Cơ thể người trưởng thành có bao nhiêu chiếc xương

TPO - Em bé cũng có những loại xương giống người lớn, ví dụ mỗi chân sẽ có một chiếc xương đùi và mỗi tay sẽ có một chiếc xương cánh tay. Khi còn bé, cơ thể con người thường có nhiều xương hơn khi trưởng thành. Tại sao lại như vậy?

Trẻ em có nhiều xương hơn so với người lớn: Cơ thể người trưởng thành có 206 xương, nhưng ở trẻ sơ sinh con số này khoảng 300. Cùng nhìn vào một chiếc xương cánh tay của em bé dưới đây:

Bạn có nhìn thấy 2 khúc xương được đánh dấu màu vàng không? Chúng là hai phần của cùng một chiếc xương. Giữa hai khúc này là một thành phần mềm và đàn hồi giống cao su, được gọi là đĩa sụn (được đánh dấu bằng mũi tên màu xanh).

Cơ thể người trưởng thành có bao nhiêu chiếc xương

Phần sụn này chính là nơi xương phát triển khi một em bé dần dần trưởng thành. Khi trẻ dần đến tuổi dậy thì, đĩa sụn này bắt đầu quá trình vôi hóa (biến thành xương) và hợp hai mảnh xương thành một mảnh duy nhất – đây chính là lí do tại sao chúng ta thường ngừng cao sau tuổi dậy thì.

Quan sát những tấm hình này, chúng ta cũng biết rằng khi xương phát triển, nó phát triển nhiều hơn ở hai đầu nơi có đĩa sụn thay vì ở giữa.Đây là hình ảnh xương cánh tay của một người lớn sau khi đĩa sụn đã thành xương:

Cơ thể người trưởng thành có bao nhiêu chiếc xương

Điều này được áp dụng cho tất cả các loại xương trên cơ thể trẻ em, bao gồm cánh tay, bàn tay, chân và bàn chân, … nên chúng ta có thể tưởng tượng ra số lượng xương mà trẻ em có nhiều hơn khi mới được sinh ra là nhiều như thế nào.

Một ví dụ khác là hộp sọ. Xương sọ được chia thành nhiều phần khác nhau giúp cho đầu của em bé dễ dàng ra ngoài trong quá trình sinh nở. Sau đó những phần này kết hợp lại với nhau để tạo thành một cấu trúc chắc chắn hơn để bảo vệ não ở bên trong.

Kết luận: Trẻ em có nhiều xương hơn bởi chúng cần phải lớn lên. Xương dính vào nhau khi chúng ta lớn dần lên là nguyên nhân khiến số lượng xương bị giảm. Và qua tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ khó có thể cao hơn được bởi lớp đĩa sụn tiếp hợp đã hết. Nhưng chúng ta vẫn có thể khỏe hơn vì độ cứng và độ dày của xương vẫn sẽ tiếp tục phát triển.

Những điều thú vị về xương

Xương bàn tay, bàn chân chiếm hơn một nửa: Theo Healthmeup, xương không phân bố đều khắp cơ thể, một số khu vực có số lượng nhiều hơn so với những vùng khác. Mỗi bàn tay có 27 xương, và mỗi bàn chân có 26 xương , tổng 106. Vì vậy, bộ phận này chiếm hơn một nửa số xương trong toàn cơ thể.

Xương không phải là chất cứng nhất trong cơ thể người. Chất cứng nhất trong cơ thể con người chính là lớp men răng. Nồng độ cao của các khoáng chất, như muối, canxi là nguyên nhân làm men răng cứng.

Xương ngón chân là mỏng nhất trong cơ thể: Các xương ở ngón chân nhỏ dễ bị vỡ và vỡ thường xuyên nhất. Hầu như mỗi người đều bị gãy một ngón chân, thậm chí ngón nhỏ. Thông thường, bạn không thể làm gì ngoài việc để nó tự lành.

Loãng xương là căn bệnh phổ biến nhất. Đây là bằng chứng cho sự suy giảm trong cấu trúc và khối lượng xương. Điều đó xảy ra khi xương bị mất dần khoáng chất, đặc biệt là canxi, gây yếu dần và dễ gãy.

Vì sao trẻ bị gãy xương lại nhanh liền hơn người lớn?

