Chiến thuật mới được sử dụng trong “chiến tranh cục bộ” và “việt nam hóa chiến tranh” là gì?

Ngày 17/7/1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “…Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do; đến ngày thắng lợi, nhân dân sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…”. Đáp lời kêu gọi thiêng liêng ấy, quân và dân cả nước đoàn kết một lòng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Hòa cùng khí thế chung của cả nước, Đoàn 125 chuẩn bị bước vào giai đoạn vận chuyển mới.

Trong điều kiện yếu tố bí mật, bất ngờ của tuyến đường không còn; địch bố phòng, kiềm toả gắt gao; đường đi mới, xa bờ, qua nhiều vùng biển lạ, nguy hiểm; do vậy, công tác chuẩn bị cho chuyến mở đường phải được tiến hành khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo. Đoàn 125 giao cho Tàu 42 gồm 16 thuỷ thủ do đồng chí Nguyễn Văn Cứng làm Thuyền trưởng và đồng chí Nguyễn Ngọc ẩn làm Chính trị viên.

Đồng chí Vũ Trung Tính [thứ 2 từ trái sang], nguyên Thuyền phó Hàng hải Tàu 42 cùng những đồng đội Đoàn tàu Không số năm 1965. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Đêm 15/10/1965, Tàu 42 chở 60 tấn vũ khí nhổ neo, xuất bến. Sau 9 ngày đêm, Tàu cập bến Rạch Kiến Vàng [Cà Mau] an toàn. Thắng lợi của chuyến đi mở đường của Tàu 42 trong tình hình mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó chứng minh cho ý chí quyết tâm liên tục tiến công chi viện cho miền Nam bằng đường biển là hoàn toàn đúng đắn. Tiếp theo Tàu 42, Tàu 69 và Tàu 68 lần lượt lên đường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125, ngày 30/4/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho đơn vị; ngày 1/1/1967, Quốc hội, Chính phủ tặng Danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVTND cho Đoàn 125.

Đêm 30, rạng sáng ngày 1 Tết Mậu Thân [31/1/1968], cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta diễn ra đồng loạt trên khắp miền Nam. Để đáp ứng yêu cầu vũ khí cho chiến trường và phân tán sự đối phó của địch; từ ngày 23 đến 27/2/1968, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định sử dụng 4 tàu: Tàu 165, 56, 54 và Tàu 235 lên đường làm nhiệm vụ vận chuyển đặc biệt chi viện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam.

Kết thúc giai đoạn vận chuyển cực kỳ ác liệt, từ tháng 10/1965 đến tháng 3/1968, Đoàn 125 đã tổ chức 23 chuyến vận chuyển, trong đó có 5 chuyến thành công, chở 310 tấn vũ khí cho chiến trường; 6 chuyến xảy ra chiến đấu, ta phá hủy 4 chiếc, địch lấy của ta 2 chiếc; ta phá 2 tàu bị mắc cạn; những chuyến đi còn lại gặp địch, buộc phải quay về.

Trước thất bại bằng không quân ở miền Bắc và tổn thất nặng nề trên chiến trường miền Nam, ngày 31/10/1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Theo chỉ thị của Tư lệnh Quân chủng, Đoàn 125 tham gia Chiến dịch vận chuyển VT5 [vận chuyển hàng hoá, vũ khí từ Hải Phòng vào Sông Gianh-Quảng Bình], từ đây hàng hoá, vũ khí sẽ được các lực lượng vận chuyển vào chiến trường miền Nam bằng đường bộ.

Chuyển hàng xuống tàu chi viện cho chiến trường miền Nam

Với phương châm chỉ đạo “Chuẩn bị chu đáo, tranh thủ thời cơ, làm nhanh, gọn, liên tục, an toàn, đi gần bờ, dựa vào dân”, từ ngày 3/11/1968 đến ngày 29/1/1969, vượt qua hàng rào phong tỏa dày đặc thủy lôi và bom từ trường của Mỹ, Đoàn 125 đã huy động 364 lượt tàu, vận chuyển 21.737 tấn hàng, đạt 217,37% kế hoạch. Đến cuối tháng 1/1969, Đoàn 125 kết thúc đợt 1 Chiến dịch vận chuyển VT5.

Tháng 2/1969, Đoàn 125 tiếp tục Chiến dịch vận chuyển VT5 với 187 chuyến tàu, vận chuyển 10.889 tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu 1.000 tấn, góp phần chi viện cho chiến trường, đặc biệt là chiến trường Thừa Thiên-Huế và Mặt trận Khu V. Tết Nguyên đán năm 1969, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 vinh dự được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng gửi tặng lẵng hoa và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, chúc tết đơn vị.

Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị thất bại, để cứu vãn tình hình, đế quốc Mỹ thực hiện Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chúng tăng cường đưa vũ khí hiện đại với số lượng lớn vào chiến trường miền Nam. Nhiệm vụ lúc này của toàn dân và toàn quân ta là phải tập trung nỗ lực cao nhất, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải sụp đổ và giành thắng lợi hoàn toàn.

Tháng 7/1969, sau khi rút kinh nghiệm, tìm ra nguyên nhân của những chuyến đi thành công và không thành công, Đoàn 125 sử dụng Tàu 42 cải trang thành tàu nghiên cứu biển, đi trinh sát để tìm phương thức vận chuyển mới. Đây là chuyến đi rất quan trọng nhằm thăm dò tình hình địch phong toả trên biển, mở đường mới, tìm bến mới và những thông tin cần thiết khác. Từ kết quả của chuyến đi trinh sát, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định chuẩn bị đợt vận chuyển lớn vào chiến trường Khu V, Khu VI, Khu VIII, Khu IX.

Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức 17 chuyến đi, song chỉ có 5 chuyến vào được bến, 10 chuyến gặp địch tuần tra, kiểm soát gắt gao, để giữ bí mật của con đường chiến lược, đành phải quay về.

