Câu tục ngữ Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng

Trang chủ » Văn học Việt Nam » Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ » Thuốc đắng dã tật

Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ

Đèo heo hút gió Con cà con kê Có công mài sắt, có ngày nên kim Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Chạy như cờ lông công Cạn tàu ráo máng Ăn ốc nói mò Sống để dạ chết mang theo Cà cuống chết đến đít còn cay Ba chìm bảy nổi Giàu vì bạn, sang vì vợ Chim sa cá lặn Cái tổ con chuồn chuồn Chờ được mạ, má đã sưng Bợm già mắc bẫy cò ke Bá Nha - [Chung] Tử Kỳ Bầu dục chấm mắm cáy Áo vải, cờ đào Ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng Áo gấm đi đêm Ăn cháo đái bát Chân nam đá chân chiêu Bóc ngắn cắn dài Lá lành đùm lá rách Cõng rắn cắn gà nhà Được voi đòi tiên Ăn vóc học hay Vụng chèo khéo chống Nhạt phấn phai hương Rau muống tháng 9 nhịn cho mẹ chồng Ếch ngồi đáy giếng Cú kêu cho ma ăn Ăn chay niệm phật nói lời từ bi Vàng thau lẫn lộn Năm tao bảy tuyết Chạy như cờ lông công Có nếp có tẻ Ba chìm bảy nổi Nước mắt cá sấu Tức nước vỡ bờ Thả mồi bắt bóng Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Tứ cố vô thân Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng Thua keo này bày keo khác Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa Ướt như chuột lột Cú kêu cho ma ăn Bóng chim tăm cá Như nước đổ đầu vịt Kẻ tám lạng người nửa cân Trộm cắp như rươi Một nắng hai sương Mạt cưa mướp đắng Chó mái chim mồi Máu ghen Hoạn Thư Ma ăn cỗ Nói có sách, mách có chứng Xác như vờ, xơ như nhộng Len lét như rắn mùng năm Dốt có đuôi Nợ như chúa Chổm Tham bát bỏ mâm Tấc đất cắm dùi Hàng tôm hàng cá Lời ong tiếng ve Lệnh ông không bằng cồng bà Sơn cùng thủy tận Tha phương cầu thực Sống để dạ chết mang theo Rách như tổ đỉa Rước voi giày mả tổ Ba que xỏ lá Ba hồn bảy vía - Ba hồn chín vía Cáo mượn oai hùm Đi một ngày đàng, học một sàng khôn Đồng không mông quạnh Nói nhăng nói cuội Chết đứng như Từ Hải Đười ươi giữ ống Hồn xiêu phách lạc Nói toạc móng heo Quýt làm cam chịu Vừa ăn cướp vừa la làng Trướng rủ màn che Lo bò trắng răng Nát như tương Cửa Khổng sân Trình Sức dài vai rộng Tiền trảm hậu tấu Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương Bách phát bách trúng Ướt như chuột lột Chén tạc chén thù Ông chẳng bà chuộc Kín cổng cao tường Há miệng mắc quai Oan Thị Kính Lá mặt lá trái Há miệng chờ sung Gửi trứng cho ác Giàu làm kép hẹp làm đơn Được voi đòi tiên Đa nghi như Tào Tháo Dở dở ương ương Thoả chí tang bồng Cõng rắn cắn gà nhà Niêu cơm Thạch Sanh Như vợ chồng sam Gửi trứng cho ác Chết đuối vớ được cọc Chữ như gà bới Ốc không nổi mình ốc lại mang cọc cho rêu Ông Tơ bà Nguyệt Cốc mò cò xơi Mưa không khắp Một miệng thì kín, chín miệng thì hở Mất bò mới lo làm chuồng Lừa ưa nặng Một nghề thì sống đống nghề thì chết Mèo già hóa cáo Lươn ngắn lại chê chạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm Tham thì thâm Như vợ chồng ngâu Qua cầu rút ván Xui nguyên giục bị Lấy thúng úp voi Chuồn chuồn đạp nước Hằng hà sa số Gan cóc tía Một mất mười ngờ Ruột để ngoài da Phúc họa khó lường Mũ ni che tai Giậu đổ bìm leo Chuột sa chĩnh gạo Bàn tay có ngón ngắn ngón dài Cá chậu chim lồng Đẽo cày giữa đường Yêu nên tốt, ghét nên xấu Quạ nào mà chẳng đen đầu Nằm gai nếm mật Chắp cánh liền cành Đứt đuôi con nòng nọc Gương vỡ lại lành Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo Đồ Sở Khanh Của ít lòng nhiều Nước chảy chỗ trũng Cha truyền con nối Rồng đến nhà tôm Môi hở răng lạnh Muỗi đốt chân voi Học vẹt Văn hay chữ tốt Ngang như cua Nhanh như cắt Mỗi cây mỗi hoa Của người phúc ta Tương cà gia bản Thuốc đắng dã tật Cháy nhà mới ra mặt chuột Cá không ăn muối cá ươn Cá hóa rồng Cá chuối đắm đuối vì con Lá thắm chỉ hồng Bọ ngựa chống xe Ăn lông ở lỗ Bàn tay không che nổi mặt trời Ngựa quen đường cũ Tấc đất tấc vàng Lòng vả cũng như lòng sung Hồng nhan bạc mệnh Đẹp như Tiên Dốt hay nói chữ Công cha nghĩa mẹ Giật gấu vá vai Đất có thổ công, sông có hà bá Bán lợi mua danh Bán trời không văn tự Ăn mày đánh đổ cầu ao Ăn như rồng cuốn Ăn cơm chúa, múa tối ngày Ăn chay niệm phật Cháy nhà ra mặt chuột Đục nước béo cò Già đòn non nhẽ