Quá trình liền xương của trẻ em và người lớn giống nhau. Nhưng sự khác biệt duy nhất là quá trình này ở trẻ em diễn ra nhanh hơn nhiều hơn so với người lớn. Nguyên nhân là do khi bạn còn trẻ, quá trình tái sinh xương xảy ra nhanh hơn quá trình hủy xương. Trong suốt cuộc đời, cơ thể bạn liên tục loại bỏ tế bà xương cũ và thay thế bằng tế bào xương mới. Khi bạn già đi, các tế bào sinh xương được sản xuất ít hơn các tế bào hủy xương. Đây cũng là lý do khi người trưởng thành bị gãy xương phải mất nhiều thời gian để hồi phục hơn so với trẻ em.

Hệ thống xương của một người trưởng thành bao gồm 206 cái xương, 32 chiếc răng và một mạng lưới các cấu trúc khác kết nối xương lại với nhau. Những người Ai Cập cổ đại là những người đầu tiên chế tạo ra chân, tay giả. Vào khoảng 3.000 năm trước đây, người Ai Cập cổ đại đã tạo ra bộ phận thay thế chức năng đầu tiên: một chiếc ngón chân cái nhân tạo.

Cá mập thay đến hàng ngàn cái răng trong đời

Răng thì không được tính là xương, nhưng chúng vẫn là một phần của hệ thống xương. Hầu hết con người có 52 răng trong cuộc đời, 20 răng sữa được thay từ khi còn nhỏ và 32 cái răng vĩnh viễn.

Cá mập thì lại khác, chúng có răng cửa hình cưa và rất nhiều các hàng răng thay thế. Những hàng răng này dịch chuyển đều đặn, ổn định về phía trước khi răng cửa rụng đi. Nhiều khi, cá mập thay răng thường xuyên đến nỗi khoảng thời gian giữa hai đợt thay răng chỉ tầm 8 đến 10 ngày. Tốc độ thay răng như vậy cũng có nghĩa là một con cá mập thay khoảng 30.000 cái răng trong đời.

Hệ vận động ở con người gồm có hai phần: Phần thụ động gồm bộ xương và hệ liên kết các xương (khớp xương), phần vận động gồm có hệ cơ, hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thần kinh. Xương gồm 206 chiếc, dài ngắn khác nhau, hợp lại tạo thành bộ xương nâng đỡ cơ thể, che chở cho các nội quan khỏi những chấn thương lý học. Hệ cơ gồm khoảng 600 cơ tạo thành, là những cơ vân (hay cơ xương) bám vào hai đầu xương giúp cho cơ thể cử động. Nhờ hệ vận động mà cơ thể ta có hình dạng nhất định, thể hiện được những động tác lao động, biểu lộ được những cảm xúc của mình. Trải qua thời kì dài tiến hóa, hệ vận động người được coi là tiến hóa nhất trong sinh giới nói chung và giới Động vật nói riêng.

Bộ xương[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ thể người trưởng thành có bao nhiêu chiếc xương
Bộ xương người nhìn từ đằng trước

Bộ xương, các loại xương và khớp xương người[sửa | sửa mã nguồn]

Các thành phần chính của bộ xương[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ xương người chia làm ba phần là xương đầu (gồm các xương mặt và khối xương sọ), xương thân (gồm xương ức, xương sườn và xương sống) và xương chi (xương chi trên - tay và xương chi dưới - chân). Tất cả gồm 300 chiếc xương ở trẻ em và 206 xương ở người trưởng thành, dài, ngắn, dẹt khác nhau hợp lại ở các khớp xương. Trong bộ xương còn có nhiều phần sụn. Khối xương sọ ở người gồm 8 xương ghép lại tạo ra hộp sọ lớn chứa não. Xương mặt nhỏ, có xương hàm bớt thô so với động vật vì nhai thức ăn chín và không phải là vũ khí tự vệ. Sự hình thành lồi cằm liên quan đến các cơ vận động ngôn ngữ. Cột sống gồm 33 - 35 đốt sống khớp với nhau và cong ở 4 chỗ, thành 2 chữ S tiếp nhau giúp cơ thể đứng thẳng. Các xương sườn gắn với cột sống và gắn với xương ức tạo thành lồng ngực, bảo vệ tim và phổi. Xương tay và xương chân có các phần tương ứng với nhau nhưng phân hóa khác nhau phù hợp với chức năng đứng thẳng và lao động.