Từ tháng 10/1971 đến tháng 4/1972, Đoàn tổ chức liên tục 15 chuyến, kết quả tuy còn hạn chế nhưng có ý nghĩa quan trọng, đưa hàng vào bến mới thành công. Có thể nói, từ năm 1971 đến năm 1972 là giai đoạn cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 phải đối mặt với những thử thách gay go, ác liệt; trong đội ngũ trung kiên của Đoàn xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh dũng.

Ngày 12/4/1972, Tàu 645 do thuyền trưởng Lê Hà và chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy nhổ neo rời bến. Ngày 23/4, tàu gặp địch, buộc phải quay ra vùng biển quốc tế. Tàu khu trục của địch phát hiện và kèm sát tàu ta với ý đồ bắt sống Tàu 645. Chúng dùng loa hù dọa, yêu cầu đầu hàng thì sẽ không trừng trị, bảo đảm được an toàn nhưng anh em vẫn gan dạ, giữ vững ý chí, quyết tâm chiến đấu.

Gia đình Anh hùng liệt sỹ Nguyễn Văn Hiệu [Ảnh chụp năm 1964]

Gọi hàng không có kết quả, địch bắt đầu nổ súng, cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra quyết liệt. Một số cán bộ, chiến sĩ ta bị thương và hy sinh, tàu bị hỏng lái, không điều khiển được. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đề nghị anh em rời tàu, còn anh ở lại điểm hỏa hủy tàu. Khi anh định xuống nước thì phát hiện một tình huống vô cùng nguy hiểm, 16 thủy thủ phần lớn bị thương đang cụm lại thành khối dìu nhau bơi, lúc gần, lúc lại ra xa tàu. Do vậy, anh quyết định không rời tàu, ở lại chọn lúc tàu xa anh em mới điểm hoả. Thiếu úy Nguyễn Văn Hiệu đã anh dũng hy sinh cùng con tàu 645 [ngày 6/11/1978, Nguyễn Văn Hiệu được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND].

Giai đoạn 1965 đến 1972 là chặng đường vận chuyển hết sức kiên gan bền bỉ của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125. Nhiều con tàu ra đi không trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi biển cả mênh mông. Đếm sao hết số lần phải thi gan, đấu trí với địch; kể sao hết những tấm gương dũng cảm, đức hy sinh cao quý. Mỗi lần ra đi là một lần quyết tử, gặp địch là sẵn sàng chiến đấu, chấp nhận hủy tàu, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bí mật con đường. Địch chăng lối này, ta mở lối đi khác; phương thức này không thành, ta tìm ra phương thức khác…

Con đường vận chuyển trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại, góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh thắng Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

Theo Báo Hải quân Việt Nam

[Bqp.vn] - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần 21 năm, là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt và phức tạp nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh lâu dài ấy, đế quốc Mỹ đã nhiều keo thất bại phải bị động thay đổi chiến lược; ta đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của địch, giành thắng lợi từng bước làm thay đổi cục diện chiến trường, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Căn cứ vào những bước chuyển biến chiến lược của hai bên và diễn biến thực tế của chiến tranh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua năm giai đoạn chiến lược. Mỗi giai đoạn có nội dung chiến lược riêng của nó, phản ánh từng bước phát triển của cuộc kháng chiến, đánh dấu bước chuyển biến vê chất của cục diện chiến tranh, cuối cùng thực hiện bước nhảy vọt lớn nhất, giành toàn thắng, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến.

1. Giai đoạn từ tháng 7-1954 đến hết năm 1960

Trong giai đoạn chiến lược này, đối chiếu với diễn biến trên chiến trường miền Nam, có thể thấy sự lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có những điểm nổi bật như sau:

Đảng ta đã sớm xác định và chỉ rõ kẻ thù mới của dân tộc ta là đế quốc Mỹ và tay sai với chính sách xâm lược thực dân mới của chúng, sớm vạch ra một cách đúng đắn hai chiến lược cách mạng, phải đồng thời tiến hành trên hai miên Nam Bắc nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Ta đã khẩn trương ổn định, củng cố được miền Bắc làm căn cứ địa vững chắc, làm trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng cả nước. Đó là nhân tố cực kỳ quan trọng trước khi cả nước ta bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.

Sau một thời gian tìm giải pháp đưa cách mạng miền Nam tiến lên theo con đường đúng đắn, có lợi nhất, đầu năm 1959, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra được đường lối, phương pháp cách mạng giải phóng miền Nam thể hiện tập trung trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 15, đưa đến cuộc đồng khởi vĩ đại đánh thắng chiến lược đầu tiên của đế quốc Mỹ, đánh dấu một bước ngoặt của cách mạng miền Nam. Nghị quyết lịch sử đó về cơ bản đã định ra phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam, giải quyết đúng đắnmối quan hệ giữa giải phóng miền Nam và củng cố, bảo vệ miền Bắc, giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng quốc tế và phong trào bảo vệ hòa bình thế giới.

Cuộc “đồng khởi” nổ ra đồng loạt trên quy mô rộng lớn ở nông thôn đồng bằng Nam Bộ và miền núi Trung Bộ rất xa miền Bắc là một bất ngờ đối với Mỹ - Diệm, vì trước đó, hướng đề phòng chính của chúng là một cuộc tiến công quân sự từ miền Bắc vào. Chúng còn cho rằng, lực lượng cách mạng ở miền Nam đã bị tiêu diệt nên không lường được một cuộc nổi dậy khởi nghĩa của lực lượng chính trị trên diện rộng. Phương thức đấu tranh đúng đắn đã làm cho Mỹ - Diệm đối phó bị động, lúng túng. Hình thức thống trị bằng chủ nghĩa thực dân mới bị thất bại mà đế quốc Mỹ không thể tạo được cớ can thiệp vũ trang quy mô lớn và ngay từ đầu.