Thuốc trị bệnh có nhiều vị, tất phải có vị đắng. Vị đắng khó uống hơn vị ngọt, nhưng tan bệnh. Còn vị ngọt đánh lừa cái lưỡi chứ không khỏi bệnh được. Ý nói: Thuốc có vị đắng mới trị lành được bệnh.

Ở vùng nọ, có một lãnh chúa tàn ác, sống xa hoa. Vị lãnh chúa này thường thích ăn của ngọt và nghe những lời xúi bẩy. Một ngày kia, lãnh chúa bị bệnh thập tử nhất sinh, bèn cho tìm thầy lang giỏi nhất vùng đến chữa trị. Thầy lang thận trọng bắt mạch rồi bốc thuốc. Trong đơn thuốc, thầy cho một số vị đặc trị và nói với người nhà lãnh chúa rằng: ”Tôi cắt thuốc đây tuy khó uống một chút, nhưng mà lui bệnh”.

Thuốc sắc lên rồi, bưng đến cho lãnh chúa, lãnh chúa nhấm một ngụm thuốc, bỗng nhăn mặt rồi đổ cả bát thuốc đi mà rằng:

- Người này hại ta, thuốc gì mà đắng thế, giống như thuốc độc vậy.

Rồi hô người bắt thầy giam tống vào ngục.

Người nhà cho tìm thầy thuốc tiếp theo. Biết được tính của lãnh chúa, thầy này cắt thuốc chỉ bốc toàn vị ngọt, vị bổ như: Sâm, quế, cam thảo, táo tầu, nhục, quy… mà tuyệt không dám cho vị đắng. Lãnh chúa uống khen ngọt, cho là thầy lang giỏi. Nhưng uống đến chén thứ mười thì bệnh càng trầm trọng thêm. Bệnh di căn càng uống thuốc bổ càng phát, cho đến chén thứ mười hai thì qua đời.

Lãnh chúa chết, thầy lang cắt vị đắng trước đây được thả khỏi ngục, tiếp tục đi làm nghề.

Một lần, thầy lang được mời vào chữa bệnh cho vua. Yết kiến Hoàng hậu, thầy lang mới tâu rằng:

- Thần được triệu vào cung là nhờ ơn tiên đế nhưng chẳng lấy làm vui.

Hoàng hậu mới hỏi tại sao thì thầy lang thưa tiếp:

- Bệnh tình ở ngọc thể mà ra, thuốc là trị cái gốc, cái gốc không trị được thì thần cũng lại theo bệnh tiên đế mà đi. Nhưng xin được hỏi Hoàng hậu một câu: “Người có ưa nói thật không?”.

Hoàng hậu nhân từ trả lời rằng:

- Tất nhiên, lời nói thật khó nghe nhưng tránh được hiểm họa.

Thầy lang bèn nói:

- Vậy thuốc của thần chữa cho vua cũng như lời nói thật, tất phải có vị đắng, khó uống.

Hoàng hậu cho là thầy lang này có tâm bèn truyền chữa bệnh cho vua. Thuốc được sắc lên cho vua, nhiều vị đắng, vua uống khó nhọc lắm, nhưng đến thang thứ mười hai thì bệnh thuyên giảm, uống thêm vài thang, vua đi lại được.

Khỏi bệnh, nhà vua thưởng cho thầy lang nọ, rồi phong cho chức ngự y. Thầy lang từ chối, chỉ xin cho mình một cái chứng chỉ hành nghề, mong tránh được hiểm họa. Rồi từ đó, thầy lang đã đi khắp nước chữa bệnh cho muôn dân.

Có thể từ chuyện trên mà có câu thành ngữ trên và cũng có thể từ một kinh nghiệm chữa bệnh cắt thuốc mà người đời mới có thành ngữ trên để răn đời. Nhưng dù sao đi nữa thì bài học sinh động đến nay vẫn thường coi là chân lý “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Nhưng dù có “khó nghe” và “mất lòng” đi nữa thì vẫn cần phải nói sự thật. Những người nói sự thật là những người có nhân cách, có thiện chí mong cho người khác và cho xã hội ngày thêm tốt đẹp, chứ chẳng như những người chỉ biết lấy lòng một cách rẻ tiền, hại người.

Theo Đi tìm điển tích thành ngữcủa Tiêu Hà Minh - NXB Thông tấn

  • Tương cà gia bản
  • Cháy nhà mới ra mặt chuột

Video liên quan

Chủ Đề