Các loại xương[sửa | sửa mã nguồn]

Căn cứ vào hình dạng cấu tạo, người ta phân biệt bốn loại xương là:

  • Xương dài: cấu trúc hình ống, có mô xương xốp ở hai đầu xương, giữa chứa tủy đỏ ở trẻ em và chứa mỡ vàng ở người trưởng thành như xương cánh tay, xương đùi, xương cẳng chân,... Loại xương này có nhiều nhất.
  • Xương ngắn: kích thước ngắn, chẳng hạn như xương đốt sống, xương cổ chân, cổ tay,...
  • Xương dẹt: hình bản dẹt, mỏng như xương bả vai, xương cánh chậu, các xương sọ. Loại xương này ít nhất.
  • Xương không đều (xương hình bất định): là những xương có hình thể phức tạp như xương hàm trên, xương thái dương, xương ở nền sọ.

Các khớp xương[sửa | sửa mã nguồn]

Nơi tiếp giáp giữa các đầu xương gọi là khớp xương. Có ba loại khớp là: khớp động như các khớp ở tay, chân; khớp bán động như khớp các đốt sống và khớp bất động như khớp ở hộp sọ.

  • Khớp động là loại khớp cử động dễ dàng và phổ biến nhất trong cơ thể người như khớp xương đùi và xương chày, khớp xương cánh chậu và xương đùi. Mặt khớp ở mỗi xương có một lớp sụn trơn, bóng và đàn hồi, có tác dụng làm giảm sự cọ xát giữa hai đầu xương. Giữa khớp có một bao đệm chứa đầy chất dịch nhầy do thành bao tiết ra gọi là bao hoạt dịch. Bên ngoài khớp động là những dây chằng dai và đàn hồi, đi từ đầu xương này qua đầu xương kia làm thành bao kín để bọc hai đầu xương lại. Nhờ cấu tạo đó mà loại khớp này cử động dễ dàng. Khớp động phức tạp nhất trong cơ thể người là khớp gối.
  • Khớp bán động là loại khớp mà giữa hai đầu xương khớp với nhau thường có một đĩa sụn làm hạn chế cử động của khớp. Khớp bán động điển hình là khớp đốt sống, ngoài ra còn có khớp háng. Ở trẻ em, có xương chậu...các đĩa sụn rất đàn hồi nên dễ uốn lưng mềm mại hay xoạc chân ra dễ dàng. Trái lại ở người trưởng thành và nhất là người già, các đĩa sụn dẹp lại làm cột sống khó cử động hơn, xoạc chân ra khó khăn.
  • Khớp bất động: Trong cơ thể có một số xương được khớp cố định với nhau, như xương hộp sọ và một số xương mặt. Các xương này khớp với nhau nhờ các răng cưa nhỏ hoặc do những mép xương lợp lên nhau kiểu vảy cá nên khi cơ co không làm khớp cử động.
  • Trong cơ thể con người có tất cả 360 khớp xương: khớp sọ: 86; khớp họng: 6; khớp cột sống và xương chậu: 76; khớp tay: 32 (2 tay: 64); khớp chân: 31 (2 chân: 62); khớp ngực: 66

Cấu tạo và tính chất của xương[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu tạo và sự phát triển của xương[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cấu tạo và chức năng của xương: Hai đầu xương là mô xương lồi có các xương xếp theo kiểu đường thẳng, phân tán lực tác động và tạo ô chứa tủy xương. Bọc hai đầu xương là lớp sụn để giảm các lực ma sát trong đầu xương. Đoạn giữa là trục xương. Thân xương hình trụ, cấu tạo từ ngoài vào trong có: màng bảo vệ mỏng, mô xương và khoang xương. Màng xương giúp xương phát triển về bề ngang. Mô xương cứng chịu lực, đảm bảo tính vững chắc cho xương. Khoang xương chứa tủy xương, ở trẻ em là tuỷ đỏ sinh hồng cầu; ở người trưởng thành tủy đỏ được thay bằng mô mỡ màu vàng nên gọi là tủy vàng.
  • Cấu tạo xương ngắn và xương dẹt: xương ngắn và xương dẹt không có cấu tạo hình ống, bên ngoài là mô xương cứng, bên trong lớp mô xương cứng là mô xương xốp gồm nhiều nan xương và hốc trống nhỏ (như mô xương xốp ở đầu xương dài) chứa tủy đỏ.