Với kinh nghiệm trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, trong điều kiện Mỹ - Diệm thống trị bằng chủ nghĩa thực dân mới, bằng cuộc đồng khởi ở địa bàn xã ấp, Đảng ta, nhân dân ta ở miền Nam đã sáng tạo và phát triển lên trình độ mới một phương thức đấu tranh mới của cách mạng. Đó là kết hợp hai chân [chính trị, vũ trang] và ba mũi [chính trị, quân sự, binh vận], tạo nên hiệu quả cao, đạt được mục tiêu đề ra, chuyển cách mạng lên thế tiến công địch, phát triển nhanh chóng lực lượng chính trị và lực  lượng vũ trang, đặt cơ sở để tiếp tục vận dụng, phát triển phương thức đâu tranh này khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và trong các giai đoạn sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Thời kỳ này ở miền Bắc, quân đội ta tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trước mắt, cùng toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, chấn chỉnh tổ chức, cải tiến trang bị, bước đầu xây dựng theo phương hướng chính quy, hiện đại. Việc tổng kết kinh nghiệm chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp bắt đầu được thực hiện. Công tác huấn luyện quân sự, diễn tập thực nghiệm và thực binh được đẩy mạnh.

Trình độ chiến đấu, nghệ thuật quân sự của quân đội ta có bước phát triển, tiến bộ mới trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, học tập kinh nghiệm của bạn và huấn luyện quân sự.

Ở miền Nam, lực lượng vũ trang mới hình thành, quy mô tổ chức của các đơn vị vũ trang tập trung phổ biến là trung đội, đại đội và một số tiểu đoàn. Hình thức tác chiến chủ yếu là du kích, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị và nổi dậy đồng khởi. Xuất hiện một số trận phục kích [Giồng Thị Đàm, Gò Quản Cung], tập kích [Tua Hai], bao vây bứt rút đồn bảo an dân vệ, diệt ác ôn... Vũ khí chủ yếu là thu của địch và tự tạo. Một số trận có kết hợp với vận động binh lính địch và nội ứng. Một số nơi đã xuất hiện chiến đấu chống càn, phối hợp giữa đấu tranh chính trị trực diện của quần chúng có tổ chức với tác chiến du kích của lực lượng vũ trang.

Đây là kết quả vận dụng kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp và có những phát triên mới về nghệ thuật quân sự trong điều kiện chủ nghĩa thực dân mới, đặc biệt là nghệ thuật chuyển từ đồng khởi sang chiến tranh cách mạng, từ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, dùng sức mạnh tổng hợp của “hai chân, ba mũi” để tiến công địch, phát triển cuộc chiến tranh nhân dân lên một trình độ mới.

2. Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965

Đe đối phó với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế mới và lực mới do cao trào Đồng khởi tạo ra, Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng giải phóng miền Nam lên giai đoạn mới. Từ đây, các cuộc khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành một cuộc chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền Nam.

Sự chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong giai đoạn này, có những điểm nổi bật sau:

Đã kịp thời chuyển cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, nhưng vẫn tiếp tục tiến hành khỏi nghĩa trong chiến tranh, kết hợp chiến tranh với khởi nghĩa; kịp thời nâng vị trí đâu tranh vũ trang lên theo yêu cầu của chiến tranh, nhưng vẫn thực hiện vũ trang và chính trị đi đôi, đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam phát triên lên đỉnh cao mới: đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược.

Tập trung đánh bại các biện pháp của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, nhưng hướng đúng mũi nhọn đâu tranh vào phá “ấp chiến lược” và làm thất bại các cuộc càn quét của quân chủ lực ngụy, làm phá sản mục tiêu chủ yếu trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy.

Không ngừng đẩy mạnh chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời chủ động tổ chức sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc.

Thành công của Đảng ta là xác định đúng chủ trương, phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Miền Bắc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân mạnh, có bộ đội chủ lực chính quy, trang bị ngày càng hiện đại, đủ sức bảo vệ miền Bắc, chi viện chiến trường miền Nam, làm nhiệm vụ quốc tế. Miền Nam xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, có lực lượng cơ động mạnh, đưa đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị. Hai phương hướng tác chiến là chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy phát triển vững chắc, tạo nên đòn quyết định đánh bại chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của Mỹ, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, phá vỡ từng mảng hệ thống ấp chiến lược. Với phương pháp tác chiến chiến lược đúng, ta đã từng bước chuyển hóa so sánh lực lượng, từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, phát huy sức mạnh của hai lực lượng, ba thứ quân, phối hợp ba mũi giáp công, giành quyền chủ động đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, tạo nên sức mạnh mới, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy.

Trong giai đoạn này, lực lượng vũ trang trên các chiến trường đã mở một số chiến dịch tiến công, quy mô tác chiến vừa và nhỏ. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm cả lực lượng vũ trang [chủ lực, địa phương] và lực lượng chính trị. Cách đánh chiến dịch là đánh điểm, diệt viện, phương châm [tư tưởng] chỉ đạo tác chiến là tiêu diệt địch ngoài công sự là chính. Địa bàn mở chiến dịch là nơi chiến tranh nhân dân phát triển, quần chúng được giác ngộ, có khả năng phối hợp, hiệp đồng tác chiến, tạo nên sức mạnh tiêu diệt địch, phá tan từng mảng ấp chiến lược. Thành công của ta về nghệ thuật tác chiến chiến dịch là vận dụng sáng tạo, phát triển cách đánh điểm diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chủ yếu. Việc chọn điểm tiến công mở đầu chiến dịch không nhất thiết là các mục tiêu quân sự quan trọng mà có thể là mục tiêu chính trị, kinh tế hiểm yếu.

