đây hơn 5 thế kỷ, khi nước Đại Việt tiến về phương nam mở mang bờ cỏi, và lần thứ hai là cách đây 2 thế kỷ, khi người Phương Tây theo các chiến thuyền và thương thuyền đặt chân lên mảnh đất này với ý đồ truyền bá và thôn tính. Cả hai sự kiện đó đều kéo theo tương tác văn hoá lớn lao và nền văn hóa việt đã vượt qua thử thách đồng hóa để tự cải biến và tồn tại cùng thời cuộc.

Bên cạnh đó Hội An còn là một cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á vào thế kỷ 15 và 16, vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo, là phố cổ duy nhất ở Việt Nam còn giữ được tương ứng nguyên trạng với lối kiến trúc nhà ở truyền thống có niên đại cách đây từ 2 đến 3 trăm năm, xen vào những ngôi nhà ở là những công trình kiến trúc tôn giáo cũng như đền miếu, hội quán… Là nơi có môi trường sinh thái nhân văn rất độc đáo. Bao xung quanh đó là các làng nghề và những cảch sinh hoạt trên sông nước. Đây cũng là di tích của ba cộng đồng người cùng sinh sống là người Việt, Trung Hoa và Nhật Bản.Chính những điều này mà Hội An được UNESCO công nhận di sản văn hóa vào tháng 12 năm 1999. Kính thưa quí khách, hôm nay chúng ta sẽ tham quan Hội Quán Phúc Kiến – Một công trình kiến trúc độc đáo theo kiểu Trung Hoa tại Hội An . Kính thưa quí khách, hiện nay chúng ta đang đứng trước bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và bà Thiên Hậu Thánh Mẫu – Nữ thần biển ” Thiên Hậu Thánh Mẫu”. Người đã giúp họ tránh hoạn nạn, giông bão trên bước đường phiêu bạt. Bà là vị thần được đặc biệt coi trọng không những ở nơi đây mà ở tất cả các miếu của người Hoa ở Hội An và những nơi mà người Hoa sinh sống. Vì ngày xưa trên bước đường lưu lạc tứ xứ, người Hoa thường đi bằng tàu thuyền mà theo tương truyền thì bà thiên Hậu là người họ Lâm ở tỉnh Phúc Kiến, lúc nhỏ bà là một đứa bé bị câm. Năm lên tám tuổi bà được một ông tiên cho theo học đạo và đến năm 16 tuổi Bà được ông tiên ban cho phép thần thông hô mưa, gọi gió. Và ông ban cho Bà với điều kiện chỉ làm những việc thiện. Bà được gọi là nữ thần của biển cả, hay nữ thần phù hộ cữu giúp những người đi biển. Người Hoa những khi có việc cầu xin bà phù hộ thường mang lễ vật đến làm lễ dâng hương. Sau đó họ thường cúng cho bà những Khoanh Nhang Đại và họ cũng cúng cho hội quán dầu hỏa để thắp đèn trên bàn thờ của Bà. Những Khoanh Nhang này lớn lắm, có thể cháy đến một năm mới hết. Người trong coi hội quán sẽ lấy lần lượt các khoanh đốt dần, cái nào hết thì treo cái khác lên. Trên các khoanh nhang người ta thường hay viết một tờ giấy có ghi họ tên đầy đủ của cả gia đình, địa chỉ… để mong muốn được bà phù hộ độ trì cho công việc được làm ăn thuộc buồm xuôi gió. Hàng năm vào ngày 26 tháng 2 người Trung Hoa nói chung, và người phúc kiến nói riêng tổ chức lễ vía của bà. Tại đây diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.

Chủ Đề