Xương to ra về chiều ngang là nhờ các tế bào màng xương phân chia tạo ra những tế bào mới đẩy tế bào cũ vào trong rồi hóa xương. Xương dài ra là nhờ quá trình phân bào ở sụn tăng trưởng. Ở tuổi thiếu niên xương phát triển nhanh. Đến 18 - 20 tuổi ở nữ hoặc 20 - 25 tuổi đối với nam xương phát triển chậm lại. Ở người trưởng thành, sụn tăng trưởng không còn khả năng hóa xương, vì thế người không cao thêm. Người già xương bị phân hủy nhanh hơn sự tạo thành, tỉ lệ cốt giao giảm, vì vậy xương người già xốp giòn và dễ gãy và nếu gãy thì xương phục hồi rất chậm, không chắc chắn.

Thành phần hóa học và tính chất của xương[sửa | sửa mã nguồn]

Xương có hai đặc tính cơ bản: mềm dẻo và bền chắc. Nhờ tính mềm dẻo nên xương có thể chống lại tất cả các lực cơ học tác động vào cơ thể, nhờ tính bền chắc mà bộ xương có thể nâng đỡ cơ thể. Độ bền chắc của xương người trưởng thành có thể gấp 30 lần so với loại gạch tốt. Sở dĩ xương có được hai tính chất trên là nhờ vào thành phần hóa học. Xương được cấu tạo từ 2 chất chính: một loại chất hữu cơ gọi là cốt giao và một số chất vô cơ là các muối calci. Chất khoáng làm cho xương bền chắc, cốt giao đảm bảo tính mềm dẻo. Tỉ lệ cốt giao thay đổi tùy theo tuổi. Trong xương người trưởng thành, cốt giao chiếm 1/3 còn các muối calci chiếm khoảng 2/3. Nếu ta đem tách riêng hai chất này thì xương không đạt đủ hai đặc tính trên.

Thí nghiệm: lấy hai xương đùi ếch: một xương ngâm trong dung dịch a-xit clo-hi-đric (HCl) 10% để hòa tan hết các muối calci, còn một xương đốt trên ngọn lửa đèn cồn để đốt cháy hết cốt giao. Sau 10 - 15 phút lấy đoạn xương ngâm trong HCl 10% ra ta dễ dàng uốn cong, thậm chí thắt nút lại được như một sợi dây đoạn xương này vì nó rất mềm. Đợi đến khi không còn khói bay lên ta tắt đền cồn rồi bóp nhẹ phần xương đã đốt thì thấy nó vỡ vụn ra. Tuy vậy khi lấy hai đoạn xương ra chúng vẫn giữ nguyên hình dạng.

Ở trẻ em, cốt giao lại chiếm tỉ lệ cao hơn so với muối calci, vì vậy xương trẻ em mềm dẻo hơn xương người lớn.

Hệ cơ[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ bám vào xương, dưới sự chỉ đạo của hệ thần kinh, cơ co làm cho xương cử động, vì vậy các cơ này gọi là cơ xương (còn gọi là cơ vân). Cơ thể người có khoảng 600 cơ tạo thành hệ cơ, chưa kể đến các cơ vận động nội tạng (cơ tạng hay cơ trơn) và cơ vận động tim (cơ tim). Tùy vị trí trên cơ thể và tùy chức năng mà cơ có hình dạng khác nhau: hình tấm, hình lông chim, nhiều đầu hay nhiều thân,... điển hình nhất là bắp cơ (vẫn quen gọi là con chuột) ở cánh tay có hình thoi dài.

Cấu tạo và tính chất của cơ[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu tạo của bắp cơ và tế bào cơ[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ thể người trưởng thành có bao nhiêu chiếc xương
Cấu tạo bắp cơ, bó cơ, sợi cơ, tơ cơ và đơn vị cấu trúc sợi cơ

Bắp cơ gồm nhiều bó cơ, mỗi bó gồm nhiều sợi cơ (tế bào cơ) nắm dọc theo chiều dài bắp cơ. Hai đầu bắp cơ thuôn lại, dài ra thành gân bám vào các xương qua khớp, phần giữa phình to gọi là bụng cơ. Bắp cơ càng khỏe, bũng cơ càng phình làm nổi lên cơ bắp. Trong bắp cơ có nhiều mạch máu và dây thần kinh, chia thành nhiều nhánh nhỏ đi đến từng sợi cơ. Nhờ thế mà cơ tiếp nhận được chất dinh dưỡng và các kích thích. Mỗi sợi cơ là một tế bào cơ dài 10 – 12 cm, có màng sinh chất, chất tế bào và nhiều nhân hình bầu dục. Trong chất tế bào có nhiều tơ cơ nhỏ nằm song song. Mỗi tơ cơ gồm những đoạn màu sáng và màu sẫm nằm xen kẽ nhau tạo thành vân ngang, đó là các đĩa sáng và đĩa tối. Tơ cơ có hai loại là tơ cơ dày và tơ cơ mảnh xếp xen kẽ nhau. Tơ cơ mảnh thì trơn, tơ cơ dày có mấu sinh chất. Giới hạn giữa tơ cơ dày và tơ cơ mảnh giữa hai tấm Z là đơn vị cấu trúc của tế bào cơ (còn gọi là tiết cơ).