Bước phát triển của nghệ thuật đánh viện trong các chiến dịch giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ là ta không chỉ đánh địch ra tăng viện, giải tỏa bằng đường bộ, đường sông như trong kháng chiến chống Pháp mà còn đánh địch ra tăng viện giải tỏa bằng đổ bộ đường không. Nghệ thuật đánh viện của ta là bố trí, cơ động, triển khai lực lượng bí mật, tạo lợi thế cho ta, đánh được địch ra bằng đường bộ và đổ bộ đường không; có thể chia, cắt, vây, tiến công vào bên sườn, phía sau... hạn chế chỗ mạnh về hỏa lực, khả năng cơ động của địch. Trong tiến công phải bám sát, đánh gần, đánh nhanh, chuyển hóa thế trận nhanh, đánh liên tiếp nhiều trận, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật như vận động tiến công, tập kích, phục kích. Tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc là hình thức chiến thuật được vận dụng linh hoạt. Quân đội ta đã tìm ra cách đánh thích hợp, trước hết là điều tra nắm chắc tình hình, cách bố trí phòng ngự của địch, xác định hướng tiến công, phương pháp mở cửa, cách đánh chiếm trận địa phòng ngự của địch. Tiếp đó, bí mật cơ động lực lượng, xây dựng trận địa xuất phát tiến công, đưa hỏa lực vào gần, bố trí ở nơi lợi thế để phát huy sức mạnh tiêu diệt công sự hỏa điểm địch, bí mật khắc phục vật cản, bổ sung, hiệp đồng, hoàn chỉnh công tác chuẩn bị tiến công... Trong tiến công, tổ chức hỏa lực mạnh, chính xác, bảo đảm cho bộ binh vượt qua cửa mở đánh chiếm khu vực đầu cầu để phát triển tiến công vào bên trong [tung thâm]. Trong đánh chiếm trận địa địch, bộ binh phải tổ chức thành các bộ phận đột kích mạnh, hiệp đồng chặt chẽ với hỏa lực chi viện trực tiếp để tiêu diệt từng mục tiêu, đánh chiếm nhanh từng công sự, trận địa địch. Vận động tiến công là hình thức chiến thuật được vận dụng phổ biến trong đánh địch khi chúng ra ngoài công sự vững chắc. Trong tổ chức chiến đấu, phải lựa chọn địa hình, xác định đúng khu vực tập trung diệt địch, tổ chức lực lượng nghi binh, chiến đấu tạo thế để đưa địch vào, giữ chúng lại, nhanh chóng cơ động lực lượng, triển khai thế trận tiến công. Trong tiến công phải đánh nhiều hướng, mũi, đánh nhanh, chuyển hóa thế trận nhanh, đánh liên tiếp nhiều trận, vận dụng linh hoạt và kết hợp nhiều hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu để tiêu diệt địch.

3. Giai đoạn từ năm 1965 đến hết năm 1968

Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ vào tham chiến trên quy mô lớn ở miền Nam, đẩy mạnh Chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn này, giai đoạn đánh thắng nỗ lực chiến tranh cao nhất của cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ, nổi lên những điểm sau:

Đã dự kiến sớm và đúng xu hướng phát triển của chiến tranh, nên có sự chủ động chuẩn bị đối phó. Khi địch đang đưa chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đến mức cao ở miền Nam [tháng 12-1963] ta đã dự kiến khả năng địch có thể leo thang lên nấc cao hơn và tiến hành “Chiến tranh cục bộ”; cũng như lúc địch đang còn tiến hành “bí mật phá hoại” đối với miền Bắc, ta đã dự kiến khả năng Mỹ đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân khi cuộc Chiến tranh đặc biệt bị thất bại. Do đó, trước sự thay đổi chiến lược và bước leo thang chiến tranh mới, Mỹ đưa hàng chục vạn quân ồ ạt vào miền Nam, dùng hàng ngàn máy bay, hàng chục tàu chiến đánh phá miền Bắc, ta đều chủ động chuẩn bị đối phó và đánh thắng bước đi chiến lược mới của Mỹ.

Đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, ta khi Mỹ đưa mấy chục vạn quân ồ ạt vào miền Nam; kiên định quyết tâm đánh Mỹ, giữ vững và thực hành chiến lược tiến công và kịp thời xác định quyết tâm trực tiếp đánh quân chiến đấu Mỹ với chủ trương chiến lược kết hợp phản công với tiến công; đã chỉ đạo đánh thắng Mỹ ngay từ những trận đầu, chiến dịch đầu, thời kỳ đầu. Đặc biệt, ta đã động viên xây dựng được quyết tâm và khí thế đánh Mỹ trên cả nước cao chưa từng thấy, củng cố được niềm tin và tập trung xây dựng lực lượng chủ động phát triển thế trận, giữ vững quyền chủ động tiến công; vận dụng linh hoạt các phương thức tác chiến, mở hướng tiến công chiến lược chính xác sáng tạo, liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 -1967 của địch cũng như đánh thắng không quân và hải quân Mỹ trên miền Bắc.

Đã chọn đúng hướng tiến công rất hiểm là thành thị, sáng tạo cách đánh mới trong Tết Mậu Thân – Xuân 1968 rất bất ngờ và đầy hiệu lực, giành thắng lợi oanh liệt khi Mỹ đang cố gắng cao nhất về quân sự, tạo được bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng; làm rung chuyển cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới; làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của giới cầm quyên Mỹ, mở đầu quá trình xuống thang chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Trong giai đoạn này ta đã thực hành chiến dịch tiến công và chiến dịch phản công quy mô lực lượng từ 1 - 4 sư đoàn bộ binh, cùng các đơn vị binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương. Trước đối tượng tác chiến mới, ta thường chọn vùng rừng núi làm địa bàn chính để mở chiến dịch. Ở địa bàn rừng núi, ta có thể dựa vào hậu phương  và hậu phương tại chỗ, vận chuyên tiếp tế thuận lợi, công tác chỉ huy, hiệp đồng, bảo đảm, cơ động lực lượng nhanh, bí mật, phát huy được sức mạnh của vũ khí mang vác và sở trường đánh gần.

Bước phát triển trong nghệ thuật tổ chức thực hành tác chiến chiến dịch giai đoạn này là ta đã đánh giá đúng tình hình, lựa chọn địa bàn, chọn khu vực [hướng] tiến công chủ yếu đúng. Vì thế ta đã hạn chế, phá được thế mạnh về hỏa lực, khả năng cơ động, sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng của địch; khoét sâu mặt yếu về tâm lý sợ bị  bao vây, chia cắt, đánh gần của quân Mỹ. Mặt khác, ta đã nghi binh, tạo thế, lừa, dụ, đưa địch ra đúng nơi ta đã dự kiến, đã lựa chọn để tập trung lực lượng, phương tiện, phát huy sức mạnh, cách đánh sở trường của ba thứ quân, tiến công tiêu diệt chúng.

Trong chiến dịch tiến công, ta đã vận dụng thành công cách đánh điểm diệt viện, tư tưởng chỉ đạo là lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính. Thành công trong vận dụng, phát triển cách đánh chiến dịch của ta là đã dự kiến, chuẩn bị nhiều phương án tác chiến để tiêu diệt địch trên đường bộ và địch đổ bộ đường không; tận dụng địa hình, lập thế trận tiến công vững chắc, cơ động, biến hóa. Dù trong tình huống nào, ta cũng giành quyền chủ động tiến công tiêu diệt địch. Trong tiến công, ta tập trung lực lượng, phương tiện trên những hướng chủ yếu theo phương án tác chiến, tạo ưu thế về lực lượng; đồng thời, vận dụng linh hoạt nhiều hình thức chiến thuật [vận động tiến công, đánh đổ bộ đường không, vận động phục kích, tập kích...]; kết hợp nhiều thủ đoạn chiến đấu [chốt chặn, chia cắt, thọc sâu, bám sát, đánh gần] để hạn chế hỏa lực, khoét sâu chỗ yếu sợ đánh gần của quân Mỹ; đánh thắng trận then chốt chiến dịch.

Trong chiến dịch phản công, ta kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự, ngăn chặn với cơ động tiến công. Bước phát triển về cách đánh chiến dịch thời kỳ này so với thời kỳ kháng chiến chống Pháp là ta sử dụng lực lượng vũ trang tại chỗ đểngăn chặn các mũi tiến công đường bộ của bộ binh, xe tăng, thiết giáp địch, kết hợp với cơ động tiến công tiêu diệt quân đổ bộ đường không trong căn cứ. Đồng thời, sử dụng một bộ phận chủ lực cơ động, tiến công vừa và vào bên sườn, phía sau quân địch, cùng lực lượng vũ trang địa phương bẻ gẫy các hướng tiến công chủ yếu, quan trọng của quân Mỹ.

Trong giai đoạn “Chiến tranh cục bộ”, trước đối tượng tác chiến chủ yếu là quân Mỹ, về mặt chiến thuật, ta đã vận dụng, có bước phát triển mới về hình thức và quy mô sử dụng lực lượng.

Để tiêu diệt địch, lực lượng vũ trang ta đã sáng tạo ra hình thức chiến thuật đánh quân đổ bộ đường không. Để đánh bại biện pháp chiến lược “tìm diệt” của địch, các lực lượng ta trên chiến trường tổ chức ra các “chốt” để kéo địch vào nơi đã chuẩn bị, bố trí sẵn lực lượng, tổ chức vận động tiến công tiêu diệt chúng.

Chiến thuật chốt kết hợp với vận động tiến công hình thành; chiến thuật tập kích phát triển thành chiến thuật vận động tập kích.

4. Giai đoạn từ năm 1969 đến tháng 1/1973

Thực hiệnchiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tập đoàn Níchxơn vừa từng bước rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam và ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền;vừa xuống thang chiến tranh, vừa phản công và tiến công rất quyết liệt. Chúng tập trung hầu hết lực lượng, thực hiện liên tiếp các kế hoạch bình định, mở hàng vạn cuộc hành quân càn quét, sử dụng các phương tiện chiến tranh rất hiện đại kể cả vũ khí hóa học, chiến tranh điện tử và không quân chiến lược.

Trong thời gian từ giữa năm 1968 đến cuối năm 1969, ta đánh giá địch chưa đúng, không nhận thấy những cố gắng mới của địch trong kế hoạch “bình định nông thôn”, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “học thuyết Níchxơn”, để có chủ trương đối phó phù hợp; đánh giá ta cũng chưa đúng, không thấy hết khó khăn sau năm1968, lực lượng ta bị hao mòn, tổn thất, phong trào cách mạng ở đồng bằng bị thất thế, bộ đội chủ lực mất chỗ đứng chân, phải chuyển ra ngoài biên giới, thế tiến công yếu xuống.

Ta vẫn chủ trương tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa; không nắm thật vững phương châm chiến lược ba vùng, do đó, cứ bị hút mãi vào đô thị, bỏ lỏng nông thôn, để cho địch triển khai các kế hoạch bình định, lực lượng ta hao tổn, cách mạng mất dân, mất đất, chủ lực mất thế tiến công.

Nhưng từ cuối mùa xuân 1970, nhất là hai năm 1971 - 1972, ta đã có nhiều nhận định đúng, quyết định đúng, kịp thời và sắc bén, quân và dân ta rất kiên quyết trong hành động phản công và tiên công tạo chuyển biến cục diện chiến trường, cục diện cuộc chiến tranh. Ta sớm dự kiến đúng và nhanh chóng khai thác sai lầm chiến lược của địch mở rộng nhanh chiến tranh sang Campuchia, cùng với bạn kịp thời phản công thắng lợi trước các cuộc tiến công của cả quân Mỹ, quân ngụy Sài Gòn và quân ngụy Lonnon ở Campuchia. Dự kiến chính xác ý đồ của địch đánh ra Trung Hạ Lào, cùng với bạn đánh bại cuộc hành quân của “bộ binh Ngụy hỏa lực Mỹ” ra Đường 9 - Nam Lào.

Tranh thủ thời cơ khi lực lượng Mỹ ngụy sa lầy ở Campuchia và thất trận ở Đường 9 - Nam Lào, ta phục hồi dần cơ sở và đẩy mạnh đánh phá bình định ở miền Nam.

Đặc biệt, nhờ chuẩn bị tốt cả thế và lực, nhằm đúng thời cơ các binh đoàn chủ lực của ta đã trở về đứng chân ở miền Nam đúng vào năm có bầu cử tổng thống ở Mỹ, địch muốn tình hình ổn định, ta tiến hành thắng lợi cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và đánh bại cuộc Chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành thắng lợi quyết định. Trong đàm phán, ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ “đánh và đàm”, làm thất bại mưu đồ đàm phán trên thế mạnh của địch, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc ra khỏi miền Nam, làm cho so sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.