Sự co cơ[sửa | sửa mã nguồn]

Co cơ là hiện tượng các cơ trong cơ thể co hoặc giãn dưới các tác động khác nhau của các dạng năng lượng sinh hóa, cơ học,... trong cơ thể con người hoặc động vật. Quá trình co cơ này liên quan mật thiết tới việc tìm hiểu nguyên lý vận động của hệ thống cơ của các đối tượng động vật hoặc con người. Nghiên cứu về hiện tượng co cơ có thể giải thích được một lượng lớn các yếu tố liên quan tới năng lượng vận động, các chuyển hóa hoá học nhằm giải thích các hiện tượng sinh lý học trong cơ thể con người. Nghiên cứu về co cơ có liên quan mật thiết tới sinh lý cơ trong cơ thể.

Hiện nay, rất nhiều các nhà khoa học trên thế giới tìm ra các phương pháp khác nhau để tìm hiểu các cơ cấu phân tử của quá trình co cơ bởi đây là nền tảng cơ sở để giải thích các hiện tượng khác. Các nghiên cứu này có thể được thực hiện bằng một số cách sau:

  • Nghiên cứu trực tiếp trên cơ thể toàn vẹn (in vivo).
  • Nghiên cứu một cơ quan bằng cách tách rời cơ quan hoặc bộ phận ra khỏi mối liên hệ thần kinh với cơ thể toàn vẹn nhưng vẫn giữ nguyên sự nuôi dưỡng thông qua các mạch máu (in situ).
  • Có thể nghiên cứu bằng cách tách rời một cơ quan, cơ thể hoặc tế bào ra khỏi cơ thể và nuôi dưỡng trong điều kiện dinh dưỡng và nhiệt độ giống như trong môi trường cơ thể động vật hoặc cơ thể người (in vitro).

Với 3 phương pháp thực nghiệm trên kết hợp với việc sử dụng các dụng cụ đo lường điện tử và quan sát khác nhau và việc thay đổi các tác nhân tác động về cơ học, lý học, hóa học, các điều kiện về môi trường,... các nhà nghiên cứu có thể quan sát được các hoạt động chức năng, những thay đổi chức năng của các cấu trúc cơ trong cơ thể nhằm từ đó tìm hiểu được các cơ chế hoạt động, các ưu điểm, nhược điểm của các tác động và đưa ra các kiến giải hợp lý cho các quá trình thay đổi đó.

Người trưởng thành có bao nhiêu chiếc xương trọng cơ thể?

Trẻ nhỏ sinh ra với khoảng 300 chiếc xương, nhiều hơn ở người trưởng thành gần 100 xương và các xương luôn phát triển, thay đổi hình dạng mỗi ngày.

Người trưởng thành có bao nhiêu cái xương sườn?

Hầu hết mỗi người trưởng thành sẽ có 24 xương sườn (12 cặp). Tuy nhiên, cứ khoảng 500 người thì có một người có thêm một cái xương sườn phụ, được gọi là xương sườn cổ. Chiếc xương này mọc ở phần cổ trên xương đòn, thường không thành hình hoàn chỉnh và đôi khi chỉ là một sợi mô rất mỏng.

Xương của con người cơ thể chịu được bao nhiêu kg?

Xương thật sự vô cùng khỏe. Khỏe nhất ở cơ thể chúng ta là xương đùi. Một mẩu xương với kích cỡ của một bao diêm có thể chịu được sức nặng tới 9 tấn, gấp 4 lần mức chịu lực của bê tông.

Tại sao trẻ em lại có nhiều xương hơn người lớn?

Kết luận: Trẻ em có nhiều xương hơn bởi chúng cần phải lớn lên. Xương dính vào nhau khi chúng ta lớn dần lên là nguyên nhân khiến số lượng xương bị giảm. Và qua tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ khó có thể cao hơn được bởi lớp đĩa sụn tiếp hợp đã hết.