Đây là giai đoạn phát triển cao các loại hình chiến dịch với các quy mô nhỏ, vừa và , diễn ra trên các loại địa hình, chủ yếu là rừng núi, thời gian chiến dịch dài, không gian chiến dịch rộng.

Trong các chiến dịch tiên công, ta vận dụng phương thức kết hợp đột phá thọc sâu với bao vây chia cắt, đánh địch trên toàn bộ chiều sâu phòng ngự chiến dịch của địch.

Thành công nổi bật trong nghệ thuật chiến dịch phản công của ta là kết hợp lực lượng tại chỗ mạnh với lực lượng chủ lực cơ động , đánh gãy từng cánh quân địch, làm đảo lộn ý định tiến công của chúng, buộc địch từ chủ động tiến công sang bị động đối phó, chịu thất bại, rút lui.

Trong các chiến dịch tiến công tổng hợp, phương thức hoạt động chủ yếu là kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị trên quy mô chiến dịch, kết hợp chặt chẽ cả về chiến dịch và chiến thuật, giữa tiến công quân sự của chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương với nổi dậy của quần chúng và công tác binh vận.

Trong các chiến dịch phòng ngự, ta xác định đúng thời điểm, chủ động chuyển vào phòng ngự [chiến dịch Cánh Đồng Chum]; xây dựng các trận địa có chính diện và chiều sâu hợp lý, có khả năng bám trụ dài ngày, giảm thương vong, tổn thất cho lực lượng phòng ngự.

Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự tích cực, vững chắc, ngoan cường với liên tục phản kích và các trận phản đột kích; kết hợp các hình thức vận động tiến công, tập kích, phục kích vào sau lưng địch của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Đánh địch trên nhiều hướng, đồng thời tập trung đánh gãy cánh quân tiến công chủ yêu của địch. Có lực lượng dự bị, kịp thời bổ sung quân số, vũ khí trang bị và thay phiên cùng với các biện pháp phòng không, phòng pháo để giảm bớt thương vong.

Giai đoạn 1969 - 1972, các hình thức, thủ đoạn chiến thuật của ta có bước phát triển rất quan trọng.

Trong tiến công và phản công, ta đã vận dụng các hình thức vận động phục kích, tập kích, vận động tiến công, đánh đổ bộ đường không, truy kích, tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc, tập kích bí mật bằng đặc công, công kiên, vây lấn…

Trong phòng ngự có phòng ngự trận địa, phòng ngự kết hợp chốt và vận động, cùng các hình thức chiến thuật khác.

Điểm nổi bật trong giai đoạn này là xuất hiện các trận tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô sư đoàn trong các chiến dịch tiến công và phản công.

5. Giai đoạn từ năm 1973 đến tháng 4/1974

Về sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn này, nổi lên những điểm sau đây:

Trong mấy tháng đầu [từ tháng 2 đến 4/1973] sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, sự chỉ đạo của ta có thiếu sót nhưng không quán triệt chủ trương chủ động đối phó với hành động phá hoại Hiệp định, lấn chiếm và bình định của Mỹ - Ngụy để địch gây cho ta nhiều thiệt hại, mất dân, mất đất ở một số vùng. Song, thiếu sót trên không kéo dài và cũng chưa ảnh hưởng đến cục diện và chiến lược. Ta đã phát hiện kịp thời và ra sức khắc phục, nên đã nhanh chóng chuyển thế chiến trường ngay từ giữa năm 1973.

Trong hoàn cảnh trong nước và quốc tế lúc đó rất phức tạp, song ta đã kịp thời xác định đúng cong đường tiến lên của miền Nam là dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của Mỹ - Ngụy [Nghị quyết ngày 21/7/1973]; nhạy bén phát hiện thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam phù hợp với so sánh lực lượng trong nước và bối cảnh quốc tế lúc đó [tháng 7-1974], hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác giải phòng miền Nam ngay trong hai năm 1975 - 1976 [tháng 10/1974] nếu để chậm thì tình hình có thể sẽ rất phức tạp, nguy hiểm chưa thể lường hết được.

Đã sớm chủ động, tích cực chuẩn bị chiến lược [từ đầu năm 1973], cả về thế và lực, cả ở miền Nam và miền Bắc, khôn khéo kết hợp với hoạt động tiến công ngoại giao để tranh thủ dư luận thế giới và nghi binh lừa địch… tạo được lực lượng lớn nhất và thế trận có lợi nhất để toàn quân và toàn dân bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Đã chỉ đạo sắc sảo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, chọn hướng tiến chiến lược đúng, chỉ đạo cách đánh đúng, nắm bắt nhanh diễn biến chiến trường và nhạy bén trước mọi động thái của địch, liên tục bổ sung quyết tâm chiến lược kịp thời với nhịp độ phát triển cực nhanh và yếu tố bất ngờ, sự táo bạo của cuộc tổng tiến công. Nét nổi bật là tạo thời cơ, thúc đẩy thời cơ, đẩy nhanh cuộc tổng tiến công với tốc độ cao chưa từng có, giảm được thương vong của bộ đội và nhân dân; giữ được nhiều thị xã, thành phố nguyên vẹn, giành được thắng lợi lớn nhất với thời gian ngắn nhất, thiệt hại thấp nhất, hoàn thành xuất sắc, vượt mức cả quyết tâm và kế hoạch dự định hơn hai năm, kết thúc toàn thắng trong gần hai tháng.

Chiến công oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đại thắng kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chứng minh đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng là hoàn toàn đúng; sự lãnh đạo và chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương rất chính xác, kịp thời, kiên quyết, táo bạo và sắc bén.

Điểm nổi bật về chiến lược quân sự giai đoạn này là vận dụng sáng tạo phương pháp tiến công chiến lược, chỉ đạo phối hợp chiến trường chặt chẽ.

Từ tiến công trên chiến trường trọng điểm Tây Nguyên, ta nắm bắt được thời cơ, tổ chức tiến công gối đầu chiến dịch Huế - Đà Nẵng và vận dụng phương pháp kế tiếp để chắc thắng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh. Khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn thì các chiến trường khác được lệnh đẩy mạnh tác chiến phối hợp không cho địch rút lực lượng đi ứng cứu cho Tây Nguyên. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lớn, các chiến trường kịp chuyển sang hành động theo phương án thời cơ. Sự phối hợp giữa các chiến trường, các thứ quân chặt chẽ, nhịp nhàng đã phát huy cao độ sức mạnh tiến công của ta, dồn địch vào thế hoàn toàn bị động chống đỡ, luôn bị bất ngờ, mất khả năng cơ động, chịu thất bại hoàn toàn và nhanh chóng.

Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam đã phát triển lên một bước mới, cao và hoàn chỉnh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Ta đã giải quyết thành công việc tổ chức các chiến dịch đồng thời và kế tiếp, vừa theo kế hoạch, vừa phát triển khi thời cơ xuất hiện. Trung tâm của toàn bộ cuộc tổng tiến công là các chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược: Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó là nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, đảm bảo đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức mạnh áp đảo trong chiến dịch.

Khi địch còn ổn định, có tổ chức thì cần tập trung hơn địch ở trọng điểm, đánh có chuẩn bị, chắc thắng [chiến dịch Tây Nguyên]. Khi địch hoang mang rút chạy thì cái chính là chớp thời cơ, đánh trong hành tiến [Huế, Đà Nẵng]. Khi đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch thì tập trung lực lượng ưu thế đến mức cao nhất có thể tập trung được, đảm bảo chắc thắng, thắng nhanh [chiến dịch Hồ Chí Minh].

Mỗi chiến dịch tiến công lớn trong cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975 có những đặc điểm địch, ta, địa hình và thời cơ chiến lược khác nhau nên có cách đánh cụ thể khác nhau. Nhìn chung, ta đã vận dụng 2 phương pháp tác chiến chiến dịch.

Một là, lần lượt tiêu diệt từng sư đoàn địch, đánh chiếm từng mục tiêu chiến dịch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng toàn bộ không gian chiến dịch [Chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng].

- Hai là, đồng loạt tiêu diệt các sư đoàn địch phòng ngự ở vòng ngoài, đồng thời thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu của chiến dịch ở bên trong, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ tập đoàn phòng ngự chiến dịch của địch, giải phóng không gian chiến dịch trong thời gian ngắn [chiến dịch Hồ Chí Minh].

Trong các chiến dịch mùa Xuân năm 1975, ta đã sử dụng và phát huy tốt tác dụng về sức mạnh của các quân binh chủng. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam ta sử dụng một biên đội không quân ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, thực hiện thắng lợi hiệp đồng quân binh chủng trong chiến dịch - chiến lược cuối cùng.

Nét đặc sắc về nghệ thuật chiến dịch của ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là cuộc tiến công như vũ bão của các binh đoàn chủ lực, ở bất cứ hướng nào, trong chiến dịch nào cũng luôn luôn gắn liền với nổi dậy của quần chúng ở cả nông thôn và đô thị trên địa bàn chiến dịch, thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển, kết hợp hai hình thức đấu tranh: đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, hai phương thức tiến hành chiến tranh: chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích, kết hợp tiến công với nổi dậy tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ trong phạm vi chiến dịch, tạo sức mạnh phi thường trong các chiến dịch tiến công mùa Xuân năm 1975.

Trong các chiến dịch mùa Xuân năm 1975, ta đã chỉ đạo vận dụng các hình thức chiến thuật rất linh hoạt như đánh cắt đường, tiến công địch trong các căn cứ, thị xã, thành phố lớn, vận dụng cả trong trường hợp có thời gian chuẩn bị, chuẩn bị gấp và tiến công trong hành tiến, vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không, truy kích v.v... Chiến thuật có bước phát triển lớn, thể hiện ở bày mưu lập kế, điều khiển địch theo ý định của ta, lừa nhử địch vào kế của ta mà đánh, đánh cả trong công sự và ngoài công sự, trên các loại địa hình [rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị và hải đảo], đánh địch co cụm, phản kích hoặc rút chạy, đánh địch trong điều kiện có chuẩn bị hoặc chuẩn bị gấp, đánh trong hành tiến, thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới [hoặc luồn sâu] vào trung tâm đầu não địch ở thị xã, thành phố... Đây là đỉnh cao về vận dụng chiến thuật của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Chiến thuật tiến công địch phòng ngự trong các căn cứ thị xã, thành phố đạt đến trình độ cao cả về vận dụng cách đánh, tổ chức sử dụng lực lượng và các trình độ hiệp đồng giữa các lực lượng, các hướng, các binh chủng.

Chiến thuật tiến công địch cơ động cũng có bước phát triển, nhất là chiến thuật vận động tiến công và truy kích.

Tiến công trong hành tiến đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội ta về trình độ tổ chức chỉ huy nhằm tranh thủ thời gian, tận dụng thời cơ để phát triển chiến dịch, chiến đấu.

Các chiến thuật độc lập của các quân chủng, binh chủng cũng được vận dụng rộng rãi và có bước phát triển mới.

Tận dụng các đòn tiến công quy mô lớn của bộ đội chủ lực, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh, diệt ác trừ gian, hỗ trợ quần chúng nổi dậy theo phương châm “xã giải phóng xã, quận giải phóng quận...”. Chiến thuật du kích phát triển, cùng nhân dân vũ trang bao vây, tiến công bức hàng và làm tan rã hàng nghìn đồn bốt, tháp canh của địch bảo vệ các nhà máy, công sở, không để địch phá hoại, tẩu tán; vận động địch ra trình diện, giữ trật tự an toàn vùng mới giải phóng...

Trải qua gần 21 năm chiến đấu kiên cường, qua năm giai đoạn chiến lược, nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh thực dân với quy mô  nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Quy luật phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam là kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị kết hợp chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, tiến công quân sự và nôi dậy của quần chúng, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Trong mối quan hệ với đấu tranh chính trị, vai trò của đấu tranh vũ trang ngày càng nổi lên. Về cuối cuộc chiến tranh, nó đã giữ vị trí quyết định và chi phối. Trong toàn bộ các hình thức đấu tranh để thực hiện chiến lược tổng hợp, hình thức đấu tranh vũ trang và nghệ thuật của nó - tức nghệ thuật quân sự giữ vai trò trung tâm trong việc giải quyết những nhiệm vụ chiến lược của cuộc kháng chiến trên cả hai miền đất nước nhằm mục tiêu đánh thắng địch về quân sự, làm thất bại các chiến lược chiến tranh, đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân của ta giải quyết tốt mối quan hệ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và các mặt đấu tranh khác trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài.

Sự vận dụng sáng tạo nghệ thuật đó biểu hiện tập trung và rõ nét trên mấy vấn đề sau đây:

- Nghệ thuật mở đầu cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam bằng cuộc đồng khởi vĩ đại, chuyển thành chiến tranh cách mạng. Ta chủ động mở đầu cuộc chiến tranh bằng chính trị và khởi nghĩa bộ phận, đánh vào khâu yếu nhất của địch hồi đó là chính quyền cơ sở, tạo ra và phát triển thế và lực tại chỗ, đẩy địch vào cuộc khủng hoảng triền miên, bị động cả về chính trị, quân sự, ngoại giao ngay từ đầu. Cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển hẳn sang thế tiên công. Ta đã mở đầu cuộc chiến tranh đúng thời cơ lịch sử, vào lúc tình thế cách mạng chín muồi ở miền Nam và bằng phương thức thích hợp, do bản thân nhân dân miền Nam trực tiếp khởi động.

- Nghệ thuật điều khiển chiến tranh trên thế chủ động. Ta luôn giữ thế tiến công kiên quyết, chủ động tích cực, kết hợp quân sự, chính trị thực hành tiến công địch bằng hai chân [quân sự, chính trị], ba mũi [quân sự, chính trị, binh địch vận], đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Ta kiên quyết chiếm lĩnh và xây dựng thế trận tiến công ở địa bàn kề cận các trung tâm chính trị, các căn cứ quân sự, đường giao thông chiến lược để chia cắt và tiến công địch, tập trung đánh bại từng thủ đoạn và biện pháp tác chiến, từng chiến lược chiến tranh của địch.

Kết hợp đánh thắng cuộc chiến tranh trên bộ của Mỹ ở miền Nam với đánh thắng Chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đôi với miền Bắc; sự phối hợp chiến trường trên phạm vi cả nước ta, giữa nhân dân ba nước Đông Dương từ khi Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, hình thành và phát triển thế chiến lược tiến công chung của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương; kiềm chế và thắng địch ở miền Nam, ở Việt Nam, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương thì thắng địch ở Đông Dương, không để địch mở rộng thành xung đột khu vực và quốc tế. Đó là biểu hiện sự sáng tạo cao của nghệ thuật chiến tranh trong đánh thắng chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ.

Kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao, tiến công địch toàn diện. Lấy thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường và trong nước để tạo thế cho đấu tranh ngoại giao. Thắng lợi của đấu tranh ngoại giao lại tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự và chính trị thắng lớn hơn. Trong mối quan hệ này,  nghệ thuật kết hợp cần luôn nắm chắc thắng lợi của đấu tranh quân sự và chính trị làm cơ sở và tạo thế mạnh để đẩy mạnh tiên công ngoại giao, làm thất bại ý đồ thương lượng trên thế mạnh của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ ngày càng sâu rộng của nhân loại tiến bộ trong đó có cả nhân dân Mỹ, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để đánh thắng chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ.

- Nghệ thuật kết thúc chiến tranh của ta là đẩy Mỹ ra, tạo điều kiện đánh sập toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền miền Nam. Tiến hành chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị chiến trường, tạo thế, tạo lực và nắm thời cơ mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy với tinh thần quyết chiến, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.

Nghệ thuật chiến tranh của ta đã biết mở đầu đúng, biết đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước tạo những bước chuyển lớn của chiến tranh. Chúng ta cũng đã biết kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến hợp với thời cơ lịch sử, có lợi nhất cho cách mạng nước ta và thế giới.

Nghệ thuật tiến hành chiến tranh của ta là nghệ thuật đánh thắng về quân sự một kẻ thù mạnh trong một cuộc chiến tranh lâu dài đối đầu với một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới cực kỳ ác liệt, phức tạp.

Điểm nổi bật ở đây không chỉ là phát triển nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân đến mức cao ở cả hai miền đất nước mà còn là sự hình thành và phát triển khá hoàn thiện một nghệ thuật đấu tranh chính trị đặc sắc, làm cho chính trị không chỉ là nền tảng cơ bản của cuộc chiến tranh nhân dân ta mà còn là một phương thức tiến công địch có hiệu lực chiến lược cao, trực diện tiến công địch trên chiến trường.

Chiến tranh nhân dân của ta thật sự là chiến tranh do dân, vì dân. Chính trị trong chiến tranh của ta là chính trị quân sự, còn quân sự của ta là quân sự chính trị. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh hay nhất, đạt hiệu lực chiến lược lớn nhất của ta là nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao phát triển đến trình độ cao.

Đặc điểm cơ bản của nền nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân đó là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh về kinh tế và vật chất kỹ thuật, lấy ít đánh nhiều về lực lượng vũ trang tập trung, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn và kém hiện đại đánh thắng quân địch có trang bị kỹ thuật dồi dào và hiện đại hơn. Nó biểu thị một tư duy quân sự rất sáng tạo, tiêu biểu cho học thuyết chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

[Bách khoa Tri thức Quốc phòng toàn dân]

Video liên quan

Chủ